BỒ TÁT ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM
Ngày 3 tháng 10 năm 1986
Bồ Tát Quán Tự Tại trong vô lượng kiếp về trước đã thành tựu Phật quả, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Do nguyện lực từ bi, Bồ Tát chèo ngược thuyền từ trở lại Ta Bà, lần theo tiếng khẩn nguyện của chúng sanh cứu khổ. Cho nên nói “ngàn nơi nguyện cầu ngàn nơi ứng, biển khổ làm thuyền độ người qua” [1]. Bồ Tát nguyện đại từ với cả những người không có duyên và đại bi với tất cả muôn loài[2], nên có khả năng cứu được bảy nạn[3], giải trừ ba độc[4], ứng nghiệm hai điều mong cầu[5]. Bồ Tát khi còn tu tập Sơ địa[6], gặp được Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai, được truyền cho thần chú Đại Bi, Đức Phật hiện ánh sáng vàng tía, lấy tay xoa đầu, Bồ Tát nhờ thần lực Phật đạt đến địa thứ tám (Bất Động địa), vui mừng hớn hở mà phát nguyện rằng: “Nếu đời vị lai con có thể làm lợi ích chúng sanh, nguyện cho con có được ngàn tay ngàn mắt”. Phát nguyện xong, quả đất liền chấn động theo sáu cách, mười phương Chư Phật đồng phóng hào quang chạm đến thân Bồ Tát, ngàn mắt ngàn tay liền được đầy đủ. Bồ Tát liền đối trước Phật thưa rằng: “Nếu chúng sanh nào trì tụng thần chú Đại Bi, ngay trong đời này nếu không thành tựu được tất cả những điều mong cầu thì không gọi là Đại Bi Tâm Đà La Ni”. Đời Hậu Lương thời Ngũ Đại[7], một hôm có một vị Tăng thỉnh tượng đồng Đại Sĩ về nước phụng thờ, khi thuyền đến núi Phổ Đà, vị Tăng dừng chân lại núi này, thấy xuất hiện vô số điều linh ứng, từ đấy núi Phổ Đà trở thành thánh địa Phật giáo. Có một câu liễn viết rằng: “Xin hỏi Bồ Tát sao ngồi nghịch hướng? Than rằng chúng sanh chẳng chịu hồi đầu”. Cho nên có câu “biển khổ vô biên, quay đầu là bờ”[8]. Vì sao chúng sanh không chịu hồi đầu? Do bị danh lợi và tình ái làm mê mờ, nếu ai có thể nhìn thấu và buông bỏ thì liền được tự tại.
Khen rằng:
Đại từ đại bi
Cứu khổ cứu nạn
Hết thảy chúng sanh
Cùng đến bờ kia.
Không từ gian khổ
Thị hiện muôn nơi
Độ khắp mọi loài
Không phân giàu khó.
Lại nói kệ rằng:
Phổ Đà thường hiện tiếng hải triều
Chúng sanh Ta Bà kết duyên sâu
Ngàn tay hộ trì cùng muôn loại
Mắt tuệ thấy khắp kẻ khổ đau
Bể khổ ba đào mong sớm lặng
Địa ngục thống khổ nguyện bình an
Xưng danh giải trừ tất cả nạn
Lễ bái phước huệ tự đong đầy.
[1] “Thiên xứ kỳ cầu thiên xứ ứng, khổ hải thường tác độ nhân thuyền”.
[2] Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi.
[3] Nạn lửa, nạn nước, nạn la sát, nạn dao gậy, nạn ma quỷ, nạn bị giam cầm, nạn giặc cướp.
[4] Tham độc, sân độc và si độc.
[5] Cầu được như ý, cầu mạng sống lâu dài.
[6] Còn gọi là Hoan Hỷ địa, là một trong mười địa của Bồ Tát.
[7] Thời Ngũ Đại gồm có năm nước: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu.
[8] “Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn”.
Ngày 3 tháng 10 năm 1986
Bồ Tát Quán Tự Tại trong vô lượng kiếp về trước đã thành tựu Phật quả, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Do nguyện lực từ bi, Bồ Tát chèo ngược thuyền từ trở lại Ta Bà, lần theo tiếng khẩn nguyện của chúng sanh cứu khổ. Cho nên nói “ngàn nơi nguyện cầu ngàn nơi ứng, biển khổ làm thuyền độ người qua” [1]. Bồ Tát nguyện đại từ với cả những người không có duyên và đại bi với tất cả muôn loài[2], nên có khả năng cứu được bảy nạn[3], giải trừ ba độc[4], ứng nghiệm hai điều mong cầu[5]. Bồ Tát khi còn tu tập Sơ địa[6], gặp được Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai, được truyền cho thần chú Đại Bi, Đức Phật hiện ánh sáng vàng tía, lấy tay xoa đầu, Bồ Tát nhờ thần lực Phật đạt đến địa thứ tám (Bất Động địa), vui mừng hớn hở mà phát nguyện rằng: “Nếu đời vị lai con có thể làm lợi ích chúng sanh, nguyện cho con có được ngàn tay ngàn mắt”. Phát nguyện xong, quả đất liền chấn động theo sáu cách, mười phương Chư Phật đồng phóng hào quang chạm đến thân Bồ Tát, ngàn mắt ngàn tay liền được đầy đủ. Bồ Tát liền đối trước Phật thưa rằng: “Nếu chúng sanh nào trì tụng thần chú Đại Bi, ngay trong đời này nếu không thành tựu được tất cả những điều mong cầu thì không gọi là Đại Bi Tâm Đà La Ni”. Đời Hậu Lương thời Ngũ Đại[7], một hôm có một vị Tăng thỉnh tượng đồng Đại Sĩ về nước phụng thờ, khi thuyền đến núi Phổ Đà, vị Tăng dừng chân lại núi này, thấy xuất hiện vô số điều linh ứng, từ đấy núi Phổ Đà trở thành thánh địa Phật giáo. Có một câu liễn viết rằng: “Xin hỏi Bồ Tát sao ngồi nghịch hướng? Than rằng chúng sanh chẳng chịu hồi đầu”. Cho nên có câu “biển khổ vô biên, quay đầu là bờ”[8]. Vì sao chúng sanh không chịu hồi đầu? Do bị danh lợi và tình ái làm mê mờ, nếu ai có thể nhìn thấu và buông bỏ thì liền được tự tại.
Khen rằng:
Đại từ đại bi
Cứu khổ cứu nạn
Hết thảy chúng sanh
Cùng đến bờ kia.
Không từ gian khổ
Thị hiện muôn nơi
Độ khắp mọi loài
Không phân giàu khó.
Lại nói kệ rằng:
Phổ Đà thường hiện tiếng hải triều
Chúng sanh Ta Bà kết duyên sâu
Ngàn tay hộ trì cùng muôn loại
Mắt tuệ thấy khắp kẻ khổ đau
Bể khổ ba đào mong sớm lặng
Địa ngục thống khổ nguyện bình an
Xưng danh giải trừ tất cả nạn
Lễ bái phước huệ tự đong đầy.
[1] “Thiên xứ kỳ cầu thiên xứ ứng, khổ hải thường tác độ nhân thuyền”.
[2] Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi.
[3] Nạn lửa, nạn nước, nạn la sát, nạn dao gậy, nạn ma quỷ, nạn bị giam cầm, nạn giặc cướp.
[4] Tham độc, sân độc và si độc.
[5] Cầu được như ý, cầu mạng sống lâu dài.
[6] Còn gọi là Hoan Hỷ địa, là một trong mười địa của Bồ Tát.
[7] Thời Ngũ Đại gồm có năm nước: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu.
[8] “Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn”.