Tiểu Sử Hòa Thượng Tuyên Hóa
"Tôi có nhiều tên", Hòa Thượng có một lần nói, "và tên nào cũng huyễn giả hết."
Trong thời gian niên thiếu ở Mãn Châu, mọi người thường gọi Ngài là "Bạch Hiếu tử." Lúc xuất gia, Ngài có pháp danh là An Từ. Sau khi đến Hương Cảng, Ngài lấy pháp tự là Độ Luân. Sau cùng khi đến Mỹ Quốc, Ngài mang tên Tuyên Hóa, nghĩa là trùng tuyên giáo hóa. Hằng nghìn đệ tử của ngài trên toàn thế giới thì gọi ngài đơn giản bằng Thầy hay Sư Phụ.
Ngài sinh năm 1918 trong một gia đình nông dân ở một ngôi làng nhỏ miền đồng bằng Mãn Châu. Ngài là con út trong tám người con. Thuở nhỏ Ngài đi học chỉ được hơn hai năm, và Ngài đã học thuộc lòng Tứ Thư, Ngũ Kinh. Đến thời niên thiếu, Ngài mở trường dạy học miễn phí cho các trẻ em và người lớn trong vùng. Ngài cũng bắt đầu tu tập bằng cách lễ lạy. Thường thì Ngài lạy ngoài trời 837 lạy mỗi ngày trong mọi hoàn cảnh thời tiết, để tỏ lòng tri ân đến tất cả thiện pháp thiêng liêng trong vũ trụ, nhất là cha mẹ của Ngài.
Khi Ngài được 19 tuổi thì mẹ Ngài qua đời. Sau đó Ngài đến gặp Hòa Thượng Thường Trí xin thế phát xuất gia. Sau khi thọ giới Sa Di, Ngài thủ hiếu 3 năm bằng cách tọa thiền trong căn chòi nhỏ được dựng lên bên cạnh mộ mẹ của Ngài. Cũng trong thời gian này, Ngài phát nguyện sẽ đến Mỹ Quốc để truyền bá trí huệ Phật Pháp.
Ròng rã mười năm Ngài hạ thủ công phu tu tập nghiên cứu Kinh Điển và những tông phái Đại Thừa, nhất là Mật và Thiền. Ngài cũng nghiên cứu tư tưởng giáo lý của những đạo khác như Ki Tô giáo, Lão giáo, và Hồi giáo. Đến năm 30 tuổi, ngài đến chùa Pháp Vũ ở Phổ Đà Sơn để thọ giới Cụ Túc. Đến thời điểm này, Ngài đã chuẩn bị đủ tư lương để thực hiện việc mà sau này Ngài gọi là "ba đại nguyện" ở Mỹ, và đó là: thiết lập tăng đoàn, mở những cơ sở dạy học, và phiên dịch kinh điển Phật giáo sang Anh ngữ cũng như những ngôn ngữ khác.
Vào năm 1948, Hòa Thượng du hành về miền nam Trung Quốc và gặp gỡ Lão Hòa Thượng Hư Vân, một vị cao tăng 109 tuổi được mọi người kính ngưỡng thời bấy giờ. Sau đó ngài rời Trung Quốc sang Hương Cảng. Vào năm 1956, Hòa Thượng Tuyên Hóa được truyền thừa mạch pháp tổ sư của dòng thiền Quy Ngưỡng từ Lão Hòa Thượng Hư Vân. Trong những năm kế tiếp, ngài nhập thất tu hành và tiếp độ đồ chúng ở ba ngôi chùa mà Ngài sáng lập.
Cuối cùng vào năm 1962, với sự thỉnh cầu của một vài vị đệ tử ở Hương Cảng, Ngài đến San Francisco, Mỹ Quốc. Đến năm 1968, Hòa Thượng thiết lập Phật Học Đường ở một căn phòng nhỏ trong khu phố người Hoa ở San Francisco, và bắt đầu giảng kinh mỗi đêm ở đó bằng tiếng Hoa, mà những người đến nghe lại là những người Mỹ trẻ. Lời giảng của Ngài dựa trên nền tảng giáo lý kinh điển Đại Thừa. Vào năm 1969, có 5 vị đệ tử người Mỹ được thọ giới Cụ Túc, bắt đầu khởi xướng thực hiện lời nguyện của Ngài là thành lập tăng đoàn ở Mỹ Quốc. Từ đó đến nay đã có hằng trăm chư vị Tăng Ni được huấn luyện, tu học, và thọ giới y chỉ nơi Ngài.
Vào năm 1984, Hòa Thượng Tuyên Hóa sáng lập ra hội Phật Giáo Pháp Giới, Dharma Realm Buddhist Association, để làm một nền tảng chung cho những tự viện, trường học, và những hoạt động tôn giáo khác để thực hiện những chí nguyện của Ngài.
Là một bậc thầy, Hòa Thượng không hề mệt mõi. Từ năm 1968 cho đến giữa thập niên 1980, Ngài giảng hơn mười buổi giảng mỗi tuần, và Ngài du hành khắp nơi để hoằng pháp. Ngài tiếp tục du hành hoằng pháp cho đến những năm cuối đời. Ngài đã thiết lập những khóa huấn luyện đào tạo tu hai giới xuất gia và tại gia, trường tiểu học Dục Lương, trường trung học Bồi Đức, trường đại học Pháp Giới Phật Giáo tại Vạn Phật Thánh Thành, và viện Tôn Giáo Thế Giới ở Berkeley.
Hòa Thượng Tuyên Hóa không còn với chúng ta bằng hình hài tứ đại nữa. Ngài đã an nhiên thị tịch và ngày 7 tháng 6 năm 1995.
"Tôi có nhiều tên", Hòa Thượng có một lần nói, "và tên nào cũng huyễn giả hết."
Trong thời gian niên thiếu ở Mãn Châu, mọi người thường gọi Ngài là "Bạch Hiếu tử." Lúc xuất gia, Ngài có pháp danh là An Từ. Sau khi đến Hương Cảng, Ngài lấy pháp tự là Độ Luân. Sau cùng khi đến Mỹ Quốc, Ngài mang tên Tuyên Hóa, nghĩa là trùng tuyên giáo hóa. Hằng nghìn đệ tử của ngài trên toàn thế giới thì gọi ngài đơn giản bằng Thầy hay Sư Phụ.
Ngài sinh năm 1918 trong một gia đình nông dân ở một ngôi làng nhỏ miền đồng bằng Mãn Châu. Ngài là con út trong tám người con. Thuở nhỏ Ngài đi học chỉ được hơn hai năm, và Ngài đã học thuộc lòng Tứ Thư, Ngũ Kinh. Đến thời niên thiếu, Ngài mở trường dạy học miễn phí cho các trẻ em và người lớn trong vùng. Ngài cũng bắt đầu tu tập bằng cách lễ lạy. Thường thì Ngài lạy ngoài trời 837 lạy mỗi ngày trong mọi hoàn cảnh thời tiết, để tỏ lòng tri ân đến tất cả thiện pháp thiêng liêng trong vũ trụ, nhất là cha mẹ của Ngài.
Khi Ngài được 19 tuổi thì mẹ Ngài qua đời. Sau đó Ngài đến gặp Hòa Thượng Thường Trí xin thế phát xuất gia. Sau khi thọ giới Sa Di, Ngài thủ hiếu 3 năm bằng cách tọa thiền trong căn chòi nhỏ được dựng lên bên cạnh mộ mẹ của Ngài. Cũng trong thời gian này, Ngài phát nguyện sẽ đến Mỹ Quốc để truyền bá trí huệ Phật Pháp.
Ròng rã mười năm Ngài hạ thủ công phu tu tập nghiên cứu Kinh Điển và những tông phái Đại Thừa, nhất là Mật và Thiền. Ngài cũng nghiên cứu tư tưởng giáo lý của những đạo khác như Ki Tô giáo, Lão giáo, và Hồi giáo. Đến năm 30 tuổi, ngài đến chùa Pháp Vũ ở Phổ Đà Sơn để thọ giới Cụ Túc. Đến thời điểm này, Ngài đã chuẩn bị đủ tư lương để thực hiện việc mà sau này Ngài gọi là "ba đại nguyện" ở Mỹ, và đó là: thiết lập tăng đoàn, mở những cơ sở dạy học, và phiên dịch kinh điển Phật giáo sang Anh ngữ cũng như những ngôn ngữ khác.
Vào năm 1948, Hòa Thượng du hành về miền nam Trung Quốc và gặp gỡ Lão Hòa Thượng Hư Vân, một vị cao tăng 109 tuổi được mọi người kính ngưỡng thời bấy giờ. Sau đó ngài rời Trung Quốc sang Hương Cảng. Vào năm 1956, Hòa Thượng Tuyên Hóa được truyền thừa mạch pháp tổ sư của dòng thiền Quy Ngưỡng từ Lão Hòa Thượng Hư Vân. Trong những năm kế tiếp, ngài nhập thất tu hành và tiếp độ đồ chúng ở ba ngôi chùa mà Ngài sáng lập.
Cuối cùng vào năm 1962, với sự thỉnh cầu của một vài vị đệ tử ở Hương Cảng, Ngài đến San Francisco, Mỹ Quốc. Đến năm 1968, Hòa Thượng thiết lập Phật Học Đường ở một căn phòng nhỏ trong khu phố người Hoa ở San Francisco, và bắt đầu giảng kinh mỗi đêm ở đó bằng tiếng Hoa, mà những người đến nghe lại là những người Mỹ trẻ. Lời giảng của Ngài dựa trên nền tảng giáo lý kinh điển Đại Thừa. Vào năm 1969, có 5 vị đệ tử người Mỹ được thọ giới Cụ Túc, bắt đầu khởi xướng thực hiện lời nguyện của Ngài là thành lập tăng đoàn ở Mỹ Quốc. Từ đó đến nay đã có hằng trăm chư vị Tăng Ni được huấn luyện, tu học, và thọ giới y chỉ nơi Ngài.
Vào năm 1984, Hòa Thượng Tuyên Hóa sáng lập ra hội Phật Giáo Pháp Giới, Dharma Realm Buddhist Association, để làm một nền tảng chung cho những tự viện, trường học, và những hoạt động tôn giáo khác để thực hiện những chí nguyện của Ngài.
Là một bậc thầy, Hòa Thượng không hề mệt mõi. Từ năm 1968 cho đến giữa thập niên 1980, Ngài giảng hơn mười buổi giảng mỗi tuần, và Ngài du hành khắp nơi để hoằng pháp. Ngài tiếp tục du hành hoằng pháp cho đến những năm cuối đời. Ngài đã thiết lập những khóa huấn luyện đào tạo tu hai giới xuất gia và tại gia, trường tiểu học Dục Lương, trường trung học Bồi Đức, trường đại học Pháp Giới Phật Giáo tại Vạn Phật Thánh Thành, và viện Tôn Giáo Thế Giới ở Berkeley.
Hòa Thượng Tuyên Hóa không còn với chúng ta bằng hình hài tứ đại nữa. Ngài đã an nhiên thị tịch và ngày 7 tháng 6 năm 1995.