ĐẠI THỪA DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH THIỂN THÍCH
(Đại Lão Hòa Thượng thượng Tuyên hạ Hóa giảng thuật vào năm 1968, tại Phật Giáo Giảng Đường, San Francisco, California)
Phẩm 14: HẠNH AN LẠC
(tiếp theo)
J2. THÂN CẬN XỨ LÀ KHÔNG LÌA XA KHÔNG GẦN GŨI (phi viễn phi cận)
Lại cũng chẳng hành trì
Những pháp thượng, trung, hạ
Hữu vi hay vô vi
Pháp thật và chẳng thật.
Lại cũng chẳng phân biệt
Là nam hay là nữ
Và chẳng đắc các pháp
Chẳng biết cũng chẳng thấy.
Đây thời gọi tên là
“Hành xứ” của Bồ-tát.
Đối với tất cả pháp
Đều không, vô sở hữu
Cũng chẳng hề thường trụ
Và cũng không khởi diệt.
Đây gọi chỗ “thân cận”
Mà người trí gần gũi.
Diệc phục bất hành
Thượng trung hạ pháp
Hữu vi vô vi
Thật bất thật pháp
Diệc bất phân biệt
Thị nam thị nữ
Bất đắc chư pháp
Bất tri bất kiến
Thị tắc danh vi
Bồ-tát hành xứ
Nhất thiết chư pháp
Không vô sở hữu
Vô hữu thường trụ
Diệc vô khởi diệt
Thị danh trí giả
Sở thân cận xứ.
“Lại cũng chẳng hành trì, những pháp thượng, trung, hạ”: bậc Bồ-tát tu Bồ-tát đạo này cũng không nên tu các pháp thượng, trung, hạ. Pháp thượng chính là Bồ-tát thừa; pháp trung là Duyên giác thừa; pháp hạ là Thanh văn thừa, đây là pháp Tam thừa. “Hữu vi hay vô vi, pháp thật và chẳng thật”: các loại pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp thật và không thật, đều không nên tu tập.
“Lại cũng chẳng phân biệt, là nam hay là nữ”: cũng không nên phân biệt là nam hay nữ. Sao lại không nên phân biệt nam, nữ? Vì “nam” chính là “huệ”, “nữ” chính là “định”; định huệ nhất như, định huệ vốn là một, vì vậy, không nên quá phân biệt. “Và chẳng đắc các pháp”: vì “không trí cũng không đắc” (vô trí diệc vô đắc -- Tâm Kinh), nên không đắc tất cả pháp. “Không biết cũng không thấy”: tâm không biết tất cả các pháp, mắt cũng không thấy các pháp[1]. “Đây thời gọi tên là, hành xứ của Bồ-tát”: giống như cách an trụ tâm một chỗ, đây chính là “hành xứ” của Bồ-tát.
“Đối với tất cả pháp, đều không, vô sở hữu”: tất cả các pháp, xưa nay vốn cái gì cũng chẳng có, “cũng chẳng hề thường trụ”: quán tướng của tất cả các pháp cũng không thường trụ. Vì không thường trụ nên không bị dính mắc; vì không bị dính mắc nên đạt được sự giải thoát. “Và cũng không khởi diệt”: quán tất cả các pháp không sanh cũng không diệt. “Đây gọi chỗ thân cận, mà người trí gần gũi”: đây cũng là chỗ mà hàng Bồ-tát có trí huệ nên gần gũi.
Chớ đảo điên phân biệt
Các pháp có hoặc không
Là thật, chẳng phải thật
Là sanh, chẳng phải sanh.
Ở an nơi vắng vẻ
Mà tu nhiếp tâm mình
An trụ chẳng lay động
Như thể núi Tu-di.
Quán sát tất cả pháp
Thảy đều không thật có
Cũng giống như hư không
Chẳng có chút bền chắc.
Không sanh cũng không xuất
Chẳng động cũng chẳng thoái
Thường trụ nơi nhất tướng
Đây gọi “Thân cận xứ”.
Điên đảo phân biệt
Chư pháp hữu vô
Thị thật phi thật
Thị sanh phi sanh
Tại ư nhàn xứ
Tu nhiếp kỳ tâm
An trụ bất động
Như Tu-di sơn
Quán nhất thiết pháp
Giai vô sở hữu
Du như hư không
Vô hữu kiên cố
Bất sanh bất xuất
Bất động bất thối
Thường trụ nhất tướng
Thị danh cận xứ.
“Chớ đảo điên phân biệt, các pháp có hoặc không, là thật chẳng phải thật, là sanh chẳng phải sanh”: nếu quý vị có các loại điên đảo, các thứ phân biệt, phân biệt pháp này có, pháp kia chẳng có, đây là pháp thật, kia là pháp giả, đây là pháp có sanh, kia là pháp chẳng có sanh. Phân biệt những pháp tướng như thế chính là điên đảo.
“Ở an nơi vắng vẻ, mà tu nhiếp tâm mình, an trụ chẳng lay động, như thể núi Tu-di”: Bồ-tát nên ở chỗ thanh tịnh, vắng vẻ để tu nhiếp thân tâm, an trụ nơi thật tướng của các pháp, không vọng khởi cũng không dao động, giống như núi chúa Tu-di trụ vững chãi, không hề lay động.
“Quán sát tất cả pháp, thảy đều không thật có, cũng giống như hư không, chẳng có chút bền chắc”: nên quán sát tường tận tất cả các pháp, vốn đều bất khả đắc, giống như hư không vậy; hư không vốn chẳng có tự thể, nên nó không bền chắc. “Không sanh cũng không xuất, chẳng động cũng chẳng thoái”: không sanh, cũng không xuất, không động, cũng không thoái lui. “Thường trụ nơi nhất tướng”: trong Kinh văn, phần trường hàng (văn xuôi, prose), nói: “thật vô sở hữu”, sao ở đây lại nói“thường trụ nơi nhất tướng” (thường trụ nhất tướng)? Vì không có tướng “có”, không có tướng “không”, nên gọi là “thường trụ nơi nhất tướng” – thường trụ nơi một tướng “chẳng phải có chẳng phải không”. “Đây gọi Thân cận xứ”: đây là chỗ nên gần gũi để tu hành của vị Bồ-tát.
I3. NÓI RÕ THẾ NÀO LÀ HẠNH THÂN AN LẠC ĐÃ THÀNH TỰU
Nếu có vị Tỳ-kheo
Sau khi Ta diệt độ
Thâm nhập “Hành xứ” này
Và “Thân cận xứ” kia
Khi thuyết kinh Pháp Hoa
Không có tâm khiếp sợ.
Có lúc vị Bồ-tát
Vào trong nơi tịnh thất
Dùng suy nghĩ chân chánh
Theo đúng nghĩa quán pháp.
Sau khi ra khỏi định
Vì các bậc quốc vương
Vương tử và quan, dân
Cùng hàng Bà-la-môn
Mà khai hóa diễn bày
Giảng nói Kinh pháp đây
Tâm vị đó an ổn
Chẳng có chút khiếp nhược.
Này Văn-thù-sư-lợi!
Đây gọi là Bồ-tát
An trụ pháp ban đầu
Có thể trong thời ác
Giảng nói Kinh Pháp Hoa.
Nhược hữu Tỳ-kheo
Ư ngã diệt hậu
Nhập thị “hành xứ”
Cập “thân cận xứ”
Thuyết tư kinh thời
Vô hữu khiếp nhược
Bồ-tát hữu thời
Nhập ư tịnh thất
Dĩ chánh ức niệm
Tùy nghĩa quán pháp
Tùng thiền định khởi
Vị chư quốc vương
Vương tử thần dân
Bà-la-môn đẳng
Khai hóa diễn xướng
Thuyết tư kinh điển
Kỳ tâm an ổn
Vô hữu khiếp nhược
Văn-thù-sư-lợi
Thị danh Bồ-tát
An trụ sơ pháp
Vãng ư hậu thế
Thuyết Pháp Hoa Kinh.
“Nếu có vị Tỳ-kheo, sau khi Ta diệt độ, thâm nhập “Hành xứ” này, và “Thân cận xứ” kia”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo: sau khi Ta diệt độ, giả như có Tỳ-kheo nào thâm nhập chỗ Bồ-tát tu hành, và chỗ nên gần gũi của hàng Bồ-tát. “Khi thuyết Kinh Pháp Hoa, không có tâm khiếp sợ”: khi giảng nói bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, không có tâm sợ hãi, cũng không có điều mong cầu. Vì sao không sợ hãi? Chính vì không có ý mong cầu; nếu quý vị có mong cầu thì sẽ có sợ hãi. Quý vị không có tâm mong cầu, đấy chính là chỗ: “Khi đã đạt đến chỗ không mong cầu, thì không còn lo lắng” (đáo vô cầu xứ tiện vô ưu), không mong cầu bất cứ điều gì, thì cũng chẳng có gì phải lo phiền.
“Có lúc vị Bồ-tát, vào trong nơi tịnh thất”: thỉnh thoảng Bồ-tát phải nhập thất, “dùng suy nghĩ chân chánh, theo đúng nghĩa quán pháp”: dùng chánh niệm để nhớ nghĩ đạo lý của Phật pháp, theo nghĩa của văn Kinh mà quán niệm và ngộ giải chân lý. Vì vậy, khi quý vị học giảng kinh, trước khi giảng, tốt nhất nên tĩnh tọa một giờ, hoặc nửa giờ, ngưng dứt mọi vọng tưởng tạp loạn, tu tập công phu lắng tâm tĩnh lự; sau đó, do trong định mà ngộ ra đạo lý để giảng nói kinh Phật. Đây là phương pháp giảng kinh tốt nhất.
“Sau khi ra khỏi định, vì các bậc quốc vương, vương tử và quan dân, cùng hàng Bà-la-môn”: sau khi nhập định, rồi xuất định. “Khởi” chính là xuất khỏi định. Khi vừa xuất định, liền vì vua, hoặc thái tử con vua, hoặc đại thần, hoặc thứ dân, hoặc Bà-la-môn, “mà khai hóa diễn bày, giảng nói Kinh pháp đây”: triển khai, giảng giải lý vi diệu, không pháp nào vượt hơn của bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, “tâm vị đó an ổn, chẳng có chút khiếp nhược”: trong lòng rất an ổn, rất vui sướng, chẳng hề sợ sệt.
“Này Văn-thù-sư-lợi! Đây gọi là Bồ-tát an trụ pháp ban đầu”: Văn-thù-sư-lợi! Ông nên biết, đây gọi là pháp an trụ ban đầu của Bồ-tát – an trụ pháp môn khởi đầu trong quá trình tu Bồ-tát đạo. “Có thể trong thời ác sau này, giảng nói Kinh Pháp Hoa”: nếu tu tập được như thế, vào thời Mạt pháp sau này, vị Bồ-tát ấy có thể giảng nói bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.
G2. HẠNH MIỆNG AN LẠC (phân 2 phần)
H1. Trường Hàng (2 phần)
I1. Giới Thiệu
I2. Giải Thích Hành Pháp
H2. Trùng Tụng
I1. GIỚI THIỆU
Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Sau khi Đức Như Lai diệt độ, ở trong đời Mạt pháp mà muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh an lạc.
Hựu Văn-thù-sư-lợi, Như Lai diệt hậu, ư Mạt pháp trung, dục thuyết thị kinh, ưng trụ an lạc hạnh.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại gọi một tiếng “Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi!”, và nói: phần trên là nói về “hạnh thân an lạc”, bây giờ ta sẽ nói cho ông nghe về “hạnh miệng an lạc”. Sau khi ta—Thích-ca Mâu-ni Như Lai—diệt độ, trong thời Mạt pháp sau này, muốn giảng bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, cần phải trụ vào pháp Hạnh An Lạc.
I2. GIẢI THÍCH HÀNH PHÁP (phân 2 phần)
J1. Nói Rõ Hạnh “Chỉ”
J2. Nói Rõ Hạnh “Quán”
J1. NÓI RÕ HẠNH “CHỈ”
Hoặc khi miệng tuyên nói, hoặc lúc đọc tụng kinh đều không ưa nói lỗi của người và của kinh điển. Cũng chẳng xem thường các vị pháp sư khác, không nói việc hay dở, tốt xấu của người. Ở nơi hàng Thanh văn, cũng chẳng kêu tên nói lỗi xấu của họ, cũng chẳng kêu tên khen ngợi điều hay của họ, lại cũng chẳng sanh lòng oán hiềm.
Nhược khẩu tuyên thuyết, nhược độc kinh thời, bất nhạo thuyết nhân cập kinh điển quá. Diệc bất khinh mạn chư dư pháp sư, bất thuyết tha nhân hảo ố trường đoản. Ư Thanh văn nhân, diệc bất xưng danh thuyết kỳ quá ác, diệc bất xưng danh tán thán kỳ mỹ, hựu diệc bất sanh oán hiềm chi tâm.
“Hoặc khi miệng tuyên nói, hoặc lúc đọc tụng kinh đều không ưa nói lỗi của người và của kinh điển”: giả như khi giảng nói bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, hoặc khi đang đọc tụng bộ kinh này, không ưa kể ra lỗi lầm của người khác, cũng không chỉ vạch điểm gì không đúng của bộ kinh này; tức không nói lỗi của người, cũng không nói lỗi của kinh. Vì pháp do Đức Phật thuyết ra là pháp môn “quán cơ giáo hóa, tùy người nói pháp, theo bệnh cho thuốc” (quán cơ đậu giáo, nhân nhơn thuyết pháp, ứng bệnh dữ dược), chẳng có chỗ nào là đúng, cũng chẳng có chỗ nào là sai cả.
“Cũng chẳng xem thường các vị pháp sư khác, không nói việc hay dở, tốt xấu của người”: không xem thường kinh điển khác, cũng không xem thường những vị pháp sư khác. Hoặc thấy vị pháp sư nào giảng pháp hay, thì liền khen ngợi; còn vị nào giảng không hay, liền xem thường. Không nên thế! Chớ có bàn luận chỗ hay dở của người khác, cũng chớ có đàm tiếu người này có ưu điểm gì, người kia có khuyết điểm gì.
“Ở nơi hàng Thanh văn, cũng chẳng kêu tên nói lỗi xấu của họ”: đối với hàng Thanh văn, tức người tu pháp Tiểu thừa, cũng không nên gọi thẳng tên vị ấy ra. Người Mỹ quý vị, con cái kêu cha cũng gọi tên, cha kêu con cái cũng gọi tên, chẳng có một chút tôn ty, không phân biệt lớn nhỏ gì cả!
Quý vị nghe “Kinh Pháp Hoa”, đến chỗ này, cần phải hiểu rằng: các vị xuất gia và cư sĩ tại gia không được gọi thẳng tên nhau; nhất là đối với hàng xuất gia, người tại gia càng không nên kêu tên. Như quý vị hiện nay, không được gọi pháp danh của những vị kia, mà nên gọi biệt hiệu của họ, hoặc gọi tên tự cũng được. Như pháp sư Hằng Khiêm, có thể gọi là “Pháp sư Khiêm” vẫn được. Trong hàng huynh đệ còn không nên gọi tên lẫn nhau, huống chi là đối với sư phụ ư! Trong số quý vị, có người không hiểu Phật pháp, đã gọi sư phụ của mình: “A! Pháp sư Độ Luân, Pháp sư Tuyên Hóa!”, đây là kiểu xưng hô không coi thầy tổ ra gì; hoặc gọi “Độ Luân”, với cách xưng hô này, càng không xem sư phụ mình ra gì, kẻ đó quả là hạng khi sư diệt tổ, đại nghịch bất đạo cùng cực, là hạng học trò chẳng ra gì!
Vì thế sau này, quý vị nên biết điều cấm kỵ đó. Ngay cả đối với huynh đệ đồng môn cũng không được gọi tên, như gọi “Thầy Quả Ninh”, “Thầy Quả Tiền”, “Thầy Quả Tiên”, hoặc “Thầy Quả Tu”. Vậy phải gọi thế nào đây? Chỉ gọi một chữ là được rồi, có thể gọi “Pháp sư Khiêm”, “Pháp sư Tĩnh”, tốt nhất là nên gọi pháp hiệu. Ban đầu, bảo những người tại gia như quý vị gọi hàng xuất gia là “Pháp sư”, có một người đã phản đối và bảo với một chú Sa-di nhỏ: “Sau này, khi xưng hô với chú, phải gọi là Venerable (Tôn giả) sao?”. Ông ta cảm thấy gọi người xuất gia là “Pháp sư” là rất mất mặt. Đây là một sai lầm lớn!
Vì vậy, giữa người xuất gia với nhau, quý vị không nên kêu tên, như gọi “Quả Tu” hoặc “Quả Dật”; pháp danh chỉ dành cho sư phụ gọi, huynh đệ với nhau không nên gọi. Quý vị gọi pháp danh, chính là không cung kính người, người cũng sẽ không cung kính quý vị; kiểu như “bánh ít đi mà bánh quy không lại là thiếu lễ” (lai nhi bất vãng phi lễ dã) vậy. Chỉ vì người phương Tây quý vị không tìm tòi học hỏi, nên không có được kiểu tri thức này; bây giờ tôi đã giảng cho quý vị nghe, quý vị nên tiếp thu và chớ có gọi tên của nhau nữa nhé!
Không nên gọi thẳng tên của vị pháp sư Tiểu thừa, bảo vị ấy có lỗi gì, đã phạm giới gì. Như nói “Có một lần, tôi thấy vị ấy ăn thịt, lại còn uống rượu. Sau đó, tôi hỏi vì sao vị ấy lại ăn thịt? Nhưng ông ta chối phắt, như vậy là đã vọng ngữ rồi. Ồ! Người này chẳng phải là người tu hành!”. Không nên nói như thế.
“Cũng chẳng kêu tên khen ngợi điều hay của họ”: cũng không gọi tên của vị ấy ra để khen. Không nói: “Ồ! Ông A, ông B rất giỏi!”, nhưng nếu vị ấy thật sự giỏi thì có thể khen. Giống như tôi thường tán thán pháp sư Thọ Trị, tuy không có sự giao tình, qua lại thân thiết với nhau, nhưng tôi rất hay khen ngợi vị ấy, đó đúng là một vị Bồ-tát. Thế thì, người kia thật sự có chỗ tốt thì nên khen ngợi; tuy nhiên, khen ngợi thì khen ngợi, nhưng không nên kêu trực tiếp tên họ ra để khen. Như nói: “Ồ! Tôi biết Pháp sư (hiệu đó đó) đúng thật là người tu hành có đạo đức!”, chớ có kêu tên vị ấy ra. Một khi quý vị nêu tên vị ấy ra, nếu như họ thật sự tốt thì không nói gì; lỡ như có người nào đó phát hiện họ không tốt, thì quý vị sẽ bị xem là kẻ nói dối. Do vậy, không nên nói chỗ dở hoặc chỗ hay của người khác.
“Lại cũng chẳng sanh lòng oán hiềm[2]”: quý vị chẳng những không nói lỗi của người khác, cũng không khen ngợi họ, mà cũng không nên có lòng oán hiềm người khác – tức sanh lòng hiềm nghi. Như có thành kiến với một người nào đó, thì quý vị liền có ấn tượng không tốt đối với họ, đấy chính là “tâm oán hiềm”.
J2. NÓI RÕ HẠNH “QUÁN”
Khéo tu tâm an lạc như thế, những người đến nghe pháp, không trái ý họ; có bị gạn hỏi, không dùng pháp Tiểu thừa đáp, chỉ dùng pháp Đại thừa mà giảng nói, khiến cho họ được Nhất thiết chủng trí.
Thiện tu như thị an lạc tâm cố, chư hữu thính giả, bất nghịch kỳ ý, hữu sở nạn vấn, bất dĩ Tiểu thừa pháp đáp, đãn dĩ Đại thừa nhi vị giải thuyết, linh đắc Nhất thiết chủng trí.
“Khéo tu tâm an lạc như thế”: khéo tu những pháp khiến tâm an lạc như đã nêu ở trên. Vì không có các thói xấu: khen người này, chê người kia, oán hiềm người nọ thì tâm quý vị sẽ được an lạc, không chất chứa “tham, sân, si” trong lòng. “Những người đến nghe pháp, không trái ý họ”: người đến nghe pháp thì không nên trái ý họ. Nếu như họ hỏi chỗ hay cũng mặc, hỏi chỗ dở cũng mặc, quý vị vẫn cứ phớt lờ đi, đây là trái ý họ. “Có bị gạn hỏi, không dùng pháp Tiểu thừa đáp”: nếu họ đến hỏi đạo lý gì, quý vị chớ nên dùng pháp Tiểu thừa để trả lời, “chỉ dùng pháp Đại thừa mà giảng nói, khiến họ được Nhất thiết chủng trí [3].”: chỉ dùng diệu lý Đại thừa để trả lời, căn cứ vào kinh điển Đại thừa để nói pháp, khiến cho người đến hỏi pháp có thể đạt được trí huệ Nhất thiết chủng.
H2. TRÙNG TỤNG (phân 3 phần)
I1. Nêu Chung
I2. Giải Thích
I3. Nói Rõ Thế Nào Là Hạnh Khẩu An Lạc Đã Thành Tựu
I1. NÊU CHUNG
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Bậc Bồ-tát thường ưa
An ổn nói kinh pháp
Ở vùng đất thanh tịnh
Mà thiết lập sàn tòa
Dùng dầu thơm xoa thân
Tắm gội các bụi nhơ
Mặc y mới sạch sẽ
Trong ngoài đều sạch thơm
Ngồi an trên pháp tòa
Theo chỗ hỏi mà nói.
Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:
Bồ-tát thường nhạo
An ổn thuyết pháp
Ư thanh tịnh địa
Nhi thí sàn tòa
Dĩ du đồ thân
Tháo dục trần uế
Trước tân tịnh y
Nội ngoại câu tịnh
An xử pháp tòa
Tùy vấn vị thuyết.
“Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng”: Ngay khi ấy, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn giảng lại cặn kẽ ý này, nên dùng kệ tụng để nói.
“Bậc Bồ-tát thường ưa, an ổn nói kinh pháp”: bậc Bồ-tát Ma-ha-tát tu Bồ-tát đạo này thường muốn an ổn cho chúng sanh nên nói pháp cho họ; đấy chính là “vào nhà Như Lai” (nhập Như Lai thất). “Ở vùng đất thanh tịnh, mà thiết lập sàn tòa”: ở chỗ thanh tịnh mà trải sàn tòa; đây chính là “ngồi tòa Như Lai” (tọa Như Lai tòa).“Dùng dầu thơm xoa thân, tắm gội các bụi nhơ, mặc y mới sạch sẽ, trong ngoài đều sạch thơm”: dùng dầu thơm xoa vào người, tắm gội thật sạch để tẩy trừ các thứ nhơ bẩn, mặc y phục sạch sẽ, trong ngoài đều tinh khiết, bên trong không còn vọng tưởng, bên ngoài không còn nhiễm ô; đây chính là “mặc áo Như Lai” (xuyên Như Lai y). “Ngồi an trên pháp tòa, theo chỗ hỏi mà nói”: ngự an ổn ở tòa Như Lai, tùy theo chỗ thưa hỏi của chúng sanh mà nói pháp.
I2. GIẢI THÍCH (phân 2 phần)
J1. Hạnh “Chỉ”
J2. Hạnh “Quán”
JI. HẠNH “CHỈ”
Nếu có vị Tỳ-kheo
Cùng với Tỳ-kheo-ni
Các hàng Ưu-bà-tắc
Và hàng Ưu-bà-di
Quốc vương và vương tử
Các quan cùng sĩ, dân
Dùng pháp nghĩa nhiệm mầu
Hòa nhã vì họ nói.
Nếu có người gạn hỏi
Theo nghĩa mà trả lời
Nhân duyên hoặc thí dụ
Giải bày phân biệt nói.
Dùng trí phương tiện này
Đều khiến họ phát tâm
Lợi ích ngày một tăng
Mà vào được Phật đạo.
Dẹp trừ tâm lười biếng
Cùng vọng tưởng giải đãi
Xa rời các ưu não
Dùng tâm từ nói pháp.
Nhược hữu Tỳ-kheo
Cập Tỳ-kheo-ni
Chư Ưu-bà-tắc
Cập Ưu-bà-di
Quốc vương vương tử
Quần thần sĩ dân
Dĩ vi diệu nghĩa
Hòa nhan vị thuyết
Nhược hữu nạn vấn
Tùy nghĩa nhi đáp
Nhân duyên thí dụ
Phu diễn phân biệt
Dĩ thị phương tiện
Giai sử phát tâm
Tiệm tiệm tăng ích
Nhập ư Phật đạo
Trừ lãn nọa ý
Cập giãi đãi tưởng
Ly chư ưu não
Từ tâm thuyết pháp.
“Nếu có vị Tỳ-kheo, cùng với Tỳ-kheo-ni, các hàng Ưu-bà-tắc, và hàng Ưu-bà-di”: nếu gặp Tỳ-kheo (người nam xuất gia), Tỳ-kheo-ni (người nữ xuất gia), Ưu-bà-tắc (cư sĩ nam), Ưu-bà-di (cư sĩ nữ), cùng với “quốc vương và vương tử, các quan cùng sĩ dân”: vua của một nước, thái tử con vua, hoặc các quan nói chung, hoặc người trí thức và thường dân.
“Dùng pháp nghĩa nhiệm mầu, hòa nhã vì họ nói”: dùng đạo lý vi diệu không thể nghĩ bàn, ôn hòa mà nói pháp. Hòa là hòa nhã; hòa nhan tức không phải cười toe toét, cũng không phải vẻ mặt lầm lì cáu kỉnh. Không cáu kỉnh, cũng không cười quá trớn, tức là vẻ mặt không thể hiện một chút bực bội nào cả, rất ôn hòa mà giảng nói Phật pháp cho họ. “Nếu có người gạn hỏi, theo nghĩa mà trả lời”: nếu họ có điều gì nghi ngờ muốn hỏi, quý vị nên nương theo ý đó mà trả lời; nhưng nên dùng nghĩa lý Đại thừa, chớ dùng pháp Tiểu thừa để đáp.
“Nhân duyên hoặc thí dụ, giải bày phân biệt nói”: dùng các thứ nhân duyên, các kiểu thí dụ để trình bày, diễn nói, phân biệt mà thuyết pháp cho họ. “Dùng trí phương tiện này, đều khiến họ phát tâm, lợi ích ngày một tăng, mà vào được Phật đạo”: dùng các pháp môn phương tiện, khiến chúng sanh nghe pháp đều phát tâm Bồ-đề; hơn nữa, khiến cho tâm Bồ-đề của họ mỗi ngày một tăng trưởng, đến khi thành tựu Phật đạo.
“Dẹp trừ tâm lười biếng, cùng vọng tưởng giải đãi”: từ bỏ các ý niệm lười biếng, không tinh tấn và các vọng tưởng giải đãi, “Xa rời các ưu não, dùng tâm từ nói pháp”: thoát khỏi mọi phiền muộn lo âu, dùng tâm từ mà thuyết pháp cho chúng sanh.
J2. HẠNH “QUÁN”
Ngày đêm thường tuyên nói
Giáo pháp vô thượng đạo
Dùng các loại nhân duyên
Cùng vô lượng thí dụ
Khai thị cho chúng sanh
Khiến họ đều vui mừng.
Y phục và ngọa cụ
Đồ ăn uống, thuốc thang
Mà ở ngay chỗ đó
Không có chút mong cầu.
Chỉ chuyên một lòng nghĩ
Về nhân duyên nói pháp
Nguyện ta thành Phật đạo
Khiến mọi người cũng thế
Đó chính là lợi lớn
Là an lạc cúng dường.
Trú dạ thường thuyết
Vô thượng đạo giáo
Dĩ chư nhân duyên
Vô lượng thí dụ
Khai thị chúng sanh
Hàm linh hoan hỷ
Y phục ngọa cụ
Ẩm thực y dược
Nhi ư kỳ trung
Vô sở hy vọng
Đãn nhất tâm niệm
Thuyết pháp nhân duyên
Nguyện thành Phật đạo
Linh chúng diệc nhĩ
Thị tắc đại lợi
An lạc cúng dường.
“Ngày đêm thường tuyên nói, giáo pháp vô thượng đạo”: vị Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập Bồ-tát đạo này, dùng tâm từ bi mà nói pháp cho chúng sanh; không chỉ trong một thời, mà ngày đêm sáu thời thường nói pháp, đều dùng tâm từ bi mà giáo hóa chúng sanh, giảng nói đạo lý tu hành vô thượng, và giáo pháp vô thượng của Phật. “Dùng các loại nhân duyên, cùng vô lượng thí dụ, khai thị cho chúng sanh, khiến họ đều vui mừng”: vì sợ chúng sanh không hiểu nên dùng vô số nhân duyên, vô lượng vô số thí dụ để chỉ bày cho chúng sanh, khiến cho tất cả đều được đại vui vẻ, đại an lạc, đại thọ mạng.
“Y phục và ngọa cụ, đồ ăn uống, thuốc thang”: cúng dường bốn loại: y phục mặc cùng các vật dụng để ngủ, đồ ăn thức uống và thuốc men; “mà ở ngay chỗ đó, không có chút mong cầu”: ở ngay chỗ nói pháp, không mong cầu y phục, cũng không mong cầu ngọa cụ hay đồ ăn thức uống ngon, không mong cầu những thức ăn có dinh dưỡng cao, những loại thuốc bổ dưỡng. “Chỉ chuyên một lòng nghĩ, về nhân duyên nói pháp”: chỉ chuyên tâm nhớ nghĩ Phật pháp, vì chúng sanh tùy cơ nói pháp, nên nghĩ thế này: “Nói pháp cho chúng sanh này, ta nên dùng nhân duyên gì mới có thể giáo hóa, khiến họ tỉnh ngộ? Phải dùng thí dụ nào mới có thể khiến họ khai ngộ?”
“Nguyện ta thành Phật đạo, khiến mọi người cũng thế”: ta mong muốn thành tựu Phật đạo, đồng thời mong muốn tất cả chúng sanh cũng thành tựu Phật đạo giống như ta vậy. “Đó chính là lợi lớn, là an lạc cúng dường”: cách nghĩ này mới là lợi ích lớn nhất, mới là một loại cúng dường lớn lao nhất khiến chúng sanh an lạc!
Tôi có tin này muốn báo với mọi người. Hôm nay là ngày Chủ nhật, vào Chủ nhật tuần sau, chúng ta sẽ có một đạo tràng lớn, có thể chứa được 400 người. Đạo tràng lớn như thế có rồi, nhưng đồng tiền lớn vẫn chưa có; quý vị có tín tâm thì đem đến, bằng như không tin mà đưa đến, tôi sẽ không cần, không cần quý vị đem đến! Tôi nói rõ rồi! Vì tôi là một người xuất gia “không ăn cơm thí do thương hại” (bất thực ta lai).
Thế nào là “không ăn cơm bố thí do thương hại”? Khi bố thí cho người ăn xin, nếu quý vị bảo: “Này! Cầm lấy ăn đi!”, nếu có chí khí thì người ăn xin này sẽ không nhận thức ăn đó, mà sẽ bỏ đi ngay. Người xuất gia như tôi cũng “không xin của bố thí do thương hại” (bất hóa ta lai). Nếu người nào cho rằng đem tiền đến để được thể diện thì tôi không cần loại tiền ấy; có đem tiền đến hay không cũng vậy thôi. Nếu bảo: “vậy thì tôi không đem tiền đến!”, không đem đến càng hay! Không nên miễn cưỡng. Nếu quý vị miễn cưỡng đem tiền đến, tôi cũng không cần. Như khi tôi ở Hương Cảng, ông Trương Cẩm Ký đem đến hai trăm đồng, tôi liền quăng ra ngoài cửa, không cần đến! Ông ta đành nhặt lại tiền rồi cầm đi.
Tính tình của tôi như thế, tôi đã nói với quý vị rồi! Quý vị chớ bảo vì đem đến trễ nên tôi không cần. Phàm là khi quý vị đem đến, có bao nhiêu đem bấy nhiêu, đem tất cả số tiền có được đến cho tôi, đó gọi là “quyên số tiền lớn” (hóa đại tiền). Còn đối với cái không thể xả mà lại xả được, đấy chính là “số tiền lớn” (đại tiền); chỉ một đồng cũng không thể xả, mà nay lại xả ra, đấy chính là “số tiền lớn”. Mọi người hiểu cả rồi chứ?
[1] Đây là công phu: “Mắt nhìn hình sắc, trong chẳng có; Tai vẳng chuyện đời, tâm chẳng hay!” (Nhãn quán hình sắc, nội vô hữu; Nhĩ thính trần sự, tâm bất tri). “Nhãn quán hình sắc, nội vô hữu; Nhĩ thính trần sự, tâm bất tri”, là một định lực, huệ lực, chứ không phải “không biết, không thấy” là không hiểu, không biết gì cả.
[2] Oán hiềm: oán ghét và hiềm khích.
[3] 一切種智 Phạn: Sarvatha-jnana. Cũng gọi Phật trí. Trí huệ này chỉ có đức Phật chứng được. Tức là dùng 1 loại trí tuệ mà biết được nhân chủng của tất cả pháp và tất cả chúng sinh, đồng thời cũng là trí rõ suốt tướng vắng lặng và hành loại của các pháp.
Luận Đại thừa khởi tín (Đại 32, 581 trung) nói: “Chư Phật Như Lai xa lìa tướng thấy, có đại trí dụng, tự thể chiếu rọi tất cả vọng pháp, có vô lượng phương tiện, tùy theo căn cơ của chúng sinh, đều có thể chỉ bày các pháp nghĩa, vì thế gọi là Nhất thiết chủng trí”.
Luận Đại trí độ quyển 27 (Đại 25, 259 thượng) nói: “Phật biết rõ hết cả tổng tướng và biệt tướng của các pháp thiền định, trí tuệ, nên gọi là Nhất thiết chủng trí (…) Nhất thiết trí là trí của Thanh văn, Duyên giác. Đạo trí là trí của Bồ-tát, còn Nhất thiết chủng trí là trí của Phật”. (Phật Quang Đại Từ Điển)
I3. NÓI RÕ THẾ NÀO LÀ HẠNH KHẨU AN LẠC ĐÃ THÀNH TỰU
Sau khi Ta diệt độ
Nếu có vị Tỳ-kheo
Có thể diễn nói được
Kinh Diệu Pháp Hoa này
Không có lòng ganh hờn
Không các não chướng ngại
Cũng lại không ưu sầu
Và cũng không mắng nhiếc
Không có tâm sợ sệt
Những dao gậy đánh đập
Cũng không xua đuổi đi
Vì an trụ nhẫn vậy.
Người trí khéo tu tập
Tâm mình được dường ấy
Có thể trụ an lạc
Như Ta nói ở trên.
Công đức của người đó
Trong nghìn muôn ức kiếp
Tính kể hay thí dụ
Nói chẳng thể hết được.
Ngã diệt độ hậu
Nhược hữu Tỳ-kheo
Năng diễn thuyết tư
Diệu Pháp Hoa Kinh
Tâm vô tật nhuế
Chư não chướng ngại
Diệc vô ưu sầu
Cập mạ lỵ giả
Hựu vô bố úy
Gia đao trượng đẳng
Diệc vô tẩn xuất
An trụ nhẫn cố
Trí giả như thị
Thiện tu kỳ tâm
Năng trụ an lạc
Như ngã thượng thuyết
Kỳ nhân công đức
Thiên vạn ức kiếp
Toán số thí dụ
Thuyết bất năng tận.
“Sau khi Ta diệt độ”: tức sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập Niết-bàn. Khi Đức Phật còn tại thế là thời kỳ Chánh pháp, sau khi Ngài diệt độ, có thời kỳ Tượng pháp, thời kỳ Mạt pháp. Hôm nay, vị cư sĩ từ Hương Cảng đến, nói câu “Sau khi Phật diệt độ”, quý vị nghe không hiểu, nên không biết là ý gì.
Đối với câu này, phát âm giữa Quảng Đông và Bắc Kinh vốn không khác nhau mấy, quý vị đều bảo nghe không hiểu; do đó, vị cư sĩ ấy cho rằng quý vị chẳng hiểu Phật pháp gì cả – Chân đế cũng không hiểu, Tục đế cũng không hiểu, Trung đế cũng không hiểu. Tôi thấy ông ta sanh lòng kiêu mạn, cho rằng mấy người xuất gia quý vị học Phật pháp đã lâu như vậy rồi mà ngay cả điều nhỏ nhặt “Trung đế, Tục đế, Chân đế” cũng không hiểu! Đây là những pháp đơn giản nhất. Cuối cùng, tôi phải phân trần giúp quý vị. Tôi bảo: “Không phải là họ không hiểu. Những đạo lý này, họ không những hiểu mà còn hiểu rất sâu! Thật đấy!”. Tôi nói: “đạo lý Kinh Lăng Nghiêm mà họ còn hiểu tường tận, huống chi luận này ư! Luận vốn rất dễ hiểu. Luận chính là biện luận với nhau mà! Biện luận như thế, đừng nói là người đã học qua Phật pháp mà ngay cả người chưa từng học qua Phật pháp cũng đều hiểu, đều biết tranh luận”.
Tôi lại nói: “Sở dĩ họ nói “không hiểu”, thứ nhất là họ khách sáo đối với ông. Nếu nói hiểu, cần gì ông giảng nữa chứ? Đây là ý thứ nhất. Thứ hai, không phải là họ không hiểu đạo lý này, mà là họ không hiểu tiếng Quảng Đông. Ý thứ ba, mặc dù họ hiểu, cũng phải nói “không hiểu”, vì sao à? Vì nếu như họ nói “hiểu rồi”, e rằng ông sẽ không giảng nữa!” Nghe tôi bảo thế, ông ta liền “Ồ!” lên một tiếng.
Tôi bảo: “Ông chớ xem thường họ, họ đều rất thông minh, thông minh gấp trăm lần kẻ làm sư phụ như tôi đây. Nhưng vì sao họ lại thành tâm đến học như vậy? Bởi vì họ cho rằng học với một người ngu si thì có thể học được một chút ngu si!”. Vừa nghe xong lý lẽ này, lòng kiêu mạn của ông ta lập tức bị dập tắt.
Sau này, quý vị chớ có khách sáo, cứ vận dụng trí tuệ của mình, nếu ông ta nói sai thì cứ thảo luận với ông ta. Quý vị nói: “Tôi lại có một kiến giải khác!”. Quý vị phải nên nghĩ đến kiểu lý luận mà ông ta không ngờ được, để biện luận với ông ta, để thử xem trí tuệ của ông ta thế nào? Tôi biết vị cư sĩ này không có định lực, chỉ mượn gió bẻ măngthôi. Ông ta chỉ nói được ngoài miệng, còn về công phu tu hành thật sự thì chẳng có chút nào cả; quý vị mắng ông ta một câu, ông ta sẽ khóc ngay. Vì sao lại khóc? Chính là vì không có định lực! Nếu có định lực, quý vị càng mắng, tôi càng cảm thấy dường như chẳng có việc gì cả. Đúng không nào? Nếu vị nào chọc tức ông ta một cái, ông ta cũng sẽ khóc ngay.
Học Phật pháp, sao gọi là “hiểu được Phật pháp”? Chính là “không khóc, cũng không cười”. Không nên nghe ông ta nói mấy câu tức cười thì quý vị liền bật cười. Quý vị cười như vậy, ông ta sẽ cho là trước giờ quý vị chưa từng được nghe Phật pháp, nên bây giờ mới thích thú như thế; đây là lý do thứ nhất. Lý do thứ hai, ông ta nói: “Ồ! Chắc là quý vị cười tôi, đúng không? Có phải tôi đã nói sai không?”, và ông ta không dám giảng nữa. Vì vậy, bất luận nghe người nào giảng, nếu là người có định lực, việc đáng cười cũng không cười, việc đáng khóc cũng không khóc; không nên nghe người khác giảng rồi khóc hoặc cười theo, như thế là không đúng. Sao gọi “khóc cười đều sai” (đề tiếu giai phi)? Quý vị khóc cũng không đúng, vui cười cũng không đúng. Vì vậy, quý vị hãy cẩn thận một chút! Chớ cho rằng cười là chuyện tốt; cười, có thể cười ra phiền phức đấy! Nghe giảng phải như vậy.
Chúng ta không nên nói nhiều chuyện ngoài lề như thế, giờ nên quay lại giảng trong kinh.
Bây giờ tôi đọc “sau khi Ta diệt độ”, nhất định quý vị sẽ hiểu. Quý vị xem, Ông ta nói: “sau khi Phật diệt độ”, tôi không biết tiếng Quảng Đông phát âm câu này thế nào? Quý vị lại càng không hiểu hơn!
“Nếu có vị Tỳ-kheo”: giả sử có Tỳ-kheo, cũng chính là người xuất gia hành pháp Bồ-tát, tu đạo Bồ-tát.
“Có thể diễn nói được”: có thể (năng), tức khả năng có thể làm được. Ví dụ như quý vị có thể phiên dịch mà không làm việc phiên dịch, đó chính là “có khả năng cũng như không”; nếu quý vị vốn không thể phiên dịch mà nhất định muốn thử làm, đó chính là “không có khả năng cũng có thể làm”. Quý vị xem! Nếu như cứ để quý vị chờ đợi, không bảo quý vị phiên dịch, đến bây giờ e rằng vẫn không thể làm được; buộc quý vị nhất định phải làm, vì vậy mới thành công, đây gọi là “có thể”. “Có thể diễn nói được”, tức có khả năng diễn thuyết kinh này. Rốt cuộc có thể thuyết không? Quý vị có thể giảng, chính là “năng thuyết”; quý vị có thể giảng mà không giảng, chính là “bất năng thuyết”, chẳng có gì lạ cả!
Tôi vốn cũng không có khả năng giảng, nhưng thấy không có người giảng thì liền thử thử; vừa thử qua, quả nhiên thành công, người Tây phương đến nghe rất đông! Thế là mỗi ngày tôi giảng ngày một lớn tiếng hơn, không còn sợ người đến nghe nữa. Trước kia, tôi giảng kinh tiếng lí nhí, vì sao à? Vì sợ người khác nghe thấy tôi giảng không đúng! Lỡ như có người đến bắt bẻ, phải làm thế nào đây? Lỡ họ tranh luận với tôi một chập, phải làm sao đây? Bây giờ tôi đã giảng được một thời gian khá lâu, nên không còn e sợ nữa, đây gọi là “không có khả năng cũng có thể làm được” – cũng có thể giảng kinh.
Quý vị nghe thấy chưa? Quý vị chớ cho là tôi biết giảng kinh. Đến cả nghe kinh tôi cũng không biết, vốn dĩ tôi không có tai, cũng không có mắt; chẳng những không có tai, không có mắt mà ngay cả mũi cũng tiêu luôn rồi. Nếu hỏi: “Không có tai, không có mắt, không có mũi? Thế có miệng không?” Miệng không thể mất, bằng không sẽ chẳng thể ăn được; tôi vẫn còn ăn được, nên biết miệng vẫn chưa mất, vì vậy vẫn có thể giảng kinh.
Quý vị xem có kỳ diệu không? Tai, mắt, mũi đều mất tiêu, nhưng cái miệng lại không mất; quý vị đã từng gặp qua một người như vậy chưa? Thực trạng hiện giờ chính là như vậy. “Có mắt không thấy Lô-xá-na, có tai không nghe giáo Viên đốn”; quý vị nói xem, nếu không phải đã mất, có mắt sao không thấy Đức Lô-xá-na? Có tai sao không nghe giáo pháp Viên đốn? Chư Phật có thất Hương Quang, thất “Hương Quang” này, bất luận quý vị ở gần hay xa cũng đều có thể ngửi được làn hương ấy; quý vị đã ngửi lâu như vậy rồi mà còn không cảm nhận được, quý vị bảo xem, đấy không phải là đã mất toi thì là cái gì? Không phải tôi đang nói chuyện tiếu mà thật sự là như thế đấy! (nơi Phật ở được gọi là “Hương thất”).
“Kinh Diệu Pháp Hoa này”: có thể nghe “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, có thể giảng nói “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, đây chính là pháp vi diệu không thể nghĩ bàn vậy!
Mọi người cũng nên quẳng tâm đi, nhưng tâm này không dễ quăng bỏ; vì sao vậy? Vì vừa mất, quý vị liền muốn tìm lại. Quý vị học Phật pháp, liền muốn tìm tâm của mình; người không học Phật pháp thì mặc tình cho nó mất mà chẳng hề tìm kiếm! “Không có lòng ganh hờn, không các não chướng ngại”: trong lòng không ganh tị, tức giận. Nếu quý vị có tâm ganh tị, tức có phiền não; có tức giận, lại càng phiền não hơn. Vì vậy, không ganh tị, không tức giận, tức không có các thứ phiền não chướng ngại.
“Cũng lại không ưu sầu, và cũng không mắng nhiếc”: không có phiền não, cũng không có chướng ngại. Chẳng những tự mình không có chướng ngại, mà đối với người khác cũng không có chướng ngại; không chỉ đối với người khác không có chướng ngại, mà khi người kia đối với mình có chướng ngại, nếu trong tâm chúng ta không có chướng ngại, thì chướng ngại ấy cũng không thể làm gì chúng ta được. Cũng như quý vị không có đồ vật dơ bẩn thì ruồi nhặng sẽ không bu đến; chỉ khi quý vị có những vật dơ bẩn, những vật không sạch sẽ thì ruồi nhặng mới tìm đến đấy thôi! Bên trong quý vị đã không có chướng ngại thì chướng ngại bên ngoài cũng không làm gì quý vị được, vì vậy cũng sẽ không có ưu sầu.
Cũng không có ai mắng nhiếc quý vị, quý vị cũng không mắng nhiếc người khác. Vì sao không bị người khác mắng? Vì quý vị không mắng họ. Vì sao bị người khác mắng? Bởi vì quý vị mắng họ. Tại sao tôi bị nhiều người mắng đến thế? Lại còn nói xấu tôi thế này, thế nọ nữa. Đó là vì tôi thích mắng người khác; tôi thích mắng người thì đương nhiên họ sẽ mắng lại tôi thôi! Vì vậy, nếu không muốn người khác mắng mình, trước tiên mình không nên mắng họ, đây là quy luật khách quan thật tế nhất; nếu quý vị không hiểu được quy luật khách quan này, chỉ lo tìm kiếm lý do bên ngoài: “Tại sao anh mắng tôi? Tại sao anh ấy không mắng anh?”
“Không có tâm sợ sệt, những dao gậy đánh đập”: cũng không khiếp sợ, cái gì cũng không sợ, chỗ gọi là
Dẫu gặp gươm đao, thường nhẹ hững
Ví nhằm thuốc độc, vẫn bình tâm.
(Túng ngộ phong đao thường thản thản
Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn)
Gặp người cầm thanh bảo kiếm đến muốn chém đầu ta, được thôi, chẳng hề gì! Giống như Nhị Tổ Thần Quang, Ngài đã bảo: “Ông chém đi! Chém đi!”. Thế là tên đao phủ chỉ trong một nhát, đã khiến đầu Ngài lìa khỏi cổ. Sau khi bị chém, Ngài không khóc, cũng không cười, từ trong cổ tuôn ra dòng sữa trắng. Dao, chính là dùng dao để chặt đầu. Khi ấy, nhà vua mới biết đã giết nhầm người, liền cho xây tháp miếu để phụng thờ Ngài. Nhưng đây chỉ mới là “mã hậu khách”, không phải “mã tiền khách”, Gia Cát Lượng mới chính là mã tiền khách.
Một lần nọ, Gia Cát Lượng đang ruổi ngựa, chợt một thám tử chặn trước đầu ngựa ngăn: “Xin Quân sư hãy dừng bước! Nếu tiến lên lúc này, chúng ta sẽ bị binh lính nước Ngụy giết chết!”. Gia Cát Lượng thản nhiên đáp: “Đừng ngại, không việc gì đâu! Bọn họ đã rút lui rồi!”. Khi thám tử tiến về phía trước thám thính lại, quả nhiên đội quân của Tào Tháo đã quay về, đây gọi là “mã tiền khách”. Nếu quý vị bảo: “Chờ một lát! Để tôi cho tra xét lại, xem thử thế nào?”, mấy ngày sau, thám tử trở về báo: “Quân của Tào Tháo đã rút rồi!”, lúc này quý vị mới nói: “Tôi sớm biết trước ông ta sẽ rút quân mà!”, như thế thì không được xem là đã đoán ra, đấy chính là mã hậu khách. Phải đoán biết trước mới được kể là “mã tiền khách”, còn về sau mới biết, chờ người khác báo cáo lại, quý vị mới bảo: “Ồ! Tôi sớm biết trước việc này rồi”, thì đó chỉ là mã hậu khách. Cũng giống như tôi vậy, việc gì tôi cũng đều biết, nhưng là mã hậu khách, không biết mã tiền khách. Mã hậu khách cũng rất diệu đấy!
Mã tiền khách cũng có thể biến thành mã hậu khách, mã hậu khách cũng có thể biến thành mã tiền khách. Trước kia tôi cũng đã từng giảng, Viên Thiên Cang và Lý Thuần Phong (cả hai đều là nhà tiên tri lỗi lạc dưới thời Đường Thái Tông) có khả năng đoán biết trước những việc chưa xảy ra. Một lần, có người nắm một con chim trong tay, mang đến đố họ: “Các ông đoán thử xem, con chim này sống hay chết?” Nếu họ bảo con chim sống, người kia sẽ bóp mạnh, khiến nó chết; còn nếu họ đoán là con chim chết, anh ta sẽ xòe bàn tay cho chim bay đi. Quý vị nói xem, phải đoán thế nào đây? Quý vị nói đến nước này, thì dùng cách mã tiền khách hay mã hậu khách đây? Dù là mã tiền khách hay mã hậu khách cũng đều không nên dùng, chớ có đoán! Giảng cả buổi trời, rốt cục mã tiền khách cũng không nên học, mã hậu khách cũng không nên học.
“Cũng không bị xua đuổi”: không bị người khác tẩn xuất. Tẩn xuất, ví dụ mọi người cùng ở một chỗ với nhau, trong lúc chung đụng, quý vị khiến cho họ bực mình, thế là đuổi quý vị đi. Hoặc là mọi người cùng ở chung, tôi và quý vị không thuận thảo với nhau; quý vị trông thấy tôi, liền sa sầm nét mặt lại; tôi thấy quý vị, mặt không sa sầm thì cũng đỏ phừng phừng. Cứ như thế, trong tâm mọi người có sự bực bội. Trong lòng bực bội, sẽ phát ra những lời cáu gắt, sau đó sẽ không ở chung với nhau nữa! Bảo rằng: “Anh sân si như thế, không thể ở chung với chúng tôi được, hãy mau xéo đi!”, rồi dời quý vị đến chỗ khác, đây gọi là “tẩn xuất”.
Thế tại sao không bị tẩn xuất? chính vì nhẫn nại, cũng không gây chướng ngại cho người khác; người khác gây chướng ngại cho mình, mình cũng không để ý đến. Ví như họ mắng mình, mình tự nhủ: “mắng ai thế? Không phải mắng mình đâu?”. Nếu họ réo thẳng tên quý vị ra mà mắng, bảo: “Này Quả Minh! Mi là đồ tồi!”. “Ồ! Tôi là “Minh”, minh thì không phải “bất minh”, chẳng hề chi!” đây mới là thật sự minh. Nếu họ bảo “Quả Bất Minh!”; “Ồ! Ai gọi “Quả Bất Minh”? Tôi không phải là “Quả Bất Minh”, vậy không phải là tôi rồi!”, được như thế thì sẽ không có chuyện gì xảy ra.
Quý vị biết nhẫn, bất luận là “Quả Minh hay Quả Bất Minh”, quý vị đều không để ý đến, hãy quên cái “Minh” đó đi, biến nó thành không. Quý vị không phải “Minh”, cũng không có người tên Minh; đã không có người thì lấy ai để nổi nóng”? Do vì vị ấy có thể nhẫn, có thể nhường nhịn, mới không bị tẩn xuất. “Vì an trụ nhẫn vậy”: do vì vị ấy đã an trụ trong “nhẫn”.
“Người trí được như vậy”: đây mới thực sự là người có trí huệ vậy! Quý vị là người có đại trí, đại huệ, cớ sao chỉ vì một chuyện cỏn con mà lại nổi nóng cơ chứ? Không nên nổi nóng. Nếu có nổi nóng, cũng không hẳn là thật, hoặc chỉ là giả vờ; giả sử nổi nóng, vẫn chẳng phải nổi nóng thật, quý vị cần phải phân biệt rõ ràng. “Khéo tu tập tâm mình, có thể trụ an lạc, như Ta nói ở trên”: đây gọi là khéo tu tâm của mình, thì có thể trụ nơi hạnh môn “an lạc”, như đạo lý Ta đã nói ở phần trên.
Nếu có thể tu tập pháp Bồ-tát, hành đạo Bồ-tát như Ta đã nói ở trên, thì: “công đức của người đó, trong ngàn muôn ức kiếp, tính kể hay thí dụ, nói chẳng thể hết được”: công đức của người này, trong trăm ngàn vạn ức kiếp, dù dùng toán học để tính, dùng thí dụ để so sánh, cũng không cách gì nói cho hết được. Loại công đức này rất lớn, vô lượng vô biên, không cùng không tận, ngay cả Đức Phật có dùng các kiểu thí dụ, cũng không cách gì nói cho hết được.
G3. Hạnh Ý An Lạc (phân 2 phần)
H1. Trường Hàng (phân 3 phần)
I1. Giải Thích Hạnh “Chỉ”
I2. Giải Thích Hạnh “Quán”
I3. Giải Thích Rõ Thế Nào Là Hạnh Ý An Lạc Đã Thành Tựu
H2. Trùng Tụng
I1. GIẢI THÍCH HẠNH “CHỈ”
Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát Ma-ha-tát ở đời sau, lúc pháp sắp diệt, người thọ trì, đọc tụng kinh điển này, không có tâm ganh ghét, dua dối,cũng chớ khinh mắng người học Phật, vạch tìm chỗ hay dở của họ. Nếu hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, người cầu Thanh văn, người cầu Bích-chi-phật, người cầu Bồ-tát đạo, không được phiền nhiễu khiến họ sanh lòng nghi hối, nói với họ rằng: “Các người cách đạo rất xa, trọn không thể được Nhất thiết chủng trí. Vì sao? Vì các người là kẻ phóng dật, biếng nhác đối với đạo”. Lại cũng không nên hý luận các pháp, có sự tranh cãi.
Hựu Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát Ma-ha-tát, ư hậu mạt thế, pháp dục diệt thời, thọ trì độc tụng tư kinh điển giả, vô hoài tật đố siểm cuống chi tâm, diệc vật khinh mạ học Phật đạo giả, cầu kỳ trường đoản. Nhược Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cầu Thanh văn giả, cầu Bích-chi-phật giả, cầu bồ-tát đạo giả, vô đắc não chi, linh kỳ nghi hối, ngữ kỳ nhân ngôn: nhữ đẳng khứ đạo thậm viễn, chung bất năng đắc nhất thiết chủng trí. Sở dĩ giả hà? Nhữ thị phóng dật chi nhân, ư đạo giãi đãi cố. Hựu diệc bất ưng hý luận chư pháp, hữu sở tranh cạnh.
“Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi!”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại gọi một tiếng.
“Văn-thù-sư-lợi”! “Bồ-tát Ma-ha-tát ở đời sau, lúc pháp sắp diệt”: Đại Bồ-tát ông! Bồ-tát này, không phải chỉ có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mà là chỉ chung cho các Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo. Trong thời Mạt pháp sau này, sau khi Ta nhập Niết-bàn, lúc Chánh pháp sắp sửa đoạn diệt. Đó là lúc nào? Chính là lúc tuổi thọ con người giảm xuống còn hai mươi tuổi, mười lăm tuổi, thậm chí giảm đến khi tuổi thọ con người chỉ còn lại mười tuổi; bình quân con người chỉ sống đến mười tuổi thì chết, đến lúc ấy, Phật pháp cũng sẽ diệt vong, không còn tồn tại trên thế gian này nữa.
“Người thọ trì, đọc tụng kinh điển này, không có tâm ganh ghét, dua dối”: người có thể thọ trì, đọc tụng bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, trong lòng vị ấy không có các thứ tâm ganh ghét (đố kỵ), nịnh hót (siểm mị), dối trá (khi cuống). Siểm mị, tức thấy người có tiền liền vui vẻ lân la đến gần; thấy người không tiền liền khởi tâm kiêu ngạo, tỏ vẻ khó chịu. Cuống, tức nói dối. Không những chẳng nên có những hành vi này, mà ngay cả những tâm ganh ghét, nịnh hót, dối trá cũng không nên có.
“Cũng chớ khinh mắng người học Phật, vạch tìm chỗ hay dở của họ”: cũng không nên mắng nhiếc người tu học Phật pháp một cách tùy tiện, bảo họ: “Anh ta học Phật pháp, thế mà đi làm những việc chẳng ra gì! Anh ta phạm lỗi thế này… thế này…” ; hoặc nói: “Anh ta rất tốt, thấy Phật liền lạy, đây là ưu điểm của anh ấy; nhưng vừa lạy Phật xong, anh ta liền đánh mẹ, mắng cha, người như thế thật chẳng ra gì!”, chính là nói chỗ hay dở của người tu Phật, chỉ vạch chỗ đúng sai của người khác.
“Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di”: hoặc là có các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, hoặc là Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di v.v…, hoặc “Người cầu Thanh văn, người cầu Bích-chi-phật, người cầu Bồ-tát đạo”: người cầu đạo Thanh văn, chính là người tu “pháp Tứ đế” (khổ, tập, diệt, đạo); người cầu Bích-chi-phật chính là người tu “pháp Thập nhị nhân duyên”; người cầu Bồ-tát đạo, chính là người tu “Lục độ vạn hạnh”, là pháp tu của hàng Bồ-tát. Phàm là người người nam, người nữ xuất gia; người nam, người nữ tại gia; và những người cầu pháp Thanh văn, pháp Bích-chi-phật, cầu đạo Bồ-tát thì “không được phiền nhiễu khiến họ sanh lòng nghi hối”: chớ đắc tội với họ, chớ làm cho họ buồn phiền. Nếu buồn phiền, họ sẽ khởi tâm nghi hối; khi đã khởi tâm nghi hối thì không thể tinh tấn, không thể tu hành được.
“Nói với họ rằng”: giả như nói với những người ấy rằng “Các người cách đạo rất xa, trọn không thể được Nhất thiết chủng trí”: mấy người các vị tu hành cái gì? Quý vị còn cách đạo rất xa! Quý vị không thể thành công! Cứ theo đà này, rốt cuộc quý vị cũng sẽ chẳng đạt được Nhất thiết chủng trí chân chánh của chư Phật. Nhất thiết trí là “Tục đế”, Chủng trí là “Chân đế”. Nhất thiết chủng trí là phi tục phi chân, đây là “Trung đế”; Trung đế là trí huệ của Phật.
“Vì sao”: Nguyên nhân nào quý vị không thể đạt được Nhất thiết chủng trí? “Vì các người là kẻ phóng dật, biếng nhác đối với đạo”: vì quý vị là người quá phóng dật. Phóng, là phóng đãng; dật, là an dật. Vừa phóng đãng, lại an dật, tức là vừa không thích làm việc, lại thích nghỉ ngơi; đây là người phóng dật, cũng không giữ phép tắc. Bởi vì quý vị biếng nhác đối với đạo, nên quý vị sẽ không thành Phật, sẽ không đạt được Nhất thiết chủng trí.
Không nên khởi tâm xem thường họ mà thốt ra những lời như thế, “Lại cũng không nên hý luận các pháp, có sự tranh cãi”: đồng thời, cũng không nên đem các pháp của Phật ra đùa cợt, giảng nói, bàn luận một cách tùy tiện; ví như hát tuồng, đem Phật pháp ra mà nói đùa, tùy ý đàm luận. Hý luận là giảng không chân thật. Tức có sự tranh luận hơn thua, rõ ràng là hợp Phật pháp, người kia nói không hợp Phật pháp; rõ ràng là đúng, người kia lại bảo không đúng, đây gọi là “tranh cãi”, cố ý giảo biện. Giảo là giảo hoạt, biện là biện luận, không tuân giữ phép tắc. Quý vị không nên làm cho người khác phiền não, không nên nói: “các vị rất lười biếng, các vị không thể thành Phật!”, không nên nói như thế.
I2. GIẢI THÍCH HẠNH “QUÁN”
Nên đối với tất cả chúng sanh, khởi tưởng đại bi; đối với các Đức Như Lai, khởi tưởng như cha lành; đối với Bồ-tát, khởi tưởng như bậc Đại sư; đối với các Đại Bồ-tát ở mười phương, thường phải một lòng cung kính lễ bái. Bình đẳng nói pháp cho tất cả chúng sanh, vì thuận theo pháp, không nói nhiều cũng chẳng nói ít, nhẫn đến người rất ưa thích pháp, cũng chẳng nói nhiều với họ.
Đương ư nhất thiết chúng sanh, khởi đại bi tưởng; ư chư Như Lai, khởi từ phụ tưởng; ư chư Bồ-tát, khởi đại sư tưởng; ư thập phương chư Đại Bồ Tát, thường ưng thâm tâm cung kính lễ bái. Ư nhất thiết chúng sanh, bình đẳng thuyết pháp, dĩ thuận pháp cố, bất đa bất thiểu, nãi chí thâm ái pháp giả, diệc bất vị đa thuyết.
Quý vị phải có thái độ thế nào? “Nên đối với tất cả chúng sanh, khởi tưởng đại bi”: nên khởi tưởng lòng đại bi đối với tất cả chúng sanh; thấy chúng sanh quá khổ, ta nên nhổ trừ cái khổ cho họ. “Đối với các Đức Như Lai, khởi tưởng như cha lành”: đối với tất cả chư Phật, nên nghĩ rằng: tất cả các Đức Như Lai là người cha đại từ bi của chúng ta. Phải nghĩ như thế! “Đối với Bồ-tát, khởi tưởng như bậc Đại sư”: đối với tất cả các vị Bồ-tát, chúng ta nên nghĩ rằng: À! Đây là sư phụ dạy pháp tu hành cho chúng ta, đây là lương sư thiện đạo dạy dỗ chúng ta, có thể dùng nhiều phương pháp dẫn dắt chúng ta trên con đường tu tập. “Đối với các Đại Bồ-tát ở mười phương, thường phải một lòng cung kính lễ bái”: nên thật thành tâm đối với các vị Đại Bồ-tát khắp mười phương, cần phải lễ bái một cách cung kính đối với các vị Đại Bồ-tát trong mười phương, phải luôn giữ tâm như thế.
“Bình đẳng nói pháp cho tất cả chúng sanh”: đối với tất cả chúng sanh, nên bình đẳng từ bi mà thuyết pháp; phải bình đẳng, không có tâm chọn lựa. “Vì thuận theo pháp, không nói nhiều cũng chẳng nói ít”: vì tùy thuận nhân duyên của pháp này, không nói pháp cho chúng sanh này nhiều hơn một chút, cũng không nói pháp cho chúng sanh kia ít hơn một chút. Không chọn lựa đối tượng để nói pháp, cho rằng người này rất cung kính mình, liền nói pháp cho họ nhiều hơn một chút; người kia không cung kính mình, bèn nói pháp cho họ ít hơn một chút. Không nên như thế! Cung kính hay không cung kính, tin hay không tin, đều nên thuyết pháp cho họ giống như nhau, không thêm, cũng không bớt. “Nhẫn đến người rất ưa thích pháp, cũng chẳng nói nhiều với họ”: thậm chí người đến nghe pháp, cầu pháp rất yêu thích pháp này; ngay cả người như vậy, cũng không nói pháp cho họ nhiều hơn một chút.
I3. GIẢI THÍCH RÕ THẾ NÀO HẠNH Ý AN LẠC ĐÃ THÀNH TỰU
Văn-thù-sư-lợi! Vị Bồ-tát Ma-ha-tát này, trong đời Mạt pháp về sau, lúc pháp sắp diệt, có người thành tựu hạnh an lạc thứ ba đây. Khi nói pháp này, không ai có thể não loạn; được bạn đồng học tốt, cùng đọc tụng kinh này, cũng được đại chúng đến nghe thọ, nghe rồi có thể thọ trì, thọ trì rồi có thể tụng, tụng rồi có thể thuyết, thuyết rồi có thể chép, hoặc bảo người chép, cúng dường quyển kinh, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.
Văn-thù-sư-lợi! Thị Bồ-tát Ma-ha-tát, ư hậu Mạt thế, pháp dục diệt thời, hữu thành tựu thị đệ tam an lạc hạnh giả. Thuyết thị pháp thời, vô năng não loạn, đắc hảo đồng học, cộng độc tụng thị kinh, diệc đắc đại chúng nhi lai thính thọ, thính dĩ năng trì, trì dĩ năng tụng, tụng dĩ năng thuyết, thuyết dĩ năng thư, nhược sử nhân thư, cúng dường kinh quyển, cung kính tôn trọng tán thán.
“Văn-thù-sư-lợi”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni gọi một tiếng “Văn-thù-sư-lợi”! Ông nên biết! “Vị Bồ-tát Ma-ha-tát này, trong đời Mạt pháp về sau, lúc pháp sắp diệt”: Vị Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo, ở tương lai lúc pháp sắp diệt, “có người thành tựu hạnh an lạc thứ ba đây”: có vị Bồ-tát có thể thành tựu “hạnh ý an lạc” thứ ba này.
“Khi nói pháp này, không ai có thể não loạn”: đang lúc giảng bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, không người nào có thể não loạn quý vị được. Vì sao? Vì quý vị giảng “Kinh Pháp Hoa”, tất cả các vị hộ pháp trong hàng trời, rồng… tám bộ chúng[1] đều sẽ ủng hộ quý vị; vả lại, bởi vì xưa kia quý vị không gieo nhân não loạn chúng sanh khác, nên hiện đời cũng sẽ không bị chúng sanh não loạn quý vị.
“Được bạn đồng học tốt, cùng đọc tụng kinh này”: đến với quý vị, đều là những người rất tốt, cùng nhau tu hành, mọi người cùng đọc tụng bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này. Hiện tại chúng ta đều nghiên cứu “Kinh Pháp Hoa”, đây có thể nói là “được bạn đồng học tốt”, quý vị không nên cáu kỉnh với nhau! Nên làm bạn đồng học tốt của nhau! Mọi người đều phải cung kính lẫn nhau! “Cũng được đại chúng đến nghe thọ”: không những mọi người cùng nhau nghiên cứu “Kinh Pháp Hoa”, mà còn được rất nhiều người đến nghe và thọ trì bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.
“Nghe rồi có thể thọ trì”: sau khi nghe “Kinh Pháp Hoa” này rồi, không phải nghe xong là thôi, quý vị cần nên thọ trì bộ “Kinh Pháp Hoa” này. “Thọ trì rồi có thể tụng”: Sau khi thọ trì rồi, quý vị liền có thể tụng niệm. Trì là hằng trì, tức là thường nên học “Kinh Pháp Hoa”; nếu không học, thì không phải hằng trì. Chờ đến khi quý vị thọ trì “Kinh Pháp Hoa” một thời gian dài rồi, thì không cầm đến quyển kinh, mà vẫn có thể tụng được, vẫn có thể nhớ được, chứ không chỉ là có thể đọc thôi. Trì chính là đọc “Kinh Pháp Hoa”; tụng chính là thuộc lòng “Kinh Pháp Hoa”. Để quyển kinh trước mặt, gọi là “trì”, cũng gọi là “đọc”; không cần sử dụng đến quyển kinh, gọi là “tụng”. “Tụng rồi có thể thuyết”: không những có thể thuộc lòng mà còn có thể giảng giải. “Thuyết rồi có thể chép”: không phải chỉ có thể giảng là xong mà còn phải có thể chép bộ kinh này ra.
Đây là năm hạng pháp sư – do tụng niệm, thuộc lòng, thọ trì, biên chép, giảng nói mà làm pháp sư. Tôi có quen pháp sư Như Liên. Chữ viết của ngài rất đẹp. Mỗi ngày ngài đều ngồi xếp bằng như thế này ở trong phòng để chép “Kinh Pháp Hoa”; chép xong rồi, lại đem photocopy, đóng thành một bộ “Kinh Pháp Hoa”. Vị Hòa thượng này trước kia làm quan, về sau xuất gia, chuyên chép “Kinh Pháp Hoa”.
“Hoặc bảo người chép, cúng dường quyển kinh, cung kính, tôn trọng, ngợi khen”: nếu tự mình không thể chép kinh, có thể nhờ người khác chép bộ “Kinh Pháp Hoa” này. Chép xong một bộ, chúng ta đích thân cúi đầu đảnh lễ, lễ bái “Kinh Pháp Hoa” này, cung kính “Kinh Pháp Hoa” này, tôn trọng “Kinh Pháp Hoa” này, tán thán “Kinh Pháp Hoa” này. Bộ “Kinh Pháp Hoa” này, quý vị xem! Chư Phật đều đến đây để chứng minh, Đức Đa Bảo Như Lai cũng đến chứng minh, đây là tối diệu, thật không thể nào nghĩ bàn. Quý vị có tâm cung kính một phần thì sẽ được một phần cảm ứng điều lành; quý vị có tâm cung kính mười phần, thì sẽ được mười phần cảm ứng điều lành. Quý vị gặp được bộ “Kinh Pháp Hoa” này, không nên thờ ơ bỏ qua; cho nên quý vị được nghe “Kinh Pháp Hoa” này là điều bất khả tư nghì!
Ông bà, cha mẹ, thậm chí đến cả tổ phụ, tổ mẫu trước kia của quý vị đều có thể nói là chưa được nghe qua “Kinh Pháp Hoa”, bây giờ những người sanh sau đẻ muộn như quý vị lại được nghe “Kinh Pháp Hoa”, đây gọi là: “siêu Tổ bạt Huyền”, vượt cả đức hạnh tổ tông của quý vị, vì vậy đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Quý vị chớ cho rằng đây là sự việc rất bình thường! Hiện tại quý vị được học Phật pháp, chính là do có căn lành lớn, có đức hạnh lớn mới có thể được nghe kinh, học Phật pháp.
Tôi lại báo cho quý vị một tin tốt về Chánh Điện của chúng ta. Bây giờ mỗi tối đều có rất đông người, Chánh Điện này lại rất nhỏ; người thì rất đông, vì người đông mà ngồi trong Chánh Điện nhỏ nên không còn một chỗ trống. Đây gọi là “tọa vô hư tịch”, tức là không còn một cái ghế trống; với tình hình này, phải tìm một chỗ rộng hơn. Vì thế mỗi tối, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di của Phật Giáo Giảng Đường đều tụng “Chú Đại Bi”; đều nói: “Chánh Điện này mau lớn hơn một chút! Mau chóng rộng hơn một chút, sẽ ngồi thêm được nhiều người một chút!”, tụng chú lâu ngày như thế, trong tuần lễ này, tôi tin rằng Chánh Điện này sẽ rộng ra. Rộng đến cỡ nào? Có thể chứa được bốn, năm trăm người, có thể rộng lớn như thế! Ngồi bốn năm, trăm người, e rằng vẫn còn chỗ trống, quý vị nói xem, có phải là diệu hay không chứ? Chánh Điện nhỏ hẹp này sẽ rộng lớn thêm, quý vị sẽ không ngờ; đợi đến khi nó rộng ra, quý vị sẽ biết, đây đúng là bất khả tư nghì!
Hôm nay tôi báo cho quý vị nghe tin vui này, mọi người trở về nhà, cũng hãy niệm chú giúp, nguyện rằng: “Phật Giáo Giảng Đường mau rộng lớn hơn một chút nhé! Hội Phật Giáo Trung Mỹ cũng sẽ mau phát triển hơn một chút!”. Rộng đến cỡ nào? Càng rộng càng tốt! Bất luận người đông cỡ nào cũng đều có chỗ ngồi. Giống như ngôi Đại Hùng Bảo Điện của chùa Phổ Tế trên núi Phổ Đà, quý vị thấy dường như không lớn lắm, nhưng có một ngàn người vào cũng có thể đứng đủ; thậm chí có mười ngàn người, đại điện này cũng có chỗ; cho dù có một trăm ngàn người, trong đại điện này vẫn có chỗ; vì vậy đây chính là một Bảo Điện bất khả tư nghì.
Thời gian này, quý vị phải niệm chú cho ra một Bảo Điện; Bảo Điện này cũng sẽ có thể lớn, có thể nhỏ. Người đông một chút, nó liền to ra một chút; người ít đi một chút, nó liền nhỏ lại một chút. Quý vị chưa nghe nói đến cảnh giới diệu như thế, đạo tràng tương lai của chúng ta nhất định sẽ như thế, có được công năng này; người đông, nó sẽ to ra, người ít, nó thâu nhỏ lại. Nếu như vị nào không tin, cứ thử chờ xem! Quý vị ở Phật Giáo Giảng Đường hoặc hội Phật Giáo Trung Mỹ trong khoảng ba năm thì sẽ biết giảng đường này: “A! Là như thế!”, người đông nó sẽ rộng ra, người ít nó sẽ hẹp lại; quý vị nên biết, tin tốt tôi báo cho quý vị hôm nay, hoàn toàn là sự thật.
Có người sẽ bảo: “Tôi tuyệt đối không tin có đạo tràng như thế!”, đợi khi quý vị nhìn thấy, người nào không tin cũng phải tin! Khi chưa tận mắt nhìn thấy, tôi bảo quý vị tin, quý vị cũng sẽ không tin. Vì vậy, vấn đề hiện giờ không phải tin hay không tin, đợi sau này, quý vị sẽ rõ thôi! Vào ngày mùng một tháng giêng chúng ta khai giảng lớp hè thứ nhất, tôi đã nói với một người, không biết đó là là tín đồ Phật giáo hay là đệ tử của ma vương, rằng: “Năm nay, Phật giáo nước Mỹ sẽ nở một đóa sen lớn!”. Người ấy nói: “Thật à?”. Tôi bảo: “Sau này ông sẽ thấy!”. Thế mà khi khai giảng lớp hè, ông ta không dám nhìn đóa sen ấy, ông ta sợ. Hoa sen này đã nở, ông ta cũng không thấy.
[1] Tám bộ chúng (bát bộ chúng 八部眾): tám bộ quỉ thần, các vị thần bảo hộ Phật pháp, gồm: trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la và ma-hầu-la-già.
H2. Trùng Tụng (phân 2 phần)
I1. Giải Thích (phân 2 phần)
J1. Hạnh “Chỉ”
J2. Hạnh “Quán”
I2. Hạnh Ý An Lạc Đã Thành Tựu
J1. HẠNH “CHỈ”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này, mà nói kệ rằng:
Nếu muốn thuyết kinh này
Phải bỏ tâm ganh hờn
Mạn, dua, dối tà ngụy
Thường tu hạnh chất trực
Chẳng nên khinh miệt người
Cũng chẳng hý luận pháp
Không khiến người nghi hối
Rằng: “Ông chẳng thành Phật”
Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:
Nhược dục thuyết thị kinh
Đương xả tật nhuế mạn
Siểm cuống tà ngụy tâm
Thường tu chất trực hạnh
Bất khinh miệt ư nhân
Diệc bất hý luận pháp
Bất linh tha nghi hối
Vân nhữ bất đắc Phật
“Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này, mà nói kệ rằng”: ngay khi ấy, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn nói lại nghĩa này một lần nữa, nên dùng kệ để giảng giải.
“Nếu muốn thuyết kinh này”: Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo, khi muốn giảng nói bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, “Phải bỏ tâm ganh hờn, mạn, dua, dối tà ngụy”: phải xả bỏ tâm ganh tỵ, oán giận, và cả tâm cống cao ngã mạn; cũng phải bỏ tâm nịnh hót người giàu sang, cũng không nên nói dối, chớ nên ôm ấp những thứ tâm tà ngụy này. “Thường tu hạnh chất trực”: thường phải tu hạnh lời nói và việc làm ngay thẳng này. Chất trực chính là lời nói và việc làm đều ngay thẳng, đối với bất kỳ người nào cũng không có dạ quanh co. “Chất trực” này tương phản với “quanh co”; chính là chỗ “trực tâm là đạo tràng”, phải dụng tâm chất trực.
“Chẳng nên khinh miệt người, cũng chẳng hý luận pháp”: không xem thường người, không thấy người khác thấp hèn; chẳng những không xem thường người mà cũng không khinh thường pháp. “Không khiến người nghi hối”: không nên khiến người khác khởi tâm hoài nghi đối với Phật đạo. “Rằng: Ông chẳng thành Phật”: không nên nói: “Anh lười biếng như vậy, giải đãi như vậy, thì không thể thành Phật!”, chớ nói như thế, chớ não loạn người khác!
J2. HẠNH “QUÁN”
Phật tử này nói pháp
Thường nhu hòa, hay nhẫn
Từ bi với tất cả
Chẳng sanh lòng biếng lười.
Đại Bồ-tát mười phương
Thương chúng nên hành đạo
Phải sanh lòng cung kính
Đây là Đại sư ta.
Với chư Phật Thế Tôn
Nghĩ đấng Cha Lành vô thượng
Phá trừ lòng kiêu mạn
Nói pháp không chướng ngại.
Thị Phật tử thuyết pháp
Thường nhu hòa năng nhẫn
Từ bi ư nhất thiết
Bất sanh giải đãi tâm
Thập phương Đại Bồ-tát
Mẫn chúng cố hành đạo
Ưng sanh cung kính tâm
Thị tắc ngã Đại sư
Ư chư Phật Thế Tôn
Sanh vô thượng phụ tưởng
Phá ư kiêu mạn tâm
Thuyết pháp vô chướng ngại
“Phật tử này nói pháp, thường nhu hòa, hay nhẫn”: vị Bồ-tát Ma-ha-tát này thuyết pháp, thường rất dịu dàng, hay nhẫn nhục, đây là “mặc áo Như Lai” (trước Như Lai y). “Từ bi với tất cả”: dùng lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh; đây chính là “vào nhà Như Lai” (nhập Như Lai thất). “Chẳng sanh lòng biếng lười”: không khởi tâm khinh mạn, biếng nhác.
“Đại Bồ-tát mười phương, thương chúng nên hành đạo”: Bồ-tát Ma-ha-tát trong mười phương, các Ngài vì sao hành Bồ-tát đạo? Vì thương xót chúng sanh, nên các Ngài tu hành Bồ-tát đạo. “Phải sanh lòng cung kính, đây là Đại sư ta”: chúng ta phải một dạ cung kính đối với Bồ-tát Ma-ha-tát ở mười phương; Phải quán tưởng thế nào? Nên nghĩ: Đây là bậc thầy tốt nhất của mình! “Với chư Phật Thế Tôn, nghĩ đấng Cha Lành vô thượng”: Đối với Đại Bồ-tát, nghĩ tưởng như là bậc Đại sư, đối với chư Phật Thế Tôn, nghĩ tưởng như người cha đại từ bi vô thượng. “Phá trừ lòng kiêu mạn, nói pháp không chướng ngại”: nên phá trừ tâm kiêu ngạo, ngã mạn. Khi nói tất cả pháp, phải không có chỗ chướng ngại.
I2. HẠNH Ý AN LẠC ĐÃ THÀNH TỰU
Pháp thứ ba như thế
Người trí phải giữ gìn
Một lòng an lạc hạnh
Vô lượng chúng cung kính.
Đệ tam pháp như thử
Trí giả ưng thủ hộ
Nhất tâm an lạc hạnh
Vô lượng chúng sở kính.
Phần thứ ba, “hạnh ý an lạc” là như thế. Người có trí, nên y theo phương pháp này mà tu tập, giữ gìn hạnh an lạc này, một lòng tu tập hạnh an lạc này. Vô lượng chúng sanh đều nên cung kính vị Bồ-tát tu hành Bồ-tát đạo y như thế.
G. Thệ Nguyện Hạnh An Lạc (phân 2 phần)
H1. Trường Hàng (phân 2 phần)
I1. Nói Rõ Hành Pháp (phân 2 phần)
J1. Giải Thích Hành Pháp
J2. Giải Thích rõ Thế Nào Là Thệ Nguyện Hạnh An Lạc Đã Thành Tựu
I2. Khen Ngợi Kinh Pháp
H2. Trùng Tụng (phân 2 phần)
J1. GIẢI THÍCH HÀNH PHÁP
Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát Ma-ha-tát ở đời Mạt pháp sau này, lúc pháp sắp diệt, có vị nào trì Kinh Pháp Hoa này, ở trong hàng người tại gia, xuất gia sanh lòng đại từ; ở trong hàng người chẳng phải Bồ-tát, sanh lòng đại bi, nên nghĩ thế này: những người như thế thì bị mất lợi lớn. Đức Như Lai phương tiện, tùy nghi thuyết pháp mà chẳng nghe, chẳng biết, chẳng giác, không hỏi, không tin, không hiểu. Người đó dầu không hỏi, không tin, không hiểu kinh này, khi ta đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, tùy ở chỗ nào, ta đều dùng sức thần thông, sức trí huệ dẫn dắt, khiến họ được trụ trong pháp này.
Hựu Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát Ma-ha-tát, ư hậu Mạt thế, pháp dục diệt thời, hữu trì thị Pháp Hoa Kinh giả, ư tại gia xuất gia nhân trung, sanh đại từ tâm, ư phi Bồ-tát nhân trung, sanh đại bi tâm, ưng tác thị niệm: như thị chi nhân, tắc vị đại thất. Như Lai phương tiện, tùy nghi thuyết pháp, bất văn, bất tri, bất giác, bất vấn, bất tin, bất giải. Kỳ nhân tuy bất vấn, bất tin, bất giải thị kinh, ngã đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề thời, tùy tại hà địa, dĩ thần thông lực, trí huệ lực dẫn chi, linh đắc trụ thị pháp trung.
“Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại gọi Bồ-tát Diệu Cát Tường này một tiếng. Ngài bảo: “Này Diệu Cát Tường”! “Bồ-tát Ma-ha-tát ở đời Mạt pháp sau này, lúc pháp sắp diệt”: Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo, vào đời Mạt pháp sau này, khi pháp sắp sửa đoạn diệt, “có vị nào trì Kinh Pháp Hoa này”: nếu có Bồ-tát nào thọ trì, đọc tụng “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”. “Ở trong hàng người tại gia, xuất gia sanh lòng đại từ”: tại gia, là chỉ cho Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di; xuất gia, chính là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni. Ở trong những hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni và Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di này, nên khởi lòng đại từ. Từ, tức có thể làm cho chúng sanh đều đạt được an lạc. “Ở trong hàng người chẳng phải Bồ-tát, sanh lòng đại bi”: ở trong hàng người không tu hành pháp Phật, thậm chí đối với những kẻ hủy báng pháp Phật, nên khởi lòng đại bi. Bi năng cứu khổ, có thể trừ bỏ khổ của những chúng sanh tạo tội.
“Nên nghĩ thế này: những người như thế thì bị mất lợi lớn”: nên khởi ý nghĩ này. Là ý nghĩ gì? Như hạng người bị mất đi lợi ích rất lớn! Đây là tổn thất rất lớn của họ! Tổn thất lớn điều gì? “Đức Như Lai phương tiện, tùy nghi thuyết pháp”: pháp mà Đức Như Lai thuyết đều là phương tiện tùy nghi; gặp hạng người nào, sẽ giảng pháp gì. Gặp hạng người có căn tánh Đại thừa thì nói pháp Đại thừa; gặp hạng người có căn tánh Tiểu thừa thì nói pháp Tiểu thừa. Chỗ gọi là “Phật dùng một âm diễn nói pháp, chúng sanh tùy loài đều được hiểu” (Phật dĩ nhất âm diễn thuyết pháp, chúng sanh tùy loại các đắc giải). Đức Phật chỉ dùng một loại âm thanh để diễn nói Phật pháp, chúng sanh chủng loại không đồng nhau, nhưng mỗi loại đều hiểu rõ pháp Phật thuyết.
Hiện nay, loại người tạo tội này không nghĩ đến việc học Phật pháp, “chẳng nghe, chẳng biết, chẳng giác, không hỏi, không tin, không hiểu”: chẳng nghe Phật pháp, cũng chẳng biết Phật pháp, tự mình cũng chẳng giác ngộ. Vì sao chẳng nghe, chẳng biết, chẳng giác? Chính vì không thưa hỏi; tự mình không hiểu biết, cũng không hỏi người hiểu biết. Người ấy không có lòng tin, cũng không thật sự muốn hiểu Phật pháp. Vì vậy, hạng người này bị thiệt hại rất lớn.
“Người đó dầu không hỏi, không tin, không hiểu kinh này”: hạng người này, tuy không thưa hỏi diệu lý của “Kinh Pháp Hoa”, không tin diệu lý của “Kinh Pháp Hoa”, cũng không hiểu rõ diệu lý của “Kinh Pháp Hoa” này. “Khi ta đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, tùy ở chỗ nào, ta đều dùng sức thần thông, sức trí huệ dẫn dắt, khiến họ được trụ trong pháp này”: Ta, đây là Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo. Vị ấy phát nguyện: khi ta đạt được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, bất luận ở nơi nào, ta đều dùng năng lực thần thông và năng lực trí huệ của mình để tiếp dẫn hạng người không nghe, không hỏi, không tin kia, khiến cho họ cũng sẽ trụ trong diệu pháp này.
J2. GIẢI THÍCH RÕ THẾ NÀO LÀ THỆ NGUYỆN HẠNH AN LẠC ĐÃ THÀNH TỰU
Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát Ma-ha-tát ấy, vào lúc sau khi Đức Như Lai diệt độ, thành tựu pháp thứ tư đây, lúc nói pháp này, không có lỗi lầm, thường được các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, Bà-la-môn, cư sĩ cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Chư thiên ở trên không, vì nghe pháp cũng thường theo hầu. Nếu ở thôn xóm, thành ấp, rừng núi vắng vẻ, có người đến muốn gạn hỏi, hàng chư thiên thường vì pháp mà ngày đêm bảo vệ vị ấy, có thể khiến cho người nghe đều được vui mừng. Vì sao? Vì kinh này được thần lực của tất cả các Đức Phật thuở quá khứ, vị lai, hiện tại bảo hộ.
Văn-thù-sư-lợi! Thị Bồ-tát Ma-ha-tát, ư Như Lai diệt hậu, hữu thành tựu thử đệ tứ pháp giả, thuyết thị pháp thời, vô hữu quá thất, thường vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, Bà-la-môn, cư sĩ đẳng, cúng dường cung kính, tôn trọng tán thán. Hư không chư thiên, vị thính pháp cố, diệc thường tùy thị. Nhược tại tụ lạc, thành ấp. không nhàn lâm trung, hữu nhân lai dục nạn vấn giả, chư thiên trú dạ, thường vị pháp cố, nhi vệ hộ chi, năng linh thính giả giai đắc hoan hỷ. Sở dĩ giả hà? Thử kinh thị nhất thiết quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, thần lực sở hộ cố.
“Văn-thù-sư-lợi”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại gọi một tiếng “Văn-thù-sư-lợi”! “Bồ-tát Ma-ha-tát ấy, vào lúc sau khi Đức Như Lai diệt độ, thành tựu pháp thứ tư đây”: hàng Đại Bồ-tát này, sau khi Phật diệt độ, có vị thành tựu hạnh an lạc thứ tư; hạnh an lạc thứ tư ở đây chính là “phát nguyện”.
Vị ấy có thể thành tựu hạnh an lạc thứ tư nêu trên, “lúc nói pháp này, không có lỗi lầm”: ngay khi giảng nói bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, cũng không có lỗi lầm. “Thường được các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di”: vị ấy thường được tất cả Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cho đến “Quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, Bà-la-môn, cư sĩ”, “cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen”: những hạng người này đều sẽ cúng dường, cung kính vị ấy, lại còn tôn trọng, ngợi khen vị ấy. Không chỉ người trong nhân gian cung kính cúng dường, khen ngợi vị Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo như thế, ngay cả “chư thiên ở trên không, vì nghe pháp cũng thường theo hầu”: tất cả chư thiên trên hư không, đều vì nghe pháp, cũng thường đi theo, hầu hạ vị Bồ-tát này.
“Nếu ở thôn xóm, thành ấp, rừng núi vắng vẻ”: hoặc ở trong thôn xóm, hoặc ở trong thành thị, hoặc ở trong rừng vắng vẻ trên núi, “có người đến muốn gạn hỏi”: quý vị tu hành ở những nơi ấy, nếu có người muốn đến vấn nạn quý vị, khảo nghiệm quý vị. “Hàng chư thiên thường vì pháp mà ngày đêm bảo vệ vị ấy, có thể khiến cho người nghe đều được vui mừng”: tất cả các vị thiện thần hộ pháp, Thiên long bát bộ ngày đêm thường vì hộ trì Phật pháp mà đến bảo vệ vị Bồ-tát tu Bồ-tát đạo này. Thế thì khi họ đến vấn nạn quý vị, quý vị dùng diệu nghĩa Đại thừa đáp trả, có thể khiến cho tất cả những người đến nghe kinh pháp đều được vui vẻ.
“Vì sao”: vì lý do gì? “Vì kinh này được thần lực của tất cả các Đức Phật thuở quá khứ, vị lai, hiện tại bảo hộ”: chư Phật trong ba đời đều ủng hộ bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, vì vậy nếu có vấn đề gì trở ngại, khốn khó, đều có thể hóa thành không.
J2. Khen Ngợi Kinh Pháp (phân 2 phần)
J1. Nêu Pháp Khen Ngợi Chung
J2. Tóm Tắt Dụ Khen Ngợi Rộng
J1. NÊU PHÁP KHEN NGỢI CHUNG
Này Văn-thù-sư-lợi ! Kinh Pháp Hoa này, ở trong vô lượng kiếp, thậm chí danh tự còn chẳng được nghe, huống chi được thấy, thọ trì, đọc tụng.
Văn-thù-sư-lợi! Thị Pháp Hoa Kinh ư vô lượng kiếp trung, nãi chí danh tự bất khả đắc văn, hà huống đắc kiến, thọ trì, độc tụng.
“Này Văn-thù-sư-lợi”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại gọi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, “Kinh Pháp Hoa này, ở trong vô lượng kiếp, thậm chí danh tự còn chẳng được nghe”: bộ “Kinh Pháp Hoa” này, ở trong vô lượng vô lượng kiếp, có rất nhiều người ngay cả tên kinh “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” còn không được nghe. Hiện nay, tại nước Nhật có tông phái Nhật Liên, chỉ chuyên niệm tên kinh “Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”, chứng tỏ họ đã nghe danh tự này; trước đây họ đều không được nghe danh tự này, bây giờ họ niệm “Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”, tức là đã nghe được danh tự này rồi! “Huống chi được thấy, thọ trì, đọc tụng”: huống gì quý vị có thể thấy được bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này ư! Không dễ thấy được; huống gì quý vị có thể thọ trì, đọc tụng “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này.
J2. Tóm Tắt Dụ Khen Ngợi Rộng (phân 2 phần)
K1. Dụ Không Cho Hạt Châu (phân 2 phần)
L1. Lập dụ
L2. Hợp Với Pháp
K2. Dụ Cho Hạt Châu
L1. LẬP DỤ
Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như Chuyển Luân Thánh Vương hùng mạnh, muốn dùng uy thế hàng phục các nước, mà vua các nước nhỏ chẳng thuận mệnh lệnh. Vua Chuyển Luân liền đem các đội quân đi đánh dẹp. Vua thấy các đội quân chiến đấu có công, liền rất vui mừng, theo công ban thưởng, hoặc ban cho ruộng, nhà, thôn xóm, thành ấp; hoặc ban cho y phục, các thứ trang sức; hoặc ban cho các thứ châu báu, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ, nhân dân. Chỉ viên minh châu trong búi tóc là chẳng đem cho. Vì sao? Vì chỉ trên đỉnh đầu vua mới có viên châu này, nếu đem cho họ, các quyến thuộc của vua ắt sẽ rất kinh ngạc.
Văn-thù-sư-lợi! thí như cường lực Chuyển Luân Thánh Vương, dục dĩ uy thế hàng phục chư quốc, nhi chư tiểu vương bất thuận kỳ mệnh. Thời Chuyển Luân vương khởi chủng chủng binh nhi vãng thảo phạt. Vương kiến binh chúng chiến hữu công giả, tức đại hoan hỷ, tùy công thưởng tứ, hoặc dữ điền trạch, tụ lạc, thành ấp, hoặc dữ y phục, nghiêm thân chi cụ, hoặc dữ chủng chủng trân bảo, kim, ngân, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, tượng, mã, xa thừa, nô tỳ, nhân dân. Duy kế trung minh châu bất dĩ dữ chi. Sở dĩ giả hà? Độc vương đỉnh thượng hữu thử nhất châu, nhược dĩ dữ chi, vương chư quyến thuộc, tất đại kinh quái.
“Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như Chuyển Luân Thánh Vương hùng mạnh, muốn dùng uy thế hàng phục các nước”: Văn-thù-sư-lợi! Giống như Chuyển Luân Thánh Vương có sức mạnh kia, muốn dùng uy đức, thế lực của ông ta để hàng phục các nước khác. “Mà vua các nước nhỏ chẳng thuận mệnh lệnh”: quốc vương của các nước nhỏ kia không nghe theo mệnh lệnh của vị Chuyển Luân Thánh Vương này. “Vua Chuyển Luân liền đem các đội quân đi đánh dẹp”: lúc bấy giờ, Chuyển Luân Thánh Vương liền đem các binh lực chinh phạt những nước kia.
“Vua thấy các đội quân chiến đấu có công, liền rất vui mừng, theo công ban thưởng”: Chuyển Luân Thánh Vương thấy các đội quân chiến đấu có công, sanh lòng vui mừng, tùy theo công lao lớn nhỏ đã lập được mà ban thưởng cho họ. “Hoặc ban cho ruộng, nhà, thôn xóm, thành ấp”: hoặc cấp cho họ một ít đất đai và nhà cửa để ở, hoặc là thôn xóm, thành ấp; “hoặc ban cho y phục, các thứ trang sức”: hoặc ban cho họ chút ít quần áo và các vật dụng để tô điểm cho thân; “hoặc ban cho các thứ châu báu, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ, nhân dân”: hoặc ban thưởng cho họ các thứ châu báu quý như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, hổ phách, san hô, hoặc một con voi, hoặc ngựa, hoặc xe cộ, hoặc một vài người làm công và nhân dân.
* * *
Đoạn kinh văn này vẫn chưa giảng xong, nhưng tôi muốn báo với mọi người một tin: chủ nhật tuần này, Đạo Tràng chúng ta sẽ cử hành pháp hội Vu Lan. Vu Lan là âm Phạn (Ullambana), dịch là “Giải đảo huyền”, ý giống như người bị treo ngược, rất khổ sở, bây giờ cởi dây trói cho họ. Cởi trói cho ai? Cởi cho cha mẹ, tổ tiên trong đời quá khứ của chúng ta bị treo ngược. Chúng ta không một ai biết được tổ tiên, cha mẹ đời quá khứ của mình có công hay có tội? Người có công, đương nhiên hoặc sanh về thế giới Cực Lạc, hoặc sanh lên trời, hoặc sanh xuống nhân gian làm Tổng thống, đều không nhất định. Nếu có tội? Hoặc phải đọa xuống địa ngục, hoặc chuyển sanh trong loài ngạ quỷ, loài súc sanh, cũng đều không quyết chắc được.
Ngày rằm tháng bảy âm lịch là ngày kỷ niệm tôn giả Đại Mục-kiền-liên siêu độ cho mẹ của ngài. Những chúng sanh chúng ta cũng có thể mượn ngày này, tu tạo công đức cho cha mẹ bảy đời quá khứ, để siêu độ họ. Nếu quý vị cảm thấy mình rất nóng nảy, lửa vô minh rất mạnh thì có thể biết được tổ tiên, cha mẹ đời quá khứ của quý vị chẳng thể lìa khổ được vui, bởi vì mỗi ngày họ đều giúp quý vị nổi giận, bảo quý vị tạo tội nghiệp để mau cùng họ sum họp hơn. Nếu quý vị có cái cảm giác này, thì lúc này nên đến siêu độ cho tổ tiên, cha mẹ bảy đời quá khứ của mình, tạo công đức cho họ. Ở phương Tây, trước kia có rất ít kiểu đạo tràng như thế này, bây giờ đã có rồi, quý vị chớ bỏ lỡ cơ hội; là những người con cháu hiếu thảo, quý vị hãy tạo một ít công đức cho tổ tiên, cha mẹ của mình.
* * *
Chuyển Luân Thánh Vương thấy đội quân của mình chiến đấu thắng lợi, những người có công đều phải ban thưởng, vì vậy nói “hoặc ban cho ruộng, nhà”, hoặc cho họ ruộng đất, hoặc cho họ nhà cửa. Nhưng “ruộng đất” không phải chính là ruộng đất, ruộng là dụ cho tam-muội, cũng chính là “định”; nhà là dụ cho “trí huệ”. “Thôn xóm” là dụ cho quả vị thứ nhất Tu-đà-hoàn và quả vị thứ hai Tư-đà-hàm; “thành” là dụ cho quả vị thứ ba A-na-hàm; “ấp” là dụ cho quả vị thứ tư A-la-hán. Ngoài ra, “y phục” là dụ cho nhẫn nhục; ngay cả “bảy báu” cũng nhằm dụ cho thiện pháp Thất giác chi, hay còn gọi là Thất Bồ-đề phần. “Voi, ngựa, xe cộ” đều biểu thị cho Nhị thừa; “tôi tớ” là dụ cho công dụng của thần thông, là công năng, lợi ích của thần thông; “nhân dân” là dụ cho thiện pháp.
“Chỉ viên minh châu trong búi tóc là chẳng đem cho”: trong búi tóc của Chuyển Luân Thánh Vương có một viên minh châu cực kỳ quý giá, nhưng vị ấy không thể đem nó ban thưởng cho những tướng quân và binh sĩ có công, không thể thưởng cho bất cứ ai. “Vì sao”: vì lý do gì? “Vì chỉ trên đỉnh đầu vua mới có viên châu này”: vì chỉ trên đỉnh đầu của Chuyển Luân Thánh Vương mới có viên minh châu này! Do vậy, vị ấy không thể ban tặng nó lại cho người khác. “Nếu đem cho họ, các quyến thuộc của vua ắt sẽ rất kinh ngạc”: nếu như Chuyển Luân Thánh Vương ban viên minh châu này cho những người có công, thì các quyến thuộc của vị ấy nhất định sẽ rất ngạc nhiên (kinh quái). Ngạc nhiên vì không tin có sự việc này, cũng không tin mình được ban thưởng hậu hĩnh như thế.
L2. HỢP VỚI PHÁP
Này Văn-thù-sư-lợi! Như Lai cũng như thế, dùng sức thiền định trí huệ được cõi nước pháp, làm vua trong ba cõi, mà các ma vương chẳng chịu thuận phục. Các tướng hiền thánh của Như Lai cùng ma đánh nhau. Những người có công, lòng cũng vui mừng. Ở trong bốn chúng, vì họ mà nói các kinh, khiến tâm họ vui thích, ban cho thiền định, giải thoát, vô lậu căn lực, tài sản các pháp; lại còn ban cho thành Niết-bàn, bảo rằng đã được diệt độ, dẫn dắt tâm họ, khiến cho mọi người đều được vui mừng, mà chẳng vì họ nói Kinh Pháp Hoa này.
Văn-thù-sư-lợi! Như Lai diệc phục như thị, dĩ thiền định trí huệ lực, đắc pháp quốc độ, vương ư tam giới, nhi chư ma vương bất khẳng thuận phục. Như Lai hiền thánh chư tướng dữ chi cộng chiến, kỳ hữu công giả, tâm diệc hoan hỷ, ư tứ chúng trung, vị thuyết chư kinh, linh kỳ tâm duyệt, tứ dĩ thiền định, giải thoát, vô lậu căn lực, chư pháp chi tài, hựu phục tứ dữ Niết-bàn chi thành, ngôn đắc diệt độ, dẫn đạo kỳ tâm, linh giai hoan hỷ, nhi bất vị thuyết thị Pháp Hoa Kinh.
“Này Văn-thù-sư-lợi”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại gọi một tiếng Văn-thù-sư-lợi! “Như Lai cũng như thế”: Phật Thích-ca Mâu-ni Ta cũng giống như Chuyển Luân Thánh Vương, “dùng sức thiền định trí huệ được cõi nước pháp, làm vua trong ba cõi”: dùng tam-muội thiền định bất khả tư nghì này và sức mạnh trí huệ mà đạt được diệu pháp vô thượng, làm đấng Pháp Vương trong ba cõi. Đức Phật là vua pháp trong ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới; “Phật là Pháp Vương, tự tại đối với các pháp” (Phật vi pháp vương, ư pháp tự tại), vì Đức Phật đạt được đại trí đại huệ, đạt được pháp chân chánh.
Tuy Đức Phật đạt được diệu pháp vô thượng, là vua trong các pháp, vua khắp ba cõi, “mà các ma vương chẳng chịu thuận phục”: nhưng tất cả ma vương không chịu thuận phục; chúng không chịu đầu hàng, không cam tâm quy thuận. Vì vậy, “các tướng hiền thánh của Như Lai cùng ma đánh nhau”: Đức Như Lai thống lĩnh các hàng Đại thừa, Nhị thừa, Tam thừa – tất cả các tướng, cùng chiến đấu với ma vương. Giống như hiện nay chúng ta xuất bản “Tạp Chí Kim Cang Bồ-đề Hải”, cũng là chiến đấu với ma vương; chúng ta phải bảo vệ Phật pháp chân chính, vì vậy những “chiêu bài giả hiệu” kia của họ đều sẽ phải lộ ra.
“Những người có công, lòng cũng vui mừng”: những người đánh bại ma vương lập nên công lao, tâm Phật cũng vui mừng. “Ở trong bốn chúng, vì họ mà nói các kinh, khiến tâm họ vui thích”: Đức Phật ở trong bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nói cho mọi người nghe tất cả kinh điển. Hoặc nói giáo pháp Tam tạng, hoặc nói giáo pháp Phương-đẳng, hoặc nói giáo pháp Bát-nhã, hoặc nói về tám loại giáo: tạng, thông, biệt, viên, đốn, tiệm, bí mật, bất định; nói giáo lý của các kinh cho tất cả chúng sanh nghe, khiến cho lòng họ rất vui mừng.
“Ban cho thiền định, giải thoát, vô lậu căn lực, tài sản các pháp”: Đức Phật liền ban cho chúng sanh công lực thiền định, đức giải toát, trí huệ vô lậu, lại còn có Ngũ căn, Ngũ lực. “Căn” là Ngũ căn, “lực” là Ngũ lực. Ngũ căn này chính là: tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn và huệ căn; “tín, tấn, niệm, định, huệ” từ năm căn sanh ra, vì nó có sức mạnh của năm thứ, nên còn gọi là “Ngũ lực”. Đức Phật đem tất cả pháp tài ban tặng cho các chúng sanh.
“Lại còn ban cho thành Niết-bàn”: lại ban cho chúng sanh thành Niết-bàn. Niết-bàn sao gọi là “thành”? Vì nó có thể phòng địch, có thể phòng ngự kẻ địch tấn công; cũng chính là có thể phòng bị ma vương, ma vương không cách nào phá hoại Niết-bàn này của quý vị được, vì vậy gọi là thành Niết-bàn. “Bảo rằng đã được diệt độ, dẫn dắt tâm họ, khiến cho mọi người đều được vui mừng”: bảo là các vị đã được diệt độ rồi, dẫn dắt tâm chúng sanh, khiến cho tâm của tất cả chúng sanh đều hoan hỷ. “Mà chẳng vì họ nói Kinh Pháp Hoa này”: mà giữ lại loại diệu pháp của “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, không nói cho tất cả chúng sanh. “Kinh Pháp Hoa” này cũng giống như viên bảo châu trong búi tóc của Chuyển Luân Thánh Vương, không thể tùy tiện giảng cho người khác.
K2 . Dụ cho hạt châu (phân 2 phần)
L1. Lập Dụ
L2. Hợp Chung Với Pháp
L1. LẬP DỤ
Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như vua Chuyển Luân thấy những người trong các đội quân lập được công lớn, lòng rất vui mừng, đem hạt châu khó tin này, từ lâu ở trong búi tóc, không thể vọng cho người khác, mà nay đem cho họ.
Văn-thù-sư-lợi! Như Chuyển Luân vương, kiến chư binh chúng hữu đại công giả, tâm thậm hoan hỷ, dĩ thử nan tín chi châu, cửu tại kế trung, bất vọng dữ nhân, nhi kim dữ chi.
“Này Văn-thù-sư-lợi”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại gọi Văn-thù-sư-lợi một tiếng – Diệu Cát Tường! “Ví như vua Chuyển Luân thấy những người trong các đội quân lập được công lớn, lòng rất vui mừng”: giống như Chuyển Luân Thánh Vương khi thấy tướng sĩ các quân đội đánh trận, người lập được công lớn, thì trong lòng rất vui. “Đem hạt châu khó tin này, từ lâu ở trong búi tóc, không thể vọng cho người khác, mà nay đem cho họ”: đem bảo châu khó tin này, đã cất giấu trong búi tóc lâu nay, không thể tùy tiện cho người khác, mà nay vì những người kia có công quá lớn, nên đã ban cho họ.
L2. HỢP CHUNG VỚI PHÁP
Như Lai cũng lại như vậy, là Đại Pháp Vương trong ba cõi, đem pháp giáo hóa tất cả chúng sanh, thấy quân Hiền thánh đánh nhau với ma ngũ ấm, ma phiền não, ma chết, lập được công lớn, diệt ba độc, thoát ba cõi, phá lưới ma. Bấy giờ, Đức Như Lai cũng rất vui mừng, Kinh Pháp Hoa này có thể khiến cho chúng sanh đạt đến Nhất thiết chủng trí, tất cả thế gian nhiều oán hận khó tin, trước nay chưa từng nói, mà nay tuyên nói.
Như Lai diệc phục như thị, ư tam giới trung, vi Đại Pháp Vương, dĩ pháp giáo hóa nhất thiết chúng sanh, kiến hiền thánh quân dữ ngũ ấm ma, phiền não ma, tử ma cộng chiến, hữu đại công huân, diệt tam độc, xuất tam giới, phá ma võng. Nhĩ thời, Như Lai diệc đại hoan hỷ, thử Pháp Hoa Kinh, năng linh chúng sanh chí Nhất thiết trí, nhất thiết thế gian đa oán nan tín, tiên sở vị thuyết, nhi kim thuyết chi.
“Như Lai cũng lại như vậy”: Thích-ca Mâu-ni Ta cũng giống như Chuyển Luân Thánh Vương. “Là Đại Pháp Vương trong ba cõi, đem pháp giáo hóa tất cả chúng sanh”: làm Đại Pháp Vương ở trong ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới, dùng diệu pháp vô thượng giáo hóa tất cả chúng sanh.
“Thấy quân Hiền thánh đánh nhau với ma ngũ ấm, ma phiền não, ma chết”: thấy những hàng Sơ quả, Nhị quả, Tam quả, Tứ quả A-la-hán, hoặc hàng Nhị thừa Duyên giác, hoặc hàng Bồ-tát; những hàng này đều gọi là “quân Hiền thánh”. Đánh nhau với “ngũ ấm ma”, chính là: “Sắc, thọ tưởng hành, thức”; ngũ ấm ma này mỗi người chúng ta đều có đủ. Có ma phiền não, còn có ma chết. Ai cũng đều phải chết, chết cũng là một thứ ma; hiện nay chúng ta muốn tu thành Phật, không còn sanh tử, vì vậy phải chiến đấu với ma chết này. “Lập được công lớn”: đánh nhau với ma ngũ ấm, ma phiền não, ma chết và đã chiến thắng chúng, vì vậy có công lao rất lớn. “Diệt ba độc, thoát ba cõi, phá lưới ma”: có thể diệt trừ ba độc tham, sân, si; có thể vượt thoát Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới; phá lưới của ma vương.
“Bấy giờ, Đức Như Lai cũng rất vui mừng”: tu hành, có thể chiến thắng ma chết, cũng chiến thắng cả ma phiền não và ma ngũ ấm; lúc này lưới ma đã bị phá tan! Đức Như Lai thấy những người tu tập pháp Nhị thừa và Đại thừa đều có chỗ thành tựu, nên cũng rất vui mừng. “Kinh Pháp Hoa này có thể khiến cho chúng sanh đạt đến Nhất thiết chủng trí”: bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này có thể khiến tất cả chúng sanh đạt được tất cả trí tuệ. “Tất cả thế gian nhiều oán hận khó tin”: người trong thế gian phần nhiều oán hận đạo lý này của “Kinh Pháp Hoa”, cũng không dễ tin; thế nên “trước nay chưa từng nói, mà nay tuyên nói”: Đức Như Lai từ hơn bốn mươi năm về trước đến nay chưa từng nói “Kinh Pháp Hoa”, đến bây giờ mới giảng cho mọi người nghe chỗ vi diệu của “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.
“Này Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là lời nói bậc nhất của các Đức Như Lai, vô cùng sâu xa so với các lời thuyết giảng khác; sau cùng mới ban cho, như vị vua uy dũng, giữ gìn viên minh châu từ rất lâu, nay mới ban cho. Này Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các Đức Phật Như Lai, đứng đầu trong các kinh, được giữ gìn đã rất lâu, không tự tiện tuyên nói, bắt đầu hôm nay mới phô bày cho các ông.”
“Văn Thù Sư Lợi! Thử Pháp Hoa Kinh, thị chư Như Lai đệ nhất chi thuyết, ư chư thuyết trung, tối vi thậm thâm; mạt hậu tứ dữ, như bỉ cường lực chi vương, cửu hộ minh châu, kim nãi dữ chi. Văn Thù Sư Lợi! Thử Pháp Hoa Kinh, chư Phật Như Lai bí mật chi tạng, ư chư kinh trung, tối tại kỳ thượng, trường dạ thủ hộ, bất vọng tuyên thuyết, thủy ư kim nhật, nãi dữ nhữ đẳng, nhi phu diễn chi.”
“Văn-thù-sư-lợi”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, “Kinh Pháp Hoa này là lời nói bậc nhất của các Đức Như Lai”; bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này lời nói bậc nhất của chư Phật đời quá khứ, là lời nói bậc nhất của chư Phật đời hiện tại, cũng là lời nói bậc nhất của chư Phật đời vị lai. “Vô cùng sâu xa so với các lời thuyết giảng khác”: trong các kinh điển mà Đức Phật đã giảng nói, “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này cao tột sâu mầu, chẳng pháp nào có thể cao hơn, cũng chẳng pháp nào có thể sâu hơn. “Sau cùng mới ban cho, như vị vua uy dũng, giữ gìn viên minh châu từ rất lâu, nay mới ban cho”: đây là thứ ban cho tất cả chúng sinh cuối cùng, giống như vị Chuyển Luân Thánh Vương có uy đức lớn, có sức mạnh mẽ; ông ta cất giữ một viên minh châu ở trong búi tóc đã rất lâu, bây giờ vì những người lập được công trận lớn lao kia, nên đã ban tặng viên minh châu này cho họ.
“Này Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các Đức Phật Như Lai”: Bồ-tát Diệu Cát Tường! bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này là kho tàng bí mật của tất cả các Đức Phật trong mười phương, của tất cả các Đức Phật trong ba đời; rất bí mật, là pháp bất truyền, xưa nay chưa từng truyền trao. “Đứng đầu trong các kinh”: trong các kinh điển Đức Phật từng giảng nói, bộ kinh này là tối thượng. “Được giữ gìn đã rất lâu, không tự tiện tuyên nói”: từ trước đến nay, Ta giữ gìn bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này dường như đã rất lâu, không tùy tiện thuyết giảng. “Bắt đầu hôm nay mới phô bày cho các ông”: đến giờ này, Ta mới phân biệt diễn bày, giảng nói cho đại chúng trong pháp hội nghe. Vì vậy, các vị chớ có ý xem thường khi nghe pháp này!
H2. Trùng Tụng (phân 2 phần)
I1. Pháp Hạnh
I2. Khen Ngợi Kinh
I1. PHÁP HẠNH
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Thường tu hạnh nhẫn nhục
Thương xót hết tất cả
Mới có thể diễn nói
Kinh Phật đã khen ngợi.
Đời Mạt thế về sau
Người thọ trì kinh này
Hàng tại gia, xuất gia
Và chẳng phải Bồ-tát.
Nên sanh lòng từ bi
Những người đó chẳng nghe
Chẳng tin kinh pháp này
Thời là mất lợi lớn.
Khi ta chứng Phật đạo
Dùng các cách phương tiện
Vì họ nói pháp này
Làm cho trụ trong đó.
Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:
Thường hành nhẫn nhục
Ai mẫn nhất thiết
Nãi năng diễn thuyết
Phật sở tán kinh.
Hậu mạt thế thời
Trì thử kinh giả
Ư gia, xuất gia
Cập phi Bồ-tát.
Ưng sanh từ bi
Tư đẳng bất văn
Bất tín thị kinh
Tắc vi đại thất.
Ngã đắc Phật đạo
Dĩ chư phương tiện
Vị thuyết thử pháp
Linh trụ kỳ trung.
“Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni với tâm đại từ bi, sau khi nói kinh văn trên xong lại dùng kệ tụng, nói lại chi tiết nghĩa lý này cho đại chúng trong pháp hội.
“Thường tu hạnh nhẫn nhục, thương xót hết tất cả”: Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo nên thường tu hành hạnh nhẫn nhục, nhẫn những việc mà người khác không thể nhẫn, thương xót tất cả chúng sanh. “Mới có thể diễn nói, kinh Phật đã khen ngợi”: có được tâm nhẫn nhục này, và tâm thương xót tất cả chúng sanh, mới có thể diễn nói “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này. Bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này là kinh điển được các Đức Phật trong mười phương, ba đời đều khen ngợi.
“Đời Mạt thế về sau, người thọ trì kinh này”: trong tương lai, lúc pháp sắp diệt, có người thọ trì, đọc tụng bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, “hàng tại gia, xuất gia, và chẳng phải Bồ-tát”: hoặc là người tại gia, hoặc là người xuất gia, hoặc những chúng sanh không hiểu rõ Phật pháp; “nên sanh lòng từ bi”: đối với những hạng người này nên sanh lòng từ bi, ban cho họ sự an vui, mà trừ bỏ sự đau khổ của họ.
“Những người đó chẳng nghe, chẳng tin kinh pháp này, thời là mất lợi lớn”: nên thương xót họ, bảo rằng: “Chúng sanh các vị không nghe bộ “Kinh Pháp Hoa” này, cũng không tin bộ “Kinh Pháp Hoa” này, thì thật là một tổn thất rất to lớn! Sự tổn thất này của các vị không có gì lớn hơn! Vì các vị không thể thành Phật.” Quý vị không tin “Kinh Pháp Hoa” thì không thể thành Phật; quý vị muốn thành Phật, nhất định phải tin “Kinh Pháp Hoa”.
“Khi ta chứng Phật đạo, dùng các cách phương tiện, vì họ nói pháp này, làm cho trụ trong đó”: sau này khi ta thành tựu Phật đạo, sẽ dùng sức thiền định, sức trí huệ và sức thần thông của ta cùng với các cách phương tiện, vì hàng chúng sanh này mà nói “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”. Khiến cho tất cả chúng sanh đều đạt được chỗ vi diệu của “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, mà an trụ trong cảnh giới vi diệu này.
Người học Phật pháp càng ngày phải càng tinh tiến hơn, càng ngày phải càng thành tâm hơn, càng ngày phải càng giữ quy củ hơn, càng ngày phải càng thông minh hơn. Hôm nay quý vị thông minh hơn hôm qua, ngày mai quý vị sẽ càng thông minh hơn hôm nay; từng chút từng chút như thế thì sẽ có được trí huệ chân chánh. Nếu muốn có trí huệ chân chánh thì cần phải tuân giữ quy củ mà dụng công phu, mới có thể đạt được loại trí huệ chân chánh này. Vì vậy tôi hy vọng quý vị sau này phải quan tâm đến mình, phải cai quản bản thân mình; tự mình có thể cai quản bản thân, rồi một ngày nào đó quý vị sẽ thành công.
I2. Khen Ngợi Kinh (phân 2 phần)
J1. Gộp Chung Hai Dụ
J2. Gộp Chung Hai Hợp
J1. GỘP CHUNG HAI DỤ
Ví như vua Chuyển Luân
Có uy lực mạnh mẽ
Binh lính đánh có công
Thưởng ban cho các vật
Voi, ngựa và xe cộ
Đồ trang nghiêm nơi thân
Cùng những ruộng, nhà cửa
Xóm làng và thành ấp
Hoặc ban cho y phục
Cùng các thứ châu báu
Tôi tớ cùng của cải
Vui mừng mà ban cho
Nếu có người dũng mãnh
Làm được những việc khó
Vua mới mở búi tóc
Lấy minh châu ban cho.
Thí như cường lực
Chuyển Luân chi vương
Binh chiến hữu công
Thưởng tứ chư vật.
Tượng, mã, xa thừa
Nghiêm thân chi cụ
Cập chư điền, trạch
Tụ lạc, thành ấp.
Hoặc dữ y phục
Chủng chủng trân bảo
Nô tỳ, tài vật
Hoan hỷ tứ dữ.
Như hữu dõng kiện
Năng vi nan sự
Vương giải kế trung
Minh châu tứ chi.
“Ví như vua Chuyển Luân có uy lực mạnh mẽ”: Ví như, chính là nêu ra một ví dụ. Ví dụ như vị Chuyển Luân Thánh Vương có uy đức lớn, có thế lực lớn, cai quản bốn châu thiên hạ. Trên thế giới này có Kim Luân Vương, Ngân Luân Vương, Đồng Luân Vương và Thiết Luân Vương. Kim Luân Vương làm vua bốn đại bộ châu: Đông-thắng-thần châu, Nam-thiệm-bộ châu, Tây-ngưu-hóa châu và Bắc-câu-lô châu. Ngân Luân Vương làm vua ba châu: Đông-thắng-thần châu, Nam-thiệm-bộ châu và Tây-ngưu-hóa châu. Đồng Luân Vương làm vua hai châu: Đông-thắng-thần châu và Nam-thiệm-bộ châu. Thiết Luân Vương chỉ làm vua ở Nam-thiệm-bộ châu. Vị mà chúng ta đang giảng ở đây, chính là Kim Luân Thánh Vương; Kim Luân Thánh Vương có bảy món báu, là những thứ hy hữu ở thế gian, đó là: bánh xe vàng báu, voi trắng báu, ngựa tía báu, thần châu báu, ngọc nữ báu, chủ tạng thần báu và chủ binh thần báu.
“Binh lính đánh có công, thưởng ban cho các vật”: những binh lính này chiến đấu trên đất kẻ địch, lập được công lao, vì vậy vua liền ban thưởng cho tất cả của cải.“Voi, ngựa và xe cộ”: đây nhằm biểu thị cho pháp Nhị thừa. “Đồ trang nghiêm nơi thân”: dụ cho pháp môn tu tập. “Cùng những ruộng, nhà cửa, xóm làng và thành ấp”: “ruộng”: dụ cho sức tam-muội, “nhà”: dụ cho sức trí huệ, “xóm làng”: dụ cho người chứng đắc Sơ quả, Nhị quả, “thành”: dụ cho Tam quả A-na-hàm, “ấp”: dụ cho Tứ quả A-la-hán. “Hoặc ban cho y phục”: dụ cho pháp môn nhu hòa, nhẫn nhục. “Cùng các thứ châu báu”: rất nhiều loại châu báu chứ không phải chỉ có một, như vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não, vật báu nào cũng đều có.
“Tôi tớ cùng của cải”: “tôi tớ”: dụ cho công năng của thần thông. Quý vị chớ cho rằng thần thông rất tốt, ở trong Phật pháp, nó chính là tôi tớ, có thể để chúng ta tùy ý sử dụng. Quý vị có thiên nhĩ thông, muốn nghe trộm người khác nói chuyện cách đó rất xa, thì quý vị liền nghe được ngay, đó chẳng phải giống như tôi tớ của quý vị sao! Có được thiên nhãn thông, dù ở cách nhau rất xa, nhưng quý vị có thể vận dụng thiên nhãn thông để xem thử người kia đang làm gì. Thậm chí là họ đang ngủ, quý vị cũng biết; họ đang ăn cơm, quý vị cũng biết. Bất luận ở đó họ làm gì, quý vị đều biết cả; vì vậy thiên nhãn thông này cũng giống như kẻ tôi tớ, quý vị bảo nó làm thế nào, nó liền làm thế ấy. Các thứ của cải trên, “vui mừng mà ban cho”: rất vui mừng, liền ban thưởng cho họ.
“Nếu có người dũng mãnh, làm được những việc khó”: giả dụ có một kiện tướng rất dũng mãnh; kiện tướng chính là dũng sĩ bất khả chiến bại, trăm trận trăm thắng. Bất luận chiến đấu với kẻ nào, anh ta cũng nhất định thắng lợi; bất luận tấn công vào thành trì nào, anh ta nhất định công phá được thành trì đó. Anh ta có thể làm được những công việc khó khăn mà người khác không thể làm. Vì anh ta dũng mãnh như thế, có thể đánh bại kẻ địch như thế, đẩy lui mọi kẻ thù, “vua mới mở búi tóc, lấy minh châu ban cho”: vị Chuyển Luân Thánh Vương này nhận thấy ban thưởng cho những đồ vật khác, đều không xứng đáng với công lao của vị này; vì vậy đã lấy hạt minh châu trong búi tóc ban cho tướng quân vô cùng dũng mãnh này.
Bộ “Kinh Pháp Hoa” cũng giống như bảo châu kia; từ trước đến nay, Đức Phật không nói bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, bây giờ thời điểm đã đến, nên muốn tuyên nói cho chúng sanh!
J2. GỘP CHUNG HAI HỢP
Đức Như Lai cũng thế
Là vua của các pháp
Nhẫn nhục cùng đại lực
Trí huệ kho tàng báu.
Dùng lòng từ bi lớn
Như pháp mà độ đời
Thấy tất cả mọi người
Chịu các điều khổ não.
Muốn cầu được giải thoát
Cùng các ma đánh nhau
Vì các chúng sanh này
Nói ra các kinh pháp
Dùng pháp đại phương tiện
Nói các kinh điển này.
Như Lai diệc nhĩ
Vi chư Pháp Vương
Nhẫn nhục đại lực
Trí huệ bảo tạng
Dĩ đại từ bi
Như pháp hóa thế
Kiến nhất thiết nhân
Thọ chư khổ não
Dục cầu giải thoát
Dữ chư ma chiến
Vị thị chúng sanh
Thuyết chủng chủng pháp
Dĩ đại phương tiện
Thuyết thử chư kinh.
“Đức Như Lai cũng thế”: Như Lai, tức là Đức Phật Thích-ca Mâu-ni Ta, cũng vậy, cũng như thế, cũng giống như việc Chuyển Luân Thánh Vương kia ban thưởng bảo châu trong búi tóc. “Là vua của các pháp”: Phật là vua trong pháp, đó gọi là “Phật là Đấng Pháp Vương, tự tại nơi các pháp” (Phật vi Pháp Vương, ư pháp tự tại), đạt đến chỗ diệu dụng tự tại vô ngại.
“Nhẫn nhục cùng đại lực, trí huệ kho tàng báu”: Phật vừa có thể nhẫn nhục, vừa có sức lực mạnh, có uy đức lớn; lại còn có trí huệ, đây giống như có được tất cả kho báu. “Dùng lòng từ bi lớn”: Phật dùng “từ” ban vui cho chúng sanh, dùng “bi” để diệt trừ khổ cho chúng sanh, đó gọi là “từ năng dữ lạc, bi năng bạt khổ”. “Như pháp mà độ đời”: y cứ theo pháp này mà giáo hóa tất cả chúng sanh, cũng chính là: “đáng phải dùng thân Phật để độ thoát, liền hiện thân Phật mà vì họ nói pháp; đáng phải dùng thân Bồ-tát để độ thoát, liền hiện thân Bồ-tát mà vì họ nói pháp; đáng phải dùng thân Bích-chi-phật, Thanh văn, Duyên-giác để độ thoát, liền hiện thân các vị ấy mà vì họ nói pháp”; hiện ra các thân để giáo hóa chúng sanh, đây gọi là “Như pháp mà độ đời”. Cũng chính là “quán cơ giáo hóa” (quán cơ đậu giáo), quán sát cơ duyên, dùng pháp để giáo hóa chúng sanh; “tùy người nói pháp” (nhân nhân thuyết pháp), đối với hạng người nào, sẽ tùy nhân duyên giảng cho họ loại pháp nào.
Cũng như đối với chúng sanh thích ăn thì trước tiên giảng “kinh ăn” – kinh giảng về ăn uống; bảo là: “Quý vị ăn một chút thứ này, sẽ rất tốt cho quý vị! Nếu quý vị là người mập, quý vị thích ốm, thì sẽ ốm lại một chút; nếu quý vị thích mập, ăn thứ này, sẽ liền mập ra một chút!” Người thích ăn này vừa nghe thế liền reo lên: “A! Thế thì hay quá! Tôi đang không muốn mập, vậy thì ăn một chút thứ có thể làm ốm này!” thế là liền theo kinh giảng về ăn uống mà ăn; còn người thích mập, nghe nói ăn cái này vào sẽ mập, họ cũng ăn nó ngay. Đây gọi là “pháp thực” mà Đức Như Lai đã thuyết, quý vị chớ cho là thật có thức ăn cho quý vị ăn; “nói pháp” chính là “cho thức ăn” (thực), quý vị quên rồi à? “Thiền duyệt[1] làm thức ăn, tràn ngập niềm pháp hỷ[2]” (thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn). Vì sao có rất nhiều người, ngày chỉ ăn một bữa là đã thấy đầy đủ? Chính vì họ đã đạt đến chỗ “thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn”; mỗi ngày đều ăn pháp của Phật, mỗi ngày ăn một bữa; ăn chưa no, ngày mai lại ăn nữa! Phật cũng chính là như thế.
Có chúng sanh không thích ăn, chỉ thích ngủ, mỗi ngày ăn trưa xong, nhất định phải ngủ; thế là Đức Phật liền giảng “kinh ngủ”. Ngủ thế nào đây? Bảo rằng: “Quý vị nằm, đầu quay về hướng nam, chân hướng bắc; bên phải ở dưới, bên trái ở trên—bàn tay phải để dưới má, chân chồng xếp lên nhau. Quý vị nằm ngủ theo tư thế này, gọi là “nằm kiết tường” (kiết tường ngọa), giấc ngủ của quý vị sẽ rất là an lành, kiết tường! Quý vị nằm mộng cũng kiết tường, ngủ cũng kiết tường, thức hay ngủ đều kiết tường!” Người này vừa nghe thế, liền reo lên: “A! Vậy thì hay quá! Kiết tường!”; thế là y theo phương pháp này mà ngủ; vừa ngủ, liền đắc được “tam-muội” của ngủ! Đắc tam-muội, liền thức dậy, bảo: “A! Chớ có ngủ nhiều như thế! Ngủ nhiều như thế, cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Vì vậy, giảng “kinh ngủ” có thể làm cho người này tỉnh táo ra.
Đây là ví dụ, sao gọi là “ngủ”? Quý vị có thể nhập định chính là ngủ; vừa nhập định, giống như ngủ vậy. Nhưng ngủ thì đầu cúi gục như thế này; còn tư thế nhập định, đầu không động đậy, người không lắc lư, như như bất động, liễu liễu thường minh, đó mới là “ngủ chân thật”. Quý vị ngủ như thế, là ngủ “giấc ngủ giả”, ngủ “giấc ngủ chết”, không phải là giấc ngủ sống. Nhập định thật sự, rất sáng suốt, rất rõ ràng, quý vị nhập định, rút ngắn vạn năm còn trong thoáng chốc, kéo dài thoáng chốc thành đến vạn năm, một niệm vạn năm, vạn năm một niệm. Quý vị xem, ngủ thế này có dài hay không? (một người nói: “Con không hiểu!”) Đương nhiên là quý vị không hiểu, nếu quý vị hiểu được điều này, vậy thì quý vị chẳng phải là tầm thường.
Vì vậy, “như pháp mà độ đời” chính là như thế: người thích ăn thì giảng “kinh ăn”; người thích ngủ thì giảng “kinh ngủ”; người thích tiền, thì giảng “kinh tiền tài”. Tóm lại, họ thích gì thì giảng cho họ kinh đó. Giảng kinh tài, kinh sắc, kinh danh, kinh thực, kinh thùy; năm thứ này, Đức Như Lai đều giảng cho họ, vì vậy gọi là “như pháp mà độ đời”.
“Thấy tất cả mọi người, chịu các điều khổ não”: Ngài thấy tất cả chúng sanh vì chấp đắm nơi tài, sắc, danh, thực, thùy nên có các khổ não, chịu các khổ não! Ví dụ tham tài, chỗ gọi là “chưa được nó thì suy tính để được nó” (vị đắc chi, hoạn đắc chi), khi chưa có, suy nghĩ tìm cách nào để có được tiền của? Tiền của có rồi – hoặc đi đến nơi nào đó đánh cắp, hoặc ăn cướp; quý vị bảo thế nào đây? Hà! Anh ta lại buồn rầu: “Chao ôi! Mỗi ngày ta phải canh giữ nó, vì không chừng ta cướp của người, cũng sẽ có người khác cướp lại của ta!” thế là ban đêm không dám ngủ, chỉ trông giữ số tiền này. Quý vị bảo xem có phải là phiền não không? Tiền, sắc, danh, thực, thùy đều như thế, khi chưa có thì nghĩ cách để có được nó; đã được rồi, lại sợ mất; quý vị nói xem, có phiền não hay không? Vì vậy mà phải chịu các khổ não!
“Muốn cầu được giải thoát, cùng các ma đánh nhau”: vì đã chịu khổ não trong thời gian quá lâu, nên họ muốn đạt được sự giải thoát, không vướng mãi vào đó nữa! Muốn được tự do, muốn thăng thiên độn thổ, vì vậy họ đã đánh nhau với các ma phiền não, ma chết, ma nghiệp chướng, cũng như với “ngũ độc”: ma tâm tham, ma tâm sân, ma tâm si, ma tâm mạn và ma tâm nghi – “tam độc” đã biến thành “ngũ độc” rồi! – một khi lâm trận, liền đánh bại các thứ ma này.
“Vì các chúng sanh này, nói ra các kinh pháp”: vì vậy Đức Phật đã nói các kinh pháp cho những chúng sanh này, mong muốn họ đạt được sự giải thoát. “Dùng pháp đại phương tiện”: dùng pháp phương tiện lớn nhất. Những pháp phương tiện này, đều là quên mình để độ chúng sanh; như là xuống địa ngục, mong thọ khổ thay chúng sanh. Quý vị thấy Bồ-tát Địa Tạng Vương, vì muốn cứu giúp những chúng sanh trong địa ngục, nên Ngài đã ở trong địa ngục để giáo hóa họ, đây chính là dùng đại phương tiện. “Nói các kinh điển này”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói ba tạng giáo điển, lại nói các Kinh Phương-đẳng, Kinh bát-nhã…
Đã biết các chúng sanh
Được sức mạnh kia rồi
Cuối cùng mới vì họ
Nói Kinh Pháp Hoa này.
Như vua mở búi tóc
Lấy minh châu đem cho
Kinh này là tối tôn
Đứng đầu trong các kinh.
Ta vẫn thường giữ gìn
Chẳng hề vọng chỉ bày
Nay chính đã đến lúc
Vì các ông mà nói.
Ký tri chúng sanh
Đắc kỳ lực dĩ
Mạt hậu nãi vị
Thuyết thị Pháp Hoa.
Như vương giải kế
Minh châu dữ chi
Thử Kinh vi tôn
Chúng Kinh trung thượng.
Ngã thường thủ hộ
Bất vọng khai thị
Kim chánh thị thời
Vi nhữ đẳng thuyết.
“Đã biết các chúng sanh, được sức mạnh kia rồi”: đã biết chúng sanh, người thuộc Phương-đẳng giáo cũng đạt được lợi ích, người thuộc Bát-nhã giáo cũng đã đạt được lợi ích. Họ đều đã đạt được lợi ích rồi! “Cuối cùng mới vì họ, nói Kinh Pháp Hoa này”: vào thời Mạt pháp về sau, mới nói cho chúng sanh bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này. Đây là kinh Phật nói sau cùng, mục đính cuối cùng của Phật chính là nói “Kinh Pháp Hoa”.
“Như vua mở búi tóc, lấy minh châu đem cho”: giống như Chuyển Luân Thánh Vương gỡ lấy minh châu trong búi tóc, ban cho vị tướng quân có công lao lớn nhất.“Kinh này là tối tôn, đứng đầu trong các kinh”: bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này là tối tôn, tối quý, tối cao, vô thượng ở trong các Kinh. “Ta vẫn thường giữ gìn, chẳng hề vọng chỉ bày”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói, Ta thường giữ gìn “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, không tùy tiện giảng cho người; rất lâu rồi vẫn không giảng, Ta luôn giữ lại “Kinh Pháp Hoa” này. “Nay chính đã đến lúc, vì các ông mà nói”: bây giờ chính là đúng lúc rồi! Không sớm cũng không muộn, không trước cũng không sau, chính là lúc này! Lúc nào? Chính là lúc giảng cho mọi người “Kinh Pháp Hoa”.
Do đó, giờ này đây chúng ta giảng “Kinh Pháp Hoa”, cũng là đúng lúc! Khi đến đất nước này, đầu tiên tôi giảng “Kinh Lăng-nghiêm”. Có người nói: “Kinh Lăng-nghiêm” là giả, vì sao? Mọi người xem Kinh Lăng Nghiêm đều sững sờ , không hiểu rõ, nên cho là không phải thật. Kinh Lăng-nghiêm đích thực là thật! Mà đúng là thật đi nữa, nếu quý vị cho là giả thì sẽ là giả; còn nếu là giả, mà quý vị cho là thật, thì sẽ là thật. Vì sao? Vì “tất cả đều do tâm tạo” (nhất thiết duy tâm tạo) mà! Thật, giả đều do tâm quý vị phân biệt mà ra – “nhân giả tự sanh phân biệt” (chính ông tự khởi tâm phân biệt). Vốn ở nơi kinh điển nào có gì là thật, gì là giả. Nếu nó giúp ích cho quý vị, thì đó là chân kinh; bằng như ngược lại, thì là giả; nếu nó có lợi ích cho quý vị, thì đúng là chân kinh rồi; không đem lại lợi ích cho quý vị, thì đó là giả. Sao gọi thật, giả? Thật, giả là ở bản thân của quý vị, chẳng phải ở kinh! “Kinh Pháp Hoa” mà chúng ta đang giảng chính là chân kinh, nhưng nếu quý vị không hiểu, thì chân kinh cũng chẳng có tác dụng; trái lại, nếu quý vị hiểu, thì dù là giả, cũng vẫn có ít nhiều hữu dụng. Vì vậy, kỳ giảng kinh thứ hai này, sẽ giảng “Kinh Pháp Hoa”, kỳ thứ ba sẽ giảng “Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm ”. Có người nói: “Vậy Ngài lại giảng “Kinh Địa Tạng”, “Kinh Kim Cang”, con đều nghe qua rồi!” những bộ đó là tiểu kinh, ở đây chúng ta giảng đại kinh, chân kinh.
卍 卍 卍
Ngày mai là ngày khánh đản của Bồ-tát Đại Thế Chí. Bồ-tát Đại Thế-chí là ai nào? Ngài là đệ tử của Đức Phật A-di-đà ở thế giới Cực Lạc bên phương tây; bên trái Đức Phật A-di-đà là Bồ-tát Quán Thế Âm, bên phải chính là Bồ-tát Đại Thế-chí. Đợi khi Đức Phật A-di-đà thoái vị, Bồ-tát Quán Thế Âm sẽ là giáo chủ thế giới Cực Lạc, khi Bồ-tát Quán Thế Âm thoái vị, thì Bồ-tát Đại Thế-chí làm giáo chủ. Vì vậy, một vị Phật và hai vị Bồ-tát này là “Tam Thánh” của thế giới Cực Lạc ở phương tây.
Ngày mai là ngày đản sinh của Bồ-tát Đại Thế Chí, vì vậy bắt đầu từ ngày mai, chúng ta sẽ niệm “ Nam mô A-di-đà Phật”; một mặt là khánh chúc sinh nhật Bồ-tát Đại Thế Chí, một mặt là cử hành pháp hội Vu-lan, siêu độ tất cả chúng sanh.
Ngày mai và ngày mốt – chính là ngày thứ bảy, hai ngày đều niệm Phật; chủ nhật niệm Phật, lại tụng “Kinh Vu-lan-bồn”. Nếu như đông người, chúng ta có thể sẽ giảng bộ “Kinh Vu-lan-bồn”; tôi biết năm người đệ tử của tôi hiện nay, ít nhiều đều có trí tuệ thông suốt, trí huệ còn lớn hơn cả tôi, và thân cũng cao hơn cả tôi, vì vậy tôi tin rằng sẽ không có vấn đề gì khó khăn, và tôi tin tưởng rằng họ sẽ giảng rất rõ ràng! Có ai thích nghiên cứu “Kinh Vu-lan-bồn” thì vào chủ nhật tuần này, mọi người hãy cùng nhau nghiên cứu.
Vẫn còn một tin mới nữa, là gì nào? Khoảng hai tuần trước, tôi đã có nói qua; nếu như ai thích học làm thơ hoặc kệ tụng Trung Hoa thì vào ngày thứ bảy, tôi sẽ đọc cho quý vị nghe những bài thơ và kệ tụng “không đáng xem” của tôi. Vì sao “không đáng xem”? Vì nó không có “mặt mũi”; tức là làm không hay, rất “xấu xí”; tiếng Anh gọi là gì nhỉ? Ugly phải không? Vì vậy nên sợ người khác nhìn thấy. Nhưng nếu quý vị muốn học loại thơ và kệ tụng “sợ người nhìn thấy” này, tôi sẽ không ngần ngại mà đem ra “diện kiến” quý vị; chờ đến khi quý vị gặp “nó” rồi, thì quý vị sẽ sợ đến bỏ chạy mất dạng! Tuy biết sẽ làm cho quý vị sợ hãi, nhưng cũng phải nói ra để quý vị biết được sự lợi hại của nó! Hiện giờ chính là tôi đang giảng thơ cho quý vị đấy!
卍 卍 卍
F2. Nói Tóm Lại Về Tướng Thành Tựu Của Pháp Hạnh (phân 3 phần)
G1. Kết Khuyên Bốn Hạnh
G2. Nêu Lên Ba Báo Để Khuyên
G3. Tổng Kết
G1. KẾT KHUYÊN BỐN HẠNH
Sau khi Ta diệt độ
Người mong cầu Phật đạo
Muốn được trụ an ổn
Diễn nói kinh pháp này
Phải nên thường gần gũi
Bốn pháp trên như thế.
Ngã diệt độ hậu
Cầu Phật đạo giả
Dục đắc an ổn
Diễn thuyết tư kinh
Ưng đương thân cận
Như thị tứ pháp
“Sau khi Ta diệt độ, người mong cầu Phật đạo”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói, sau khi Ta nhập Niết-bàn, có Bồ-tát tu pháp Bồ-tát, hành đạo Bồ-tát như thế mà cầu Phật đạo, “muốn được trụ an ổn, diễn nói kinh pháp này”: vị ấy muốn có được sự an ổn vui vẻ để giảng nói bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này. “Phải nên thường gần gũi, bốn pháp trên như thế”: nên gần gũi bốn pháp như trong phần trường hàng ở trên đã nói, chính là “hạnh thân an lạc, hạnh miệng an lạc, hạnh ý an lạc và hạnh nguyện an lạc”; nên gần gũi bốn pháp này, thực hành bốn pháp này.
G2. Nêu Lên Ba Báo Để Khuyên (phân 3 phần)
H1. Báo Chướng Chuyển, Chuyển Hiện Báo
H2. Nghiệp Báo Chuyển, Chuyển Sanh Báo
H3. Phiền Não Chướng Chuyển, Chuyển Hậu Báo
H1. BÁO CHƯỚNG CHUYỂN, CHUYỂN HIỆN BÁO
Người đọc tụng kinh này
Thường không bị ưu não
Độc thị kinh giả
Thường vô ưu não
Nếu người nào có thể thường đọc tụng “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, cũng sẽ thường không có lo buồn và phiền não.
H2. NGHIỆP CHƯỚNG CHUYỂN, CHUYỂN SANH BÁO
Lại không có bệnh đau
Nhan sắc được sáng sạch
Chẳng sanh nhà bần cùng
Dòng ti tiện xấu xa.
Hựu vô bệnh thống
Nhan sắc tiển bạch
Bất sanh bần cùng
Ti tiện xú lậu
“Lại không có bệnh đau, nhan sắc được sáng sạch”: lại thường không bị bệnh hoạn gì, vì vậy da dẻ người này rất sáng; sáng tức là gương mặt trắng hồng hào, không có một chút sắc khí đen. Quý vị thấy trên khuôn mặt người nào có một làn sắc hồng, rất tươi tắn, không tối tăm, thì đấy chính là người có trí huệ. Quý vị thấy trên khuôn mặt người nào phát ra sắc đen – đương nhiên không kể tới người da đen! Mặt của những người bình thường không nên có màu đen; vì thế khi họ lộ ra sắc đen, chính là điềm không may rồi, họ sẽ gặp phải việc không tốt. Quý vị thường có khuôn mặt hồng hào, thì sẽ gặp được điều may mắn; sáng trắng, chính là cả khuôn mặt đều sáng hồng, rất đẹp! “Chẳng sanh nhà bần cùng, dòng ti tiện xấu xa”: họ không sanh vào gia đình nghèo khổ, cũng không làm kẻ hạ nhân; hạ nhân tức là kẻ làm công cho người nhưng được rất ít tiền, là công việc rất thấp kém. Họ cũng sẽ không xấu xí (xú lậu); xấu xí tức là tướng mạo rất khó coi.
H3. Phiền Não Chướng Chuyển, Chuyển Hậu Báo (phân 2 phần)
I1. Nói Riêng ba phiền não chướng chuyển
I2. Nói Chung Tất Cả Phiền Não Chướng Chuyển
I1. NÓI RIÊNG BA PHIỀN NÃO CHƯỚNG CHUYỂN
Chúng sanh thường ưa thấy
Như ham mộ hiền thánh
Các đồng tử cõi trời
Dùng làm kẻ sai khiến.
Dao gậy chẳng lâm vào
Độc dữ không thể hại
Nếu người muốn mắng nhiếc
Miệng thời bị ngậm bít.
Dạo đi không sợ sệt
Dường như sư tử vương
Trí huệ luôn rực sáng
Như mặt trời chói chang.
Chúng sanh nhạo kiến
Như mộ hiền thánh
Thiên chư đồng tử
Dĩ vi cấp sử.
Đao trượng bất gia
Độc bất năng hại
Nhược nhân ác mạ
Khẩu tắc bế tắc.
Du hành vô úy
Như sư tử vương
Trí huệ quang minh
Như nhật chi chiếu.
“Chúng sanh thường ưa thấy, như ham mộ hiền thánh”: quý vị tu Bồ-tát đạo, không có bệnh, không có ưu sầu, cũng không nghèo, không thấp hèn, không xấu xí, vì vậy chúng sanh thích gặp quý vị, cũng giống như ngưỡng mộ bậc Hiền thánh, Bồ-tát vậy. “Các đồng tử cõi trời, dùng làm kẻ sai khiến”: tất cả đồng tử ở cõi trời cũng đến làm việc cho quý vị, nghe theo sự sai bảo của quý vị.
“Dao gậy chẳng lâm vào, độc dữ không thể hại”: có việc hung hiểm gì, dao gậy cũng sẽ không chạm vào người quý vị; chẳng những dao gậy không thể làm hại quý vị, dù có người nào muốn bỏ thuốc đầu độc quý vị, cũng chẳng thể nào hại quý vị được. “Nếu người muốn mắng nhiếc, miệng thời bị ngậm bít”: giả sử có người mắng nhiếc quý vị, họ vừa định mắng thì miệng không thể mở ra. “Dạo đi không sợ sệt, dường như sư tử vương”: bất luận đến nơi nào cũng đều không sợ hãi, giống như vua sư tử vậy; sư tử là vua của các loài thú, bất cứ loài thú nào cũng đều sợ nó. “Trí huệ luôn rực sáng, như mặt trời chói chang”: trí huệ của vị ấy rực sáng, giống như mặt trời chiếu cùng khắp mặt đất, chẳng một vật nhỏ tí ti nào mà không chiếu vào, chẳng có chỗ tối tăm nào mà không rọi tới.
I2. Nói Chung Tất Cả Phiền Não Chướng Chuyển (phân 4 phần)
J1. Trong Mộng Vào Giai Vị Tương Tợ Thập Tín
J2. Trong Mộng Vào Giai Vị Sơ Trụ Kiến đạo
J3. Trong Mộng Vào Giai Vị Trụ Hành Hướng Địa Tu Đạo
J4. Trong Mộng Vào Giai Vị Diệu Giác Cứu Cánh
J1. TRONG MỘNG VÀO GIAI VỊ TƯƠNG TỢ THẬP TÍN[3]
Nếu ở trong chiêm bao
Chỉ thấy những việc tốt
Thấy các Đức Như Lai
Ngồi trên tòa sư tử.
Các hàng chúng Tỳ-kheo
Vây quanh nghe nói pháp
Lại thấy các long thần
Cùng A-tu-la thảy.
Số như cát sông Hằng
Đều cung kính chắp tay
Tự ngó thấy thân mình
Mà vì chúng nói pháp.
Nhược ư mộng trung
Đãn kiến diệu sự
Kiến chư Như Lai
Tọa sư tử tòa.
Chư Tỳ-kheo chúng
Vi nhiễu thuyết pháp
Hựu kiến long thần
A-tu-la đẳng.
Số như Hằng sa
Cung kính hiệp chưởng
Tự kiến kỳ thân
Nhi vị thuyết pháp.
“Nếu ở trong chiêm bao, chỉ thấy những việc tốt”: nếu quý vị nằm mộng cũng sẽ thấy được điềm lành, không mộng thấy những điều hung ác; tức là ở trong chiêm bao cũng thấy được cảnh giới tốt lành. Thế nào là cảnh giới tốt lành? Chính là “Thấy các Đức Như Lai , ngồi trên tòa sư tử”: thấy các Đức Phật ngồi trên tòa sư tử nói pháp. “Các hàng chúng Tỳ-kheo, vây quanh nghe nói pháp”: có rất nhiều vị thuộc bốn chúng đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đến vây quanh, khen ngợi Phật, nghe Phật thuyết pháp.
“Lại thấy các long thần, cùng A-tu-la thảy”: lại thấy tám bộ quỷ thần như trời, rồng, a-tu-la…, “Số như cát sông Hằng, đều cung kính chắp tay”: con số ấy nhiều như số cát sông Hằng, cùng đến chắp tay cung kính lễ bái, cúng dường. “Tự ngó thấy thân mình, mà vì chúng nói pháp”: tự thấy thân thể của mình đang nói pháp cho tám bộ trời, rồng… này.
J2. TRONG MỘNG VÀO GIAI VỊ SƠ TRỤ[4] KIẾN ĐẠO[5]
Lại thấy các Đức Phật
Thân tướng thuần sắc vàng
Phóng vô lượng hào quang
Chiếu soi khắp tất cả.
Dùng giọng tiếng Phạm âm
Mà diễn nói các pháp
Phật vì hàng tứ chúng
Nói kinh pháp vô thượng.
Thấy thân mình ở đấy
Chắp tay khen ngợi Phật
Nghe pháp lòng vui mừng
Mà cúng dường Đức Phật.
Đặng pháp Đà-la-ni
Chứng được trí bất thoái
Phật biết tâm người đó
Đã vào sâu Phật đạo
Liền thọ ký cho kia
Sẽ thành Tối chánh giác.
Này ông! Thiện nam tử
Sẽ ở đời vị lai
Thành tựu vô lượng trí
Nơi đạo lớn của Phật.
Cõi nước rất trang nghiêm
Rộng lớn không đâu bằng
Cũng có hàng tứ chúng
Chắp tay nghe nói pháp.
Hựu kiến chư Phật
Thân tướng kim sắc
Phóng vô lượng quang
Chiếu ư nhất thiết.
Dĩ Phạm âm thanh
Diễn thuyết chư pháp
Phật vị tứ chúng
Thuyết vô thượng pháp.
Kiến thân xử trung
Hợp chưởng tán Phật
Văn pháp hoan hỷ
Nhi vi cúng dường.
Đắc đà-la-ni
Chứng bất thối trí
Phật tri kỳ tâm
Thâm nhập Phật đạo
Tức vi thọ ký
Thành tối chánh giác.
Nhữ thiện nam tử
Đương ư lai thế
Đắc vô lượng trí
Phật chi đại đạo
Quốc độ nghiêm tịnh
Quảng đại vô tỷ
Diệc hữu tứ chúng
Hợp chưởng thính pháp.
“Lại thấy các Đức Phật, thân tướng thuần sắc vàng, phóng vô lượng hào quang, chiếu soi khắp tất cả”: lại nằm mộng, thấy các Đức Phật, thân màu vàng Tử-ma[6], phóng ra vô lượng ánh sáng, chiếu soi đến tất cả chúng sanh. “Dùng giọng tiếng Phạm âm, mà diễn nói các pháp”: dùng Phạm âm thanh tịnh để diễn nói tất cả các pháp. Vì vậy, âm thanh cũng rất quan trọng, người giảng kinh nói pháp, âm thanh phải trong trẻo, nói năng cần rõ ràng, không nên khiến cho người nghe không hiểu được quý vị đang nói cái gì. Quý vị có được giọng nói trong trẻo, vang dội, là do đời trước đã tu các căn lành, nên mới có những biểu hiện như thế; bằng không, khi quý vị nói chuyện, âm thanh giống như khóc, mọi người vốn không có tâm sầu khổ, nhưng khi nghe giọng nói của quý vị họ liền bật khóc.
“Phật vì hàng tứ chúng, nói kinh pháp vô thượng”: lại nghe được Đức Phật giảng nói diệu pháp vô thượng cho bốn chúng đệ tử. “Thấy thân mình ở đấy, chắp tay khen ngợi Phật”: tự thấy mình cũng ở bên trong đạo tràng ấy, chắp tay khen ngợi Phật nói pháp. Giống như có rất nhiều cư sĩ thành tâm, đã mộng thấy những điều này, đấy đều là những người có căn lành! Có một số các vị Tỳ-kheo cũng có được điềm mộng này. “Nghe pháp lòng vui mừng, mà cúng dường Đức Phật”: ca ngợi Phật, nghe pháp nên vui mừng, cúng dường Đức Phật. “Đặng pháp Đà-la-ni, chứng được trí bất thoái”: được pháp môn tổng trì, tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa, chứng được trí huệ không thoái chuyển! Tức là đạt được trí huệ, vĩnh viễn sẽ không còn mê, sẽ không còn mơ mơ hồ hồ nữa. “Phật biết tâm người đó, đã vào sâu Phật đạo”: Đức Phật biết tâm người này đã thâm nhập Phật đạo, “liền thọ ký cho kia, sẽ thành Tối chánh giác”: liền thọ ký cho họ sẽ thành tựu quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác cao tột.
“Này ông! Thiện nam tử”: những thiện nam tử các ông! “Sẽ ở đời vị lai, thành tựu vô lượng trí, nơi đạo lớn của Phật”: Đức Phật thọ ký cho quý vị, Ngài bảo: “Thiện nam tử! Vào đời sau, các ông sẽ được trí huệ vô lượng, lại được thành tựu Phật đạo.” “Cõi nước rất trang nghiêm, rộng lớn không đâu bằng”: cõi nước kia của quý vị cũng trang nghiêm, thanh tịnh và rất rộng lớn, “Cũng có hàng tứ chúng, chắp tay nghe nói pháp”: cũng có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều chắp tay nghe pháp.
J3. TRONG MỘNG VÀO GIAI VỊ TRỤ HÀNH HƯỚNG ĐỊA TU ĐẠO[7]
Lại thấy thân của mình
Ở trong chốn núi rừng
Tu tập các pháp lành
Chứng thật tướng các pháp
Nhập sâu vào thiền định
Thấy chư Phật mười phương.
Hựu kiến tự thân
Tại sơn lâm trung
Tu tập thiện pháp
Chứng chư thật tướng
Thâm nhập thiền định
Kiến thập phương Phật.
“Lại thấy thân của mình, ở trong chốn núi rừng, tu tập các pháp lành”: lại thấy thân này của mình ở trong chốn núi rừng thanh tịnh, tu tập pháp lành thiền định.“Chứng thật tướng các pháp”: chứng được lý thể thật tướng, chứng được cảnh giới diệu hữu không thể nghĩ bàn. “Nhập sâu vào thiền định, thấy chư Phật mười phương”: có thể đạt đến cảnh giới sâu mầu của thiền định, cũng chính là cảnh giới “khi hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa”; lúc này, ở trong định, có thể diện kiến các Đức Phật trong mười phương và được nghe kinh pháp.
J4. TRONG MỘNG VÀO GIAI VỊ DIỆU GIÁC[8] CỨU CÁNH
Chư Phật thân sắc vàng
Trăm phước tướng trang nghiêm
Nghe pháp vì người nói
Thường có mộng tốt này.
Lại mộng làm quốc vương
Bỏ cung điện quyến thuộc
Và ngũ dục thượng diệu
Đi đến nơi đạo tràng.
Ở dưới cội Bồ-đề
Mà ngồi tòa sư tử
Cầu đạo qua bảy ngày
Đặng trí của chư Phật.
Thành đạo Vô thượng rồi
Dậy mà chuyển pháp luân
Vì bốn chúng nói pháp
Trải nghìn muôn ức kiếp.
Nói pháp mầu vô lậu
Độ vô lượng chúng sanh
Sau sẽ vào Niết-bàn
Như khói hết đèn tắt.
Chư Phật thân kim sắc
Bách phước tướng trang nghiêm
Văn pháp vị nhân thuyết
Thường hữu thị hảo mộng.
Hựu mộng tác quốc vương
Xả cung điện quyến thuộc
Cập thượng diệu ngũ dục
Hành nghệ ư đạo tràng.
Tại Bồ-đề thọ hạ
Nhi xử sư tử tòa
Cầu đạo quá thất nhật
Đắc chư Phật chi trí.
Thành vô thượng đạo dĩ
Khởi nhi chuyển pháp luân
Vị tứ chúng thuyết pháp
Kinh thiên vạn ức kiếp.
Thuyết vô lậu diệu pháp
Độ vô lượng chúng sanh
Hậu đương nhập Niết-bàn
Như yên tận đăng diệt.
“Chư Phật thân sắc vàng, trăm phước tướng trang nghiêm”: người này trong mộng gặp được Phật, thân Phật phóng ra ánh sáng màu vàng Tử-ma; chính là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, pháp thân trang nghiêm thanh tịnh vi diệu “tướng trăm phước” của Đức Phật. “Nghe pháp vì người nói, thường có mộng tốt này”:ở trước Phật được nghe pháp, lại vì người mà nói pháp, thường có cảnh mộng vi diệu không thể nghĩ bàn như thế.
“Lại mộng làm quốc vương, bỏ cung điện quyến thuộc, và ngũ dục thượng diệu, đi đến nơi đạo tràng”: lại mộng thấy mình làm vua, nhưng lại xả bỏ các hoàng hậu, phi tần trong tam cung lục viện; lại cũng không màng đến những thứ tốt nhất như: tài, sắc, danh, thực, thùy, hay sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà một mình đi đến chỗ đạo tràng kia. “Ở dưới cội Bồ-đề, mà ngồi tòa sư tử”: ngồi trên tòa sư tử dưới cội cây Bồ-đề, “cầu đạo qua bảy ngày, đặng trí của chư Phật”: sau bảy ngày cầu đạo, liền đạt được trí huệ của Phật. Ở trong mộng, quý vị xem! Đã thành Phật rồi! “Thành đạo Vô thượng rồi, dậy mà chuyển pháp luân”: sau khi thành tựu Phật đạo vô thượng, liền chuyển pháp luân, đây là một trong “tám tướng thành đạo[9]”. “Vì bốn chúng nói pháp, trải nghìn muôn ức kiếp”: nói pháp cho bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Ở trong mộng, trải qua thời gian nghìn muôn ức kiếp lâu xa như thế. “Nói pháp mầu vô lậu, độ vô lượng chúng sanh”: nói pháp mầu vô lậu, độ được vô lượng chúng sanh. “Sau sẽ vào Niết-bàn, như khói hết đèn tắt”: đến cuối cùng cũng nhập Niết-bàn! Giống như khói hết thì đèn cũng tắt.
G3. TỔNG KẾT
Nếu trong đời ác sau
Nói pháp bậc nhất này
Người đó được lợi lớn
Các công đức như trên.
Nhược hậu ác thế trung
Thuyết thị đệ nhất pháp
Thị nhân đắc đại lợi
Như thượng chư công đức.
Giả sử trong đời ác sau này, nếu có người nào có thể giảng nói “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, người này nhất định sẽ được lợi ích rất lớn, điều tốt rất lớn; mà lợi ích này, chính là các công đức mộng lành như đã nêu ở trên, cũng chính là mộng lành sẽ thành hiện thực!
[1] Thiền duyệt 禪悅: trạng thái vui vẻ thoải mái phát sinh nơi tâm khi người tu nhập vào thiền định.
[2] Pháp hỷ法喜: niềm vui do tham cứu, tu tập pháp Phật mà có được.
[3] Thập tín 十信: vị thứ 10 trong 52 giai vị tu tập của Bồ-tát.
[4] Sơ trụ初住: một trong mười trụ thuộc 52 giai vị Đại thừa..
[5] Kiến đạo 見道: giai vị tu hành dùng trí vô lậu quán sát Tứ đế để thấy được chân lý. Đại thừa cho rằng Sơ địa là vào Kiến đạo, nên gọi Bồ-tát Sơ địa là Kiến đạo.
[6] Vàng Tử-ma 紫磨金(Cg: Tử-ma hoàng kim): vàng ròng, loại vàng tốt và quí nhất. Tử là màu vàng tía, ma : có ý là không bợn nhơ, đồng với vàng Diêm-phù-đàn ở Ấn Độ
[7] Tu đạo 修 道 (S: Bhāvanā-mārga; Cg: Hữu học đạo): tu hành theo pháp môn để đoạn trừ phiền não và được an lạc. Theo thuyết của Đại thừa Duy thức, từ Trụ tâm của Sơ trụ trở lên đến địa cuối cùng, (Địa thứ 10) tu Kim cương vô gián đạo, gọi là Tu đạo.
[8] Diệu giác 妙 覺 (Cg: Diệu giác địa): giai vị cuối cùng trong quá trình tu hành của Bồ-tát Đại thừa, đã trừ sạch vô minh, chứng được trí huệ không thể nghĩ bàn. Đây là một trong 42 giai vị hoặc 52 giai vị Bồ-tát
[9] Tám tướng thành đạo 八 相成道: tám oai tướng của Đức Phật Thích-ca, cũng là nghi thức giáo hóa chúng sanh trong một đời của Đức Phật, gồm: (1). Tướng từ cung trời Đâu-suất giáng thần; (2). Tướng gá thai; (3). Tướng giáng sinh; (4). Tướng xuất gia; (5). Tướng hàng ma; (6). Tướng thành đạo; (7). Tướng thuyết pháp; (8). Tướng Niết-bàn.
Hết Phẩm 14 HẠNH AN LẠC
(Đại Lão Hòa Thượng thượng Tuyên hạ Hóa giảng thuật vào năm 1968, tại Phật Giáo Giảng Đường, San Francisco, California)
Phẩm 14: HẠNH AN LẠC
(tiếp theo)
J2. THÂN CẬN XỨ LÀ KHÔNG LÌA XA KHÔNG GẦN GŨI (phi viễn phi cận)
Lại cũng chẳng hành trì
Những pháp thượng, trung, hạ
Hữu vi hay vô vi
Pháp thật và chẳng thật.
Lại cũng chẳng phân biệt
Là nam hay là nữ
Và chẳng đắc các pháp
Chẳng biết cũng chẳng thấy.
Đây thời gọi tên là
“Hành xứ” của Bồ-tát.
Đối với tất cả pháp
Đều không, vô sở hữu
Cũng chẳng hề thường trụ
Và cũng không khởi diệt.
Đây gọi chỗ “thân cận”
Mà người trí gần gũi.
Diệc phục bất hành
Thượng trung hạ pháp
Hữu vi vô vi
Thật bất thật pháp
Diệc bất phân biệt
Thị nam thị nữ
Bất đắc chư pháp
Bất tri bất kiến
Thị tắc danh vi
Bồ-tát hành xứ
Nhất thiết chư pháp
Không vô sở hữu
Vô hữu thường trụ
Diệc vô khởi diệt
Thị danh trí giả
Sở thân cận xứ.
“Lại cũng chẳng hành trì, những pháp thượng, trung, hạ”: bậc Bồ-tát tu Bồ-tát đạo này cũng không nên tu các pháp thượng, trung, hạ. Pháp thượng chính là Bồ-tát thừa; pháp trung là Duyên giác thừa; pháp hạ là Thanh văn thừa, đây là pháp Tam thừa. “Hữu vi hay vô vi, pháp thật và chẳng thật”: các loại pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp thật và không thật, đều không nên tu tập.
“Lại cũng chẳng phân biệt, là nam hay là nữ”: cũng không nên phân biệt là nam hay nữ. Sao lại không nên phân biệt nam, nữ? Vì “nam” chính là “huệ”, “nữ” chính là “định”; định huệ nhất như, định huệ vốn là một, vì vậy, không nên quá phân biệt. “Và chẳng đắc các pháp”: vì “không trí cũng không đắc” (vô trí diệc vô đắc -- Tâm Kinh), nên không đắc tất cả pháp. “Không biết cũng không thấy”: tâm không biết tất cả các pháp, mắt cũng không thấy các pháp[1]. “Đây thời gọi tên là, hành xứ của Bồ-tát”: giống như cách an trụ tâm một chỗ, đây chính là “hành xứ” của Bồ-tát.
“Đối với tất cả pháp, đều không, vô sở hữu”: tất cả các pháp, xưa nay vốn cái gì cũng chẳng có, “cũng chẳng hề thường trụ”: quán tướng của tất cả các pháp cũng không thường trụ. Vì không thường trụ nên không bị dính mắc; vì không bị dính mắc nên đạt được sự giải thoát. “Và cũng không khởi diệt”: quán tất cả các pháp không sanh cũng không diệt. “Đây gọi chỗ thân cận, mà người trí gần gũi”: đây cũng là chỗ mà hàng Bồ-tát có trí huệ nên gần gũi.
Chớ đảo điên phân biệt
Các pháp có hoặc không
Là thật, chẳng phải thật
Là sanh, chẳng phải sanh.
Ở an nơi vắng vẻ
Mà tu nhiếp tâm mình
An trụ chẳng lay động
Như thể núi Tu-di.
Quán sát tất cả pháp
Thảy đều không thật có
Cũng giống như hư không
Chẳng có chút bền chắc.
Không sanh cũng không xuất
Chẳng động cũng chẳng thoái
Thường trụ nơi nhất tướng
Đây gọi “Thân cận xứ”.
Điên đảo phân biệt
Chư pháp hữu vô
Thị thật phi thật
Thị sanh phi sanh
Tại ư nhàn xứ
Tu nhiếp kỳ tâm
An trụ bất động
Như Tu-di sơn
Quán nhất thiết pháp
Giai vô sở hữu
Du như hư không
Vô hữu kiên cố
Bất sanh bất xuất
Bất động bất thối
Thường trụ nhất tướng
Thị danh cận xứ.
“Chớ đảo điên phân biệt, các pháp có hoặc không, là thật chẳng phải thật, là sanh chẳng phải sanh”: nếu quý vị có các loại điên đảo, các thứ phân biệt, phân biệt pháp này có, pháp kia chẳng có, đây là pháp thật, kia là pháp giả, đây là pháp có sanh, kia là pháp chẳng có sanh. Phân biệt những pháp tướng như thế chính là điên đảo.
“Ở an nơi vắng vẻ, mà tu nhiếp tâm mình, an trụ chẳng lay động, như thể núi Tu-di”: Bồ-tát nên ở chỗ thanh tịnh, vắng vẻ để tu nhiếp thân tâm, an trụ nơi thật tướng của các pháp, không vọng khởi cũng không dao động, giống như núi chúa Tu-di trụ vững chãi, không hề lay động.
“Quán sát tất cả pháp, thảy đều không thật có, cũng giống như hư không, chẳng có chút bền chắc”: nên quán sát tường tận tất cả các pháp, vốn đều bất khả đắc, giống như hư không vậy; hư không vốn chẳng có tự thể, nên nó không bền chắc. “Không sanh cũng không xuất, chẳng động cũng chẳng thoái”: không sanh, cũng không xuất, không động, cũng không thoái lui. “Thường trụ nơi nhất tướng”: trong Kinh văn, phần trường hàng (văn xuôi, prose), nói: “thật vô sở hữu”, sao ở đây lại nói“thường trụ nơi nhất tướng” (thường trụ nhất tướng)? Vì không có tướng “có”, không có tướng “không”, nên gọi là “thường trụ nơi nhất tướng” – thường trụ nơi một tướng “chẳng phải có chẳng phải không”. “Đây gọi Thân cận xứ”: đây là chỗ nên gần gũi để tu hành của vị Bồ-tát.
I3. NÓI RÕ THẾ NÀO LÀ HẠNH THÂN AN LẠC ĐÃ THÀNH TỰU
Nếu có vị Tỳ-kheo
Sau khi Ta diệt độ
Thâm nhập “Hành xứ” này
Và “Thân cận xứ” kia
Khi thuyết kinh Pháp Hoa
Không có tâm khiếp sợ.
Có lúc vị Bồ-tát
Vào trong nơi tịnh thất
Dùng suy nghĩ chân chánh
Theo đúng nghĩa quán pháp.
Sau khi ra khỏi định
Vì các bậc quốc vương
Vương tử và quan, dân
Cùng hàng Bà-la-môn
Mà khai hóa diễn bày
Giảng nói Kinh pháp đây
Tâm vị đó an ổn
Chẳng có chút khiếp nhược.
Này Văn-thù-sư-lợi!
Đây gọi là Bồ-tát
An trụ pháp ban đầu
Có thể trong thời ác
Giảng nói Kinh Pháp Hoa.
Nhược hữu Tỳ-kheo
Ư ngã diệt hậu
Nhập thị “hành xứ”
Cập “thân cận xứ”
Thuyết tư kinh thời
Vô hữu khiếp nhược
Bồ-tát hữu thời
Nhập ư tịnh thất
Dĩ chánh ức niệm
Tùy nghĩa quán pháp
Tùng thiền định khởi
Vị chư quốc vương
Vương tử thần dân
Bà-la-môn đẳng
Khai hóa diễn xướng
Thuyết tư kinh điển
Kỳ tâm an ổn
Vô hữu khiếp nhược
Văn-thù-sư-lợi
Thị danh Bồ-tát
An trụ sơ pháp
Vãng ư hậu thế
Thuyết Pháp Hoa Kinh.
“Nếu có vị Tỳ-kheo, sau khi Ta diệt độ, thâm nhập “Hành xứ” này, và “Thân cận xứ” kia”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo: sau khi Ta diệt độ, giả như có Tỳ-kheo nào thâm nhập chỗ Bồ-tát tu hành, và chỗ nên gần gũi của hàng Bồ-tát. “Khi thuyết Kinh Pháp Hoa, không có tâm khiếp sợ”: khi giảng nói bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, không có tâm sợ hãi, cũng không có điều mong cầu. Vì sao không sợ hãi? Chính vì không có ý mong cầu; nếu quý vị có mong cầu thì sẽ có sợ hãi. Quý vị không có tâm mong cầu, đấy chính là chỗ: “Khi đã đạt đến chỗ không mong cầu, thì không còn lo lắng” (đáo vô cầu xứ tiện vô ưu), không mong cầu bất cứ điều gì, thì cũng chẳng có gì phải lo phiền.
“Có lúc vị Bồ-tát, vào trong nơi tịnh thất”: thỉnh thoảng Bồ-tát phải nhập thất, “dùng suy nghĩ chân chánh, theo đúng nghĩa quán pháp”: dùng chánh niệm để nhớ nghĩ đạo lý của Phật pháp, theo nghĩa của văn Kinh mà quán niệm và ngộ giải chân lý. Vì vậy, khi quý vị học giảng kinh, trước khi giảng, tốt nhất nên tĩnh tọa một giờ, hoặc nửa giờ, ngưng dứt mọi vọng tưởng tạp loạn, tu tập công phu lắng tâm tĩnh lự; sau đó, do trong định mà ngộ ra đạo lý để giảng nói kinh Phật. Đây là phương pháp giảng kinh tốt nhất.
“Sau khi ra khỏi định, vì các bậc quốc vương, vương tử và quan dân, cùng hàng Bà-la-môn”: sau khi nhập định, rồi xuất định. “Khởi” chính là xuất khỏi định. Khi vừa xuất định, liền vì vua, hoặc thái tử con vua, hoặc đại thần, hoặc thứ dân, hoặc Bà-la-môn, “mà khai hóa diễn bày, giảng nói Kinh pháp đây”: triển khai, giảng giải lý vi diệu, không pháp nào vượt hơn của bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, “tâm vị đó an ổn, chẳng có chút khiếp nhược”: trong lòng rất an ổn, rất vui sướng, chẳng hề sợ sệt.
“Này Văn-thù-sư-lợi! Đây gọi là Bồ-tát an trụ pháp ban đầu”: Văn-thù-sư-lợi! Ông nên biết, đây gọi là pháp an trụ ban đầu của Bồ-tát – an trụ pháp môn khởi đầu trong quá trình tu Bồ-tát đạo. “Có thể trong thời ác sau này, giảng nói Kinh Pháp Hoa”: nếu tu tập được như thế, vào thời Mạt pháp sau này, vị Bồ-tát ấy có thể giảng nói bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.
G2. HẠNH MIỆNG AN LẠC (phân 2 phần)
H1. Trường Hàng (2 phần)
I1. Giới Thiệu
I2. Giải Thích Hành Pháp
H2. Trùng Tụng
I1. GIỚI THIỆU
Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Sau khi Đức Như Lai diệt độ, ở trong đời Mạt pháp mà muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh an lạc.
Hựu Văn-thù-sư-lợi, Như Lai diệt hậu, ư Mạt pháp trung, dục thuyết thị kinh, ưng trụ an lạc hạnh.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại gọi một tiếng “Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi!”, và nói: phần trên là nói về “hạnh thân an lạc”, bây giờ ta sẽ nói cho ông nghe về “hạnh miệng an lạc”. Sau khi ta—Thích-ca Mâu-ni Như Lai—diệt độ, trong thời Mạt pháp sau này, muốn giảng bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, cần phải trụ vào pháp Hạnh An Lạc.
I2. GIẢI THÍCH HÀNH PHÁP (phân 2 phần)
J1. Nói Rõ Hạnh “Chỉ”
J2. Nói Rõ Hạnh “Quán”
J1. NÓI RÕ HẠNH “CHỈ”
Hoặc khi miệng tuyên nói, hoặc lúc đọc tụng kinh đều không ưa nói lỗi của người và của kinh điển. Cũng chẳng xem thường các vị pháp sư khác, không nói việc hay dở, tốt xấu của người. Ở nơi hàng Thanh văn, cũng chẳng kêu tên nói lỗi xấu của họ, cũng chẳng kêu tên khen ngợi điều hay của họ, lại cũng chẳng sanh lòng oán hiềm.
Nhược khẩu tuyên thuyết, nhược độc kinh thời, bất nhạo thuyết nhân cập kinh điển quá. Diệc bất khinh mạn chư dư pháp sư, bất thuyết tha nhân hảo ố trường đoản. Ư Thanh văn nhân, diệc bất xưng danh thuyết kỳ quá ác, diệc bất xưng danh tán thán kỳ mỹ, hựu diệc bất sanh oán hiềm chi tâm.
“Hoặc khi miệng tuyên nói, hoặc lúc đọc tụng kinh đều không ưa nói lỗi của người và của kinh điển”: giả như khi giảng nói bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, hoặc khi đang đọc tụng bộ kinh này, không ưa kể ra lỗi lầm của người khác, cũng không chỉ vạch điểm gì không đúng của bộ kinh này; tức không nói lỗi của người, cũng không nói lỗi của kinh. Vì pháp do Đức Phật thuyết ra là pháp môn “quán cơ giáo hóa, tùy người nói pháp, theo bệnh cho thuốc” (quán cơ đậu giáo, nhân nhơn thuyết pháp, ứng bệnh dữ dược), chẳng có chỗ nào là đúng, cũng chẳng có chỗ nào là sai cả.
“Cũng chẳng xem thường các vị pháp sư khác, không nói việc hay dở, tốt xấu của người”: không xem thường kinh điển khác, cũng không xem thường những vị pháp sư khác. Hoặc thấy vị pháp sư nào giảng pháp hay, thì liền khen ngợi; còn vị nào giảng không hay, liền xem thường. Không nên thế! Chớ có bàn luận chỗ hay dở của người khác, cũng chớ có đàm tiếu người này có ưu điểm gì, người kia có khuyết điểm gì.
“Ở nơi hàng Thanh văn, cũng chẳng kêu tên nói lỗi xấu của họ”: đối với hàng Thanh văn, tức người tu pháp Tiểu thừa, cũng không nên gọi thẳng tên vị ấy ra. Người Mỹ quý vị, con cái kêu cha cũng gọi tên, cha kêu con cái cũng gọi tên, chẳng có một chút tôn ty, không phân biệt lớn nhỏ gì cả!
Quý vị nghe “Kinh Pháp Hoa”, đến chỗ này, cần phải hiểu rằng: các vị xuất gia và cư sĩ tại gia không được gọi thẳng tên nhau; nhất là đối với hàng xuất gia, người tại gia càng không nên kêu tên. Như quý vị hiện nay, không được gọi pháp danh của những vị kia, mà nên gọi biệt hiệu của họ, hoặc gọi tên tự cũng được. Như pháp sư Hằng Khiêm, có thể gọi là “Pháp sư Khiêm” vẫn được. Trong hàng huynh đệ còn không nên gọi tên lẫn nhau, huống chi là đối với sư phụ ư! Trong số quý vị, có người không hiểu Phật pháp, đã gọi sư phụ của mình: “A! Pháp sư Độ Luân, Pháp sư Tuyên Hóa!”, đây là kiểu xưng hô không coi thầy tổ ra gì; hoặc gọi “Độ Luân”, với cách xưng hô này, càng không xem sư phụ mình ra gì, kẻ đó quả là hạng khi sư diệt tổ, đại nghịch bất đạo cùng cực, là hạng học trò chẳng ra gì!
Vì thế sau này, quý vị nên biết điều cấm kỵ đó. Ngay cả đối với huynh đệ đồng môn cũng không được gọi tên, như gọi “Thầy Quả Ninh”, “Thầy Quả Tiền”, “Thầy Quả Tiên”, hoặc “Thầy Quả Tu”. Vậy phải gọi thế nào đây? Chỉ gọi một chữ là được rồi, có thể gọi “Pháp sư Khiêm”, “Pháp sư Tĩnh”, tốt nhất là nên gọi pháp hiệu. Ban đầu, bảo những người tại gia như quý vị gọi hàng xuất gia là “Pháp sư”, có một người đã phản đối và bảo với một chú Sa-di nhỏ: “Sau này, khi xưng hô với chú, phải gọi là Venerable (Tôn giả) sao?”. Ông ta cảm thấy gọi người xuất gia là “Pháp sư” là rất mất mặt. Đây là một sai lầm lớn!
Vì vậy, giữa người xuất gia với nhau, quý vị không nên kêu tên, như gọi “Quả Tu” hoặc “Quả Dật”; pháp danh chỉ dành cho sư phụ gọi, huynh đệ với nhau không nên gọi. Quý vị gọi pháp danh, chính là không cung kính người, người cũng sẽ không cung kính quý vị; kiểu như “bánh ít đi mà bánh quy không lại là thiếu lễ” (lai nhi bất vãng phi lễ dã) vậy. Chỉ vì người phương Tây quý vị không tìm tòi học hỏi, nên không có được kiểu tri thức này; bây giờ tôi đã giảng cho quý vị nghe, quý vị nên tiếp thu và chớ có gọi tên của nhau nữa nhé!
Không nên gọi thẳng tên của vị pháp sư Tiểu thừa, bảo vị ấy có lỗi gì, đã phạm giới gì. Như nói “Có một lần, tôi thấy vị ấy ăn thịt, lại còn uống rượu. Sau đó, tôi hỏi vì sao vị ấy lại ăn thịt? Nhưng ông ta chối phắt, như vậy là đã vọng ngữ rồi. Ồ! Người này chẳng phải là người tu hành!”. Không nên nói như thế.
“Cũng chẳng kêu tên khen ngợi điều hay của họ”: cũng không gọi tên của vị ấy ra để khen. Không nói: “Ồ! Ông A, ông B rất giỏi!”, nhưng nếu vị ấy thật sự giỏi thì có thể khen. Giống như tôi thường tán thán pháp sư Thọ Trị, tuy không có sự giao tình, qua lại thân thiết với nhau, nhưng tôi rất hay khen ngợi vị ấy, đó đúng là một vị Bồ-tát. Thế thì, người kia thật sự có chỗ tốt thì nên khen ngợi; tuy nhiên, khen ngợi thì khen ngợi, nhưng không nên kêu trực tiếp tên họ ra để khen. Như nói: “Ồ! Tôi biết Pháp sư (hiệu đó đó) đúng thật là người tu hành có đạo đức!”, chớ có kêu tên vị ấy ra. Một khi quý vị nêu tên vị ấy ra, nếu như họ thật sự tốt thì không nói gì; lỡ như có người nào đó phát hiện họ không tốt, thì quý vị sẽ bị xem là kẻ nói dối. Do vậy, không nên nói chỗ dở hoặc chỗ hay của người khác.
“Lại cũng chẳng sanh lòng oán hiềm[2]”: quý vị chẳng những không nói lỗi của người khác, cũng không khen ngợi họ, mà cũng không nên có lòng oán hiềm người khác – tức sanh lòng hiềm nghi. Như có thành kiến với một người nào đó, thì quý vị liền có ấn tượng không tốt đối với họ, đấy chính là “tâm oán hiềm”.
J2. NÓI RÕ HẠNH “QUÁN”
Khéo tu tâm an lạc như thế, những người đến nghe pháp, không trái ý họ; có bị gạn hỏi, không dùng pháp Tiểu thừa đáp, chỉ dùng pháp Đại thừa mà giảng nói, khiến cho họ được Nhất thiết chủng trí.
Thiện tu như thị an lạc tâm cố, chư hữu thính giả, bất nghịch kỳ ý, hữu sở nạn vấn, bất dĩ Tiểu thừa pháp đáp, đãn dĩ Đại thừa nhi vị giải thuyết, linh đắc Nhất thiết chủng trí.
“Khéo tu tâm an lạc như thế”: khéo tu những pháp khiến tâm an lạc như đã nêu ở trên. Vì không có các thói xấu: khen người này, chê người kia, oán hiềm người nọ thì tâm quý vị sẽ được an lạc, không chất chứa “tham, sân, si” trong lòng. “Những người đến nghe pháp, không trái ý họ”: người đến nghe pháp thì không nên trái ý họ. Nếu như họ hỏi chỗ hay cũng mặc, hỏi chỗ dở cũng mặc, quý vị vẫn cứ phớt lờ đi, đây là trái ý họ. “Có bị gạn hỏi, không dùng pháp Tiểu thừa đáp”: nếu họ đến hỏi đạo lý gì, quý vị chớ nên dùng pháp Tiểu thừa để trả lời, “chỉ dùng pháp Đại thừa mà giảng nói, khiến họ được Nhất thiết chủng trí [3].”: chỉ dùng diệu lý Đại thừa để trả lời, căn cứ vào kinh điển Đại thừa để nói pháp, khiến cho người đến hỏi pháp có thể đạt được trí huệ Nhất thiết chủng.
H2. TRÙNG TỤNG (phân 3 phần)
I1. Nêu Chung
I2. Giải Thích
I3. Nói Rõ Thế Nào Là Hạnh Khẩu An Lạc Đã Thành Tựu
I1. NÊU CHUNG
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Bậc Bồ-tát thường ưa
An ổn nói kinh pháp
Ở vùng đất thanh tịnh
Mà thiết lập sàn tòa
Dùng dầu thơm xoa thân
Tắm gội các bụi nhơ
Mặc y mới sạch sẽ
Trong ngoài đều sạch thơm
Ngồi an trên pháp tòa
Theo chỗ hỏi mà nói.
Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:
Bồ-tát thường nhạo
An ổn thuyết pháp
Ư thanh tịnh địa
Nhi thí sàn tòa
Dĩ du đồ thân
Tháo dục trần uế
Trước tân tịnh y
Nội ngoại câu tịnh
An xử pháp tòa
Tùy vấn vị thuyết.
“Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng”: Ngay khi ấy, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn giảng lại cặn kẽ ý này, nên dùng kệ tụng để nói.
“Bậc Bồ-tát thường ưa, an ổn nói kinh pháp”: bậc Bồ-tát Ma-ha-tát tu Bồ-tát đạo này thường muốn an ổn cho chúng sanh nên nói pháp cho họ; đấy chính là “vào nhà Như Lai” (nhập Như Lai thất). “Ở vùng đất thanh tịnh, mà thiết lập sàn tòa”: ở chỗ thanh tịnh mà trải sàn tòa; đây chính là “ngồi tòa Như Lai” (tọa Như Lai tòa).“Dùng dầu thơm xoa thân, tắm gội các bụi nhơ, mặc y mới sạch sẽ, trong ngoài đều sạch thơm”: dùng dầu thơm xoa vào người, tắm gội thật sạch để tẩy trừ các thứ nhơ bẩn, mặc y phục sạch sẽ, trong ngoài đều tinh khiết, bên trong không còn vọng tưởng, bên ngoài không còn nhiễm ô; đây chính là “mặc áo Như Lai” (xuyên Như Lai y). “Ngồi an trên pháp tòa, theo chỗ hỏi mà nói”: ngự an ổn ở tòa Như Lai, tùy theo chỗ thưa hỏi của chúng sanh mà nói pháp.
I2. GIẢI THÍCH (phân 2 phần)
J1. Hạnh “Chỉ”
J2. Hạnh “Quán”
JI. HẠNH “CHỈ”
Nếu có vị Tỳ-kheo
Cùng với Tỳ-kheo-ni
Các hàng Ưu-bà-tắc
Và hàng Ưu-bà-di
Quốc vương và vương tử
Các quan cùng sĩ, dân
Dùng pháp nghĩa nhiệm mầu
Hòa nhã vì họ nói.
Nếu có người gạn hỏi
Theo nghĩa mà trả lời
Nhân duyên hoặc thí dụ
Giải bày phân biệt nói.
Dùng trí phương tiện này
Đều khiến họ phát tâm
Lợi ích ngày một tăng
Mà vào được Phật đạo.
Dẹp trừ tâm lười biếng
Cùng vọng tưởng giải đãi
Xa rời các ưu não
Dùng tâm từ nói pháp.
Nhược hữu Tỳ-kheo
Cập Tỳ-kheo-ni
Chư Ưu-bà-tắc
Cập Ưu-bà-di
Quốc vương vương tử
Quần thần sĩ dân
Dĩ vi diệu nghĩa
Hòa nhan vị thuyết
Nhược hữu nạn vấn
Tùy nghĩa nhi đáp
Nhân duyên thí dụ
Phu diễn phân biệt
Dĩ thị phương tiện
Giai sử phát tâm
Tiệm tiệm tăng ích
Nhập ư Phật đạo
Trừ lãn nọa ý
Cập giãi đãi tưởng
Ly chư ưu não
Từ tâm thuyết pháp.
“Nếu có vị Tỳ-kheo, cùng với Tỳ-kheo-ni, các hàng Ưu-bà-tắc, và hàng Ưu-bà-di”: nếu gặp Tỳ-kheo (người nam xuất gia), Tỳ-kheo-ni (người nữ xuất gia), Ưu-bà-tắc (cư sĩ nam), Ưu-bà-di (cư sĩ nữ), cùng với “quốc vương và vương tử, các quan cùng sĩ dân”: vua của một nước, thái tử con vua, hoặc các quan nói chung, hoặc người trí thức và thường dân.
“Dùng pháp nghĩa nhiệm mầu, hòa nhã vì họ nói”: dùng đạo lý vi diệu không thể nghĩ bàn, ôn hòa mà nói pháp. Hòa là hòa nhã; hòa nhan tức không phải cười toe toét, cũng không phải vẻ mặt lầm lì cáu kỉnh. Không cáu kỉnh, cũng không cười quá trớn, tức là vẻ mặt không thể hiện một chút bực bội nào cả, rất ôn hòa mà giảng nói Phật pháp cho họ. “Nếu có người gạn hỏi, theo nghĩa mà trả lời”: nếu họ có điều gì nghi ngờ muốn hỏi, quý vị nên nương theo ý đó mà trả lời; nhưng nên dùng nghĩa lý Đại thừa, chớ dùng pháp Tiểu thừa để đáp.
“Nhân duyên hoặc thí dụ, giải bày phân biệt nói”: dùng các thứ nhân duyên, các kiểu thí dụ để trình bày, diễn nói, phân biệt mà thuyết pháp cho họ. “Dùng trí phương tiện này, đều khiến họ phát tâm, lợi ích ngày một tăng, mà vào được Phật đạo”: dùng các pháp môn phương tiện, khiến chúng sanh nghe pháp đều phát tâm Bồ-đề; hơn nữa, khiến cho tâm Bồ-đề của họ mỗi ngày một tăng trưởng, đến khi thành tựu Phật đạo.
“Dẹp trừ tâm lười biếng, cùng vọng tưởng giải đãi”: từ bỏ các ý niệm lười biếng, không tinh tấn và các vọng tưởng giải đãi, “Xa rời các ưu não, dùng tâm từ nói pháp”: thoát khỏi mọi phiền muộn lo âu, dùng tâm từ mà thuyết pháp cho chúng sanh.
J2. HẠNH “QUÁN”
Ngày đêm thường tuyên nói
Giáo pháp vô thượng đạo
Dùng các loại nhân duyên
Cùng vô lượng thí dụ
Khai thị cho chúng sanh
Khiến họ đều vui mừng.
Y phục và ngọa cụ
Đồ ăn uống, thuốc thang
Mà ở ngay chỗ đó
Không có chút mong cầu.
Chỉ chuyên một lòng nghĩ
Về nhân duyên nói pháp
Nguyện ta thành Phật đạo
Khiến mọi người cũng thế
Đó chính là lợi lớn
Là an lạc cúng dường.
Trú dạ thường thuyết
Vô thượng đạo giáo
Dĩ chư nhân duyên
Vô lượng thí dụ
Khai thị chúng sanh
Hàm linh hoan hỷ
Y phục ngọa cụ
Ẩm thực y dược
Nhi ư kỳ trung
Vô sở hy vọng
Đãn nhất tâm niệm
Thuyết pháp nhân duyên
Nguyện thành Phật đạo
Linh chúng diệc nhĩ
Thị tắc đại lợi
An lạc cúng dường.
“Ngày đêm thường tuyên nói, giáo pháp vô thượng đạo”: vị Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập Bồ-tát đạo này, dùng tâm từ bi mà nói pháp cho chúng sanh; không chỉ trong một thời, mà ngày đêm sáu thời thường nói pháp, đều dùng tâm từ bi mà giáo hóa chúng sanh, giảng nói đạo lý tu hành vô thượng, và giáo pháp vô thượng của Phật. “Dùng các loại nhân duyên, cùng vô lượng thí dụ, khai thị cho chúng sanh, khiến họ đều vui mừng”: vì sợ chúng sanh không hiểu nên dùng vô số nhân duyên, vô lượng vô số thí dụ để chỉ bày cho chúng sanh, khiến cho tất cả đều được đại vui vẻ, đại an lạc, đại thọ mạng.
“Y phục và ngọa cụ, đồ ăn uống, thuốc thang”: cúng dường bốn loại: y phục mặc cùng các vật dụng để ngủ, đồ ăn thức uống và thuốc men; “mà ở ngay chỗ đó, không có chút mong cầu”: ở ngay chỗ nói pháp, không mong cầu y phục, cũng không mong cầu ngọa cụ hay đồ ăn thức uống ngon, không mong cầu những thức ăn có dinh dưỡng cao, những loại thuốc bổ dưỡng. “Chỉ chuyên một lòng nghĩ, về nhân duyên nói pháp”: chỉ chuyên tâm nhớ nghĩ Phật pháp, vì chúng sanh tùy cơ nói pháp, nên nghĩ thế này: “Nói pháp cho chúng sanh này, ta nên dùng nhân duyên gì mới có thể giáo hóa, khiến họ tỉnh ngộ? Phải dùng thí dụ nào mới có thể khiến họ khai ngộ?”
“Nguyện ta thành Phật đạo, khiến mọi người cũng thế”: ta mong muốn thành tựu Phật đạo, đồng thời mong muốn tất cả chúng sanh cũng thành tựu Phật đạo giống như ta vậy. “Đó chính là lợi lớn, là an lạc cúng dường”: cách nghĩ này mới là lợi ích lớn nhất, mới là một loại cúng dường lớn lao nhất khiến chúng sanh an lạc!
Tôi có tin này muốn báo với mọi người. Hôm nay là ngày Chủ nhật, vào Chủ nhật tuần sau, chúng ta sẽ có một đạo tràng lớn, có thể chứa được 400 người. Đạo tràng lớn như thế có rồi, nhưng đồng tiền lớn vẫn chưa có; quý vị có tín tâm thì đem đến, bằng như không tin mà đưa đến, tôi sẽ không cần, không cần quý vị đem đến! Tôi nói rõ rồi! Vì tôi là một người xuất gia “không ăn cơm thí do thương hại” (bất thực ta lai).
Thế nào là “không ăn cơm bố thí do thương hại”? Khi bố thí cho người ăn xin, nếu quý vị bảo: “Này! Cầm lấy ăn đi!”, nếu có chí khí thì người ăn xin này sẽ không nhận thức ăn đó, mà sẽ bỏ đi ngay. Người xuất gia như tôi cũng “không xin của bố thí do thương hại” (bất hóa ta lai). Nếu người nào cho rằng đem tiền đến để được thể diện thì tôi không cần loại tiền ấy; có đem tiền đến hay không cũng vậy thôi. Nếu bảo: “vậy thì tôi không đem tiền đến!”, không đem đến càng hay! Không nên miễn cưỡng. Nếu quý vị miễn cưỡng đem tiền đến, tôi cũng không cần. Như khi tôi ở Hương Cảng, ông Trương Cẩm Ký đem đến hai trăm đồng, tôi liền quăng ra ngoài cửa, không cần đến! Ông ta đành nhặt lại tiền rồi cầm đi.
Tính tình của tôi như thế, tôi đã nói với quý vị rồi! Quý vị chớ bảo vì đem đến trễ nên tôi không cần. Phàm là khi quý vị đem đến, có bao nhiêu đem bấy nhiêu, đem tất cả số tiền có được đến cho tôi, đó gọi là “quyên số tiền lớn” (hóa đại tiền). Còn đối với cái không thể xả mà lại xả được, đấy chính là “số tiền lớn” (đại tiền); chỉ một đồng cũng không thể xả, mà nay lại xả ra, đấy chính là “số tiền lớn”. Mọi người hiểu cả rồi chứ?
[1] Đây là công phu: “Mắt nhìn hình sắc, trong chẳng có; Tai vẳng chuyện đời, tâm chẳng hay!” (Nhãn quán hình sắc, nội vô hữu; Nhĩ thính trần sự, tâm bất tri). “Nhãn quán hình sắc, nội vô hữu; Nhĩ thính trần sự, tâm bất tri”, là một định lực, huệ lực, chứ không phải “không biết, không thấy” là không hiểu, không biết gì cả.
[2] Oán hiềm: oán ghét và hiềm khích.
[3] 一切種智 Phạn: Sarvatha-jnana. Cũng gọi Phật trí. Trí huệ này chỉ có đức Phật chứng được. Tức là dùng 1 loại trí tuệ mà biết được nhân chủng của tất cả pháp và tất cả chúng sinh, đồng thời cũng là trí rõ suốt tướng vắng lặng và hành loại của các pháp.
Luận Đại thừa khởi tín (Đại 32, 581 trung) nói: “Chư Phật Như Lai xa lìa tướng thấy, có đại trí dụng, tự thể chiếu rọi tất cả vọng pháp, có vô lượng phương tiện, tùy theo căn cơ của chúng sinh, đều có thể chỉ bày các pháp nghĩa, vì thế gọi là Nhất thiết chủng trí”.
Luận Đại trí độ quyển 27 (Đại 25, 259 thượng) nói: “Phật biết rõ hết cả tổng tướng và biệt tướng của các pháp thiền định, trí tuệ, nên gọi là Nhất thiết chủng trí (…) Nhất thiết trí là trí của Thanh văn, Duyên giác. Đạo trí là trí của Bồ-tát, còn Nhất thiết chủng trí là trí của Phật”. (Phật Quang Đại Từ Điển)
I3. NÓI RÕ THẾ NÀO LÀ HẠNH KHẨU AN LẠC ĐÃ THÀNH TỰU
Sau khi Ta diệt độ
Nếu có vị Tỳ-kheo
Có thể diễn nói được
Kinh Diệu Pháp Hoa này
Không có lòng ganh hờn
Không các não chướng ngại
Cũng lại không ưu sầu
Và cũng không mắng nhiếc
Không có tâm sợ sệt
Những dao gậy đánh đập
Cũng không xua đuổi đi
Vì an trụ nhẫn vậy.
Người trí khéo tu tập
Tâm mình được dường ấy
Có thể trụ an lạc
Như Ta nói ở trên.
Công đức của người đó
Trong nghìn muôn ức kiếp
Tính kể hay thí dụ
Nói chẳng thể hết được.
Ngã diệt độ hậu
Nhược hữu Tỳ-kheo
Năng diễn thuyết tư
Diệu Pháp Hoa Kinh
Tâm vô tật nhuế
Chư não chướng ngại
Diệc vô ưu sầu
Cập mạ lỵ giả
Hựu vô bố úy
Gia đao trượng đẳng
Diệc vô tẩn xuất
An trụ nhẫn cố
Trí giả như thị
Thiện tu kỳ tâm
Năng trụ an lạc
Như ngã thượng thuyết
Kỳ nhân công đức
Thiên vạn ức kiếp
Toán số thí dụ
Thuyết bất năng tận.
“Sau khi Ta diệt độ”: tức sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập Niết-bàn. Khi Đức Phật còn tại thế là thời kỳ Chánh pháp, sau khi Ngài diệt độ, có thời kỳ Tượng pháp, thời kỳ Mạt pháp. Hôm nay, vị cư sĩ từ Hương Cảng đến, nói câu “Sau khi Phật diệt độ”, quý vị nghe không hiểu, nên không biết là ý gì.
Đối với câu này, phát âm giữa Quảng Đông và Bắc Kinh vốn không khác nhau mấy, quý vị đều bảo nghe không hiểu; do đó, vị cư sĩ ấy cho rằng quý vị chẳng hiểu Phật pháp gì cả – Chân đế cũng không hiểu, Tục đế cũng không hiểu, Trung đế cũng không hiểu. Tôi thấy ông ta sanh lòng kiêu mạn, cho rằng mấy người xuất gia quý vị học Phật pháp đã lâu như vậy rồi mà ngay cả điều nhỏ nhặt “Trung đế, Tục đế, Chân đế” cũng không hiểu! Đây là những pháp đơn giản nhất. Cuối cùng, tôi phải phân trần giúp quý vị. Tôi bảo: “Không phải là họ không hiểu. Những đạo lý này, họ không những hiểu mà còn hiểu rất sâu! Thật đấy!”. Tôi nói: “đạo lý Kinh Lăng Nghiêm mà họ còn hiểu tường tận, huống chi luận này ư! Luận vốn rất dễ hiểu. Luận chính là biện luận với nhau mà! Biện luận như thế, đừng nói là người đã học qua Phật pháp mà ngay cả người chưa từng học qua Phật pháp cũng đều hiểu, đều biết tranh luận”.
Tôi lại nói: “Sở dĩ họ nói “không hiểu”, thứ nhất là họ khách sáo đối với ông. Nếu nói hiểu, cần gì ông giảng nữa chứ? Đây là ý thứ nhất. Thứ hai, không phải là họ không hiểu đạo lý này, mà là họ không hiểu tiếng Quảng Đông. Ý thứ ba, mặc dù họ hiểu, cũng phải nói “không hiểu”, vì sao à? Vì nếu như họ nói “hiểu rồi”, e rằng ông sẽ không giảng nữa!” Nghe tôi bảo thế, ông ta liền “Ồ!” lên một tiếng.
Tôi bảo: “Ông chớ xem thường họ, họ đều rất thông minh, thông minh gấp trăm lần kẻ làm sư phụ như tôi đây. Nhưng vì sao họ lại thành tâm đến học như vậy? Bởi vì họ cho rằng học với một người ngu si thì có thể học được một chút ngu si!”. Vừa nghe xong lý lẽ này, lòng kiêu mạn của ông ta lập tức bị dập tắt.
Sau này, quý vị chớ có khách sáo, cứ vận dụng trí tuệ của mình, nếu ông ta nói sai thì cứ thảo luận với ông ta. Quý vị nói: “Tôi lại có một kiến giải khác!”. Quý vị phải nên nghĩ đến kiểu lý luận mà ông ta không ngờ được, để biện luận với ông ta, để thử xem trí tuệ của ông ta thế nào? Tôi biết vị cư sĩ này không có định lực, chỉ mượn gió bẻ măngthôi. Ông ta chỉ nói được ngoài miệng, còn về công phu tu hành thật sự thì chẳng có chút nào cả; quý vị mắng ông ta một câu, ông ta sẽ khóc ngay. Vì sao lại khóc? Chính là vì không có định lực! Nếu có định lực, quý vị càng mắng, tôi càng cảm thấy dường như chẳng có việc gì cả. Đúng không nào? Nếu vị nào chọc tức ông ta một cái, ông ta cũng sẽ khóc ngay.
Học Phật pháp, sao gọi là “hiểu được Phật pháp”? Chính là “không khóc, cũng không cười”. Không nên nghe ông ta nói mấy câu tức cười thì quý vị liền bật cười. Quý vị cười như vậy, ông ta sẽ cho là trước giờ quý vị chưa từng được nghe Phật pháp, nên bây giờ mới thích thú như thế; đây là lý do thứ nhất. Lý do thứ hai, ông ta nói: “Ồ! Chắc là quý vị cười tôi, đúng không? Có phải tôi đã nói sai không?”, và ông ta không dám giảng nữa. Vì vậy, bất luận nghe người nào giảng, nếu là người có định lực, việc đáng cười cũng không cười, việc đáng khóc cũng không khóc; không nên nghe người khác giảng rồi khóc hoặc cười theo, như thế là không đúng. Sao gọi “khóc cười đều sai” (đề tiếu giai phi)? Quý vị khóc cũng không đúng, vui cười cũng không đúng. Vì vậy, quý vị hãy cẩn thận một chút! Chớ cho rằng cười là chuyện tốt; cười, có thể cười ra phiền phức đấy! Nghe giảng phải như vậy.
Chúng ta không nên nói nhiều chuyện ngoài lề như thế, giờ nên quay lại giảng trong kinh.
Bây giờ tôi đọc “sau khi Ta diệt độ”, nhất định quý vị sẽ hiểu. Quý vị xem, Ông ta nói: “sau khi Phật diệt độ”, tôi không biết tiếng Quảng Đông phát âm câu này thế nào? Quý vị lại càng không hiểu hơn!
“Nếu có vị Tỳ-kheo”: giả sử có Tỳ-kheo, cũng chính là người xuất gia hành pháp Bồ-tát, tu đạo Bồ-tát.
“Có thể diễn nói được”: có thể (năng), tức khả năng có thể làm được. Ví dụ như quý vị có thể phiên dịch mà không làm việc phiên dịch, đó chính là “có khả năng cũng như không”; nếu quý vị vốn không thể phiên dịch mà nhất định muốn thử làm, đó chính là “không có khả năng cũng có thể làm”. Quý vị xem! Nếu như cứ để quý vị chờ đợi, không bảo quý vị phiên dịch, đến bây giờ e rằng vẫn không thể làm được; buộc quý vị nhất định phải làm, vì vậy mới thành công, đây gọi là “có thể”. “Có thể diễn nói được”, tức có khả năng diễn thuyết kinh này. Rốt cuộc có thể thuyết không? Quý vị có thể giảng, chính là “năng thuyết”; quý vị có thể giảng mà không giảng, chính là “bất năng thuyết”, chẳng có gì lạ cả!
Tôi vốn cũng không có khả năng giảng, nhưng thấy không có người giảng thì liền thử thử; vừa thử qua, quả nhiên thành công, người Tây phương đến nghe rất đông! Thế là mỗi ngày tôi giảng ngày một lớn tiếng hơn, không còn sợ người đến nghe nữa. Trước kia, tôi giảng kinh tiếng lí nhí, vì sao à? Vì sợ người khác nghe thấy tôi giảng không đúng! Lỡ như có người đến bắt bẻ, phải làm thế nào đây? Lỡ họ tranh luận với tôi một chập, phải làm sao đây? Bây giờ tôi đã giảng được một thời gian khá lâu, nên không còn e sợ nữa, đây gọi là “không có khả năng cũng có thể làm được” – cũng có thể giảng kinh.
Quý vị nghe thấy chưa? Quý vị chớ cho là tôi biết giảng kinh. Đến cả nghe kinh tôi cũng không biết, vốn dĩ tôi không có tai, cũng không có mắt; chẳng những không có tai, không có mắt mà ngay cả mũi cũng tiêu luôn rồi. Nếu hỏi: “Không có tai, không có mắt, không có mũi? Thế có miệng không?” Miệng không thể mất, bằng không sẽ chẳng thể ăn được; tôi vẫn còn ăn được, nên biết miệng vẫn chưa mất, vì vậy vẫn có thể giảng kinh.
Quý vị xem có kỳ diệu không? Tai, mắt, mũi đều mất tiêu, nhưng cái miệng lại không mất; quý vị đã từng gặp qua một người như vậy chưa? Thực trạng hiện giờ chính là như vậy. “Có mắt không thấy Lô-xá-na, có tai không nghe giáo Viên đốn”; quý vị nói xem, nếu không phải đã mất, có mắt sao không thấy Đức Lô-xá-na? Có tai sao không nghe giáo pháp Viên đốn? Chư Phật có thất Hương Quang, thất “Hương Quang” này, bất luận quý vị ở gần hay xa cũng đều có thể ngửi được làn hương ấy; quý vị đã ngửi lâu như vậy rồi mà còn không cảm nhận được, quý vị bảo xem, đấy không phải là đã mất toi thì là cái gì? Không phải tôi đang nói chuyện tiếu mà thật sự là như thế đấy! (nơi Phật ở được gọi là “Hương thất”).
“Kinh Diệu Pháp Hoa này”: có thể nghe “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, có thể giảng nói “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, đây chính là pháp vi diệu không thể nghĩ bàn vậy!
Mọi người cũng nên quẳng tâm đi, nhưng tâm này không dễ quăng bỏ; vì sao vậy? Vì vừa mất, quý vị liền muốn tìm lại. Quý vị học Phật pháp, liền muốn tìm tâm của mình; người không học Phật pháp thì mặc tình cho nó mất mà chẳng hề tìm kiếm! “Không có lòng ganh hờn, không các não chướng ngại”: trong lòng không ganh tị, tức giận. Nếu quý vị có tâm ganh tị, tức có phiền não; có tức giận, lại càng phiền não hơn. Vì vậy, không ganh tị, không tức giận, tức không có các thứ phiền não chướng ngại.
“Cũng lại không ưu sầu, và cũng không mắng nhiếc”: không có phiền não, cũng không có chướng ngại. Chẳng những tự mình không có chướng ngại, mà đối với người khác cũng không có chướng ngại; không chỉ đối với người khác không có chướng ngại, mà khi người kia đối với mình có chướng ngại, nếu trong tâm chúng ta không có chướng ngại, thì chướng ngại ấy cũng không thể làm gì chúng ta được. Cũng như quý vị không có đồ vật dơ bẩn thì ruồi nhặng sẽ không bu đến; chỉ khi quý vị có những vật dơ bẩn, những vật không sạch sẽ thì ruồi nhặng mới tìm đến đấy thôi! Bên trong quý vị đã không có chướng ngại thì chướng ngại bên ngoài cũng không làm gì quý vị được, vì vậy cũng sẽ không có ưu sầu.
Cũng không có ai mắng nhiếc quý vị, quý vị cũng không mắng nhiếc người khác. Vì sao không bị người khác mắng? Vì quý vị không mắng họ. Vì sao bị người khác mắng? Bởi vì quý vị mắng họ. Tại sao tôi bị nhiều người mắng đến thế? Lại còn nói xấu tôi thế này, thế nọ nữa. Đó là vì tôi thích mắng người khác; tôi thích mắng người thì đương nhiên họ sẽ mắng lại tôi thôi! Vì vậy, nếu không muốn người khác mắng mình, trước tiên mình không nên mắng họ, đây là quy luật khách quan thật tế nhất; nếu quý vị không hiểu được quy luật khách quan này, chỉ lo tìm kiếm lý do bên ngoài: “Tại sao anh mắng tôi? Tại sao anh ấy không mắng anh?”
“Không có tâm sợ sệt, những dao gậy đánh đập”: cũng không khiếp sợ, cái gì cũng không sợ, chỗ gọi là
Dẫu gặp gươm đao, thường nhẹ hững
Ví nhằm thuốc độc, vẫn bình tâm.
(Túng ngộ phong đao thường thản thản
Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn)
Gặp người cầm thanh bảo kiếm đến muốn chém đầu ta, được thôi, chẳng hề gì! Giống như Nhị Tổ Thần Quang, Ngài đã bảo: “Ông chém đi! Chém đi!”. Thế là tên đao phủ chỉ trong một nhát, đã khiến đầu Ngài lìa khỏi cổ. Sau khi bị chém, Ngài không khóc, cũng không cười, từ trong cổ tuôn ra dòng sữa trắng. Dao, chính là dùng dao để chặt đầu. Khi ấy, nhà vua mới biết đã giết nhầm người, liền cho xây tháp miếu để phụng thờ Ngài. Nhưng đây chỉ mới là “mã hậu khách”, không phải “mã tiền khách”, Gia Cát Lượng mới chính là mã tiền khách.
Một lần nọ, Gia Cát Lượng đang ruổi ngựa, chợt một thám tử chặn trước đầu ngựa ngăn: “Xin Quân sư hãy dừng bước! Nếu tiến lên lúc này, chúng ta sẽ bị binh lính nước Ngụy giết chết!”. Gia Cát Lượng thản nhiên đáp: “Đừng ngại, không việc gì đâu! Bọn họ đã rút lui rồi!”. Khi thám tử tiến về phía trước thám thính lại, quả nhiên đội quân của Tào Tháo đã quay về, đây gọi là “mã tiền khách”. Nếu quý vị bảo: “Chờ một lát! Để tôi cho tra xét lại, xem thử thế nào?”, mấy ngày sau, thám tử trở về báo: “Quân của Tào Tháo đã rút rồi!”, lúc này quý vị mới nói: “Tôi sớm biết trước ông ta sẽ rút quân mà!”, như thế thì không được xem là đã đoán ra, đấy chính là mã hậu khách. Phải đoán biết trước mới được kể là “mã tiền khách”, còn về sau mới biết, chờ người khác báo cáo lại, quý vị mới bảo: “Ồ! Tôi sớm biết trước việc này rồi”, thì đó chỉ là mã hậu khách. Cũng giống như tôi vậy, việc gì tôi cũng đều biết, nhưng là mã hậu khách, không biết mã tiền khách. Mã hậu khách cũng rất diệu đấy!
Mã tiền khách cũng có thể biến thành mã hậu khách, mã hậu khách cũng có thể biến thành mã tiền khách. Trước kia tôi cũng đã từng giảng, Viên Thiên Cang và Lý Thuần Phong (cả hai đều là nhà tiên tri lỗi lạc dưới thời Đường Thái Tông) có khả năng đoán biết trước những việc chưa xảy ra. Một lần, có người nắm một con chim trong tay, mang đến đố họ: “Các ông đoán thử xem, con chim này sống hay chết?” Nếu họ bảo con chim sống, người kia sẽ bóp mạnh, khiến nó chết; còn nếu họ đoán là con chim chết, anh ta sẽ xòe bàn tay cho chim bay đi. Quý vị nói xem, phải đoán thế nào đây? Quý vị nói đến nước này, thì dùng cách mã tiền khách hay mã hậu khách đây? Dù là mã tiền khách hay mã hậu khách cũng đều không nên dùng, chớ có đoán! Giảng cả buổi trời, rốt cục mã tiền khách cũng không nên học, mã hậu khách cũng không nên học.
“Cũng không bị xua đuổi”: không bị người khác tẩn xuất. Tẩn xuất, ví dụ mọi người cùng ở một chỗ với nhau, trong lúc chung đụng, quý vị khiến cho họ bực mình, thế là đuổi quý vị đi. Hoặc là mọi người cùng ở chung, tôi và quý vị không thuận thảo với nhau; quý vị trông thấy tôi, liền sa sầm nét mặt lại; tôi thấy quý vị, mặt không sa sầm thì cũng đỏ phừng phừng. Cứ như thế, trong tâm mọi người có sự bực bội. Trong lòng bực bội, sẽ phát ra những lời cáu gắt, sau đó sẽ không ở chung với nhau nữa! Bảo rằng: “Anh sân si như thế, không thể ở chung với chúng tôi được, hãy mau xéo đi!”, rồi dời quý vị đến chỗ khác, đây gọi là “tẩn xuất”.
Thế tại sao không bị tẩn xuất? chính vì nhẫn nại, cũng không gây chướng ngại cho người khác; người khác gây chướng ngại cho mình, mình cũng không để ý đến. Ví như họ mắng mình, mình tự nhủ: “mắng ai thế? Không phải mắng mình đâu?”. Nếu họ réo thẳng tên quý vị ra mà mắng, bảo: “Này Quả Minh! Mi là đồ tồi!”. “Ồ! Tôi là “Minh”, minh thì không phải “bất minh”, chẳng hề chi!” đây mới là thật sự minh. Nếu họ bảo “Quả Bất Minh!”; “Ồ! Ai gọi “Quả Bất Minh”? Tôi không phải là “Quả Bất Minh”, vậy không phải là tôi rồi!”, được như thế thì sẽ không có chuyện gì xảy ra.
Quý vị biết nhẫn, bất luận là “Quả Minh hay Quả Bất Minh”, quý vị đều không để ý đến, hãy quên cái “Minh” đó đi, biến nó thành không. Quý vị không phải “Minh”, cũng không có người tên Minh; đã không có người thì lấy ai để nổi nóng”? Do vì vị ấy có thể nhẫn, có thể nhường nhịn, mới không bị tẩn xuất. “Vì an trụ nhẫn vậy”: do vì vị ấy đã an trụ trong “nhẫn”.
“Người trí được như vậy”: đây mới thực sự là người có trí huệ vậy! Quý vị là người có đại trí, đại huệ, cớ sao chỉ vì một chuyện cỏn con mà lại nổi nóng cơ chứ? Không nên nổi nóng. Nếu có nổi nóng, cũng không hẳn là thật, hoặc chỉ là giả vờ; giả sử nổi nóng, vẫn chẳng phải nổi nóng thật, quý vị cần phải phân biệt rõ ràng. “Khéo tu tập tâm mình, có thể trụ an lạc, như Ta nói ở trên”: đây gọi là khéo tu tâm của mình, thì có thể trụ nơi hạnh môn “an lạc”, như đạo lý Ta đã nói ở phần trên.
Nếu có thể tu tập pháp Bồ-tát, hành đạo Bồ-tát như Ta đã nói ở trên, thì: “công đức của người đó, trong ngàn muôn ức kiếp, tính kể hay thí dụ, nói chẳng thể hết được”: công đức của người này, trong trăm ngàn vạn ức kiếp, dù dùng toán học để tính, dùng thí dụ để so sánh, cũng không cách gì nói cho hết được. Loại công đức này rất lớn, vô lượng vô biên, không cùng không tận, ngay cả Đức Phật có dùng các kiểu thí dụ, cũng không cách gì nói cho hết được.
G3. Hạnh Ý An Lạc (phân 2 phần)
H1. Trường Hàng (phân 3 phần)
I1. Giải Thích Hạnh “Chỉ”
I2. Giải Thích Hạnh “Quán”
I3. Giải Thích Rõ Thế Nào Là Hạnh Ý An Lạc Đã Thành Tựu
H2. Trùng Tụng
I1. GIẢI THÍCH HẠNH “CHỈ”
Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát Ma-ha-tát ở đời sau, lúc pháp sắp diệt, người thọ trì, đọc tụng kinh điển này, không có tâm ganh ghét, dua dối,cũng chớ khinh mắng người học Phật, vạch tìm chỗ hay dở của họ. Nếu hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, người cầu Thanh văn, người cầu Bích-chi-phật, người cầu Bồ-tát đạo, không được phiền nhiễu khiến họ sanh lòng nghi hối, nói với họ rằng: “Các người cách đạo rất xa, trọn không thể được Nhất thiết chủng trí. Vì sao? Vì các người là kẻ phóng dật, biếng nhác đối với đạo”. Lại cũng không nên hý luận các pháp, có sự tranh cãi.
Hựu Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát Ma-ha-tát, ư hậu mạt thế, pháp dục diệt thời, thọ trì độc tụng tư kinh điển giả, vô hoài tật đố siểm cuống chi tâm, diệc vật khinh mạ học Phật đạo giả, cầu kỳ trường đoản. Nhược Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cầu Thanh văn giả, cầu Bích-chi-phật giả, cầu bồ-tát đạo giả, vô đắc não chi, linh kỳ nghi hối, ngữ kỳ nhân ngôn: nhữ đẳng khứ đạo thậm viễn, chung bất năng đắc nhất thiết chủng trí. Sở dĩ giả hà? Nhữ thị phóng dật chi nhân, ư đạo giãi đãi cố. Hựu diệc bất ưng hý luận chư pháp, hữu sở tranh cạnh.
“Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi!”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại gọi một tiếng.
“Văn-thù-sư-lợi”! “Bồ-tát Ma-ha-tát ở đời sau, lúc pháp sắp diệt”: Đại Bồ-tát ông! Bồ-tát này, không phải chỉ có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mà là chỉ chung cho các Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo. Trong thời Mạt pháp sau này, sau khi Ta nhập Niết-bàn, lúc Chánh pháp sắp sửa đoạn diệt. Đó là lúc nào? Chính là lúc tuổi thọ con người giảm xuống còn hai mươi tuổi, mười lăm tuổi, thậm chí giảm đến khi tuổi thọ con người chỉ còn lại mười tuổi; bình quân con người chỉ sống đến mười tuổi thì chết, đến lúc ấy, Phật pháp cũng sẽ diệt vong, không còn tồn tại trên thế gian này nữa.
“Người thọ trì, đọc tụng kinh điển này, không có tâm ganh ghét, dua dối”: người có thể thọ trì, đọc tụng bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, trong lòng vị ấy không có các thứ tâm ganh ghét (đố kỵ), nịnh hót (siểm mị), dối trá (khi cuống). Siểm mị, tức thấy người có tiền liền vui vẻ lân la đến gần; thấy người không tiền liền khởi tâm kiêu ngạo, tỏ vẻ khó chịu. Cuống, tức nói dối. Không những chẳng nên có những hành vi này, mà ngay cả những tâm ganh ghét, nịnh hót, dối trá cũng không nên có.
“Cũng chớ khinh mắng người học Phật, vạch tìm chỗ hay dở của họ”: cũng không nên mắng nhiếc người tu học Phật pháp một cách tùy tiện, bảo họ: “Anh ta học Phật pháp, thế mà đi làm những việc chẳng ra gì! Anh ta phạm lỗi thế này… thế này…” ; hoặc nói: “Anh ta rất tốt, thấy Phật liền lạy, đây là ưu điểm của anh ấy; nhưng vừa lạy Phật xong, anh ta liền đánh mẹ, mắng cha, người như thế thật chẳng ra gì!”, chính là nói chỗ hay dở của người tu Phật, chỉ vạch chỗ đúng sai của người khác.
“Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di”: hoặc là có các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, hoặc là Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di v.v…, hoặc “Người cầu Thanh văn, người cầu Bích-chi-phật, người cầu Bồ-tát đạo”: người cầu đạo Thanh văn, chính là người tu “pháp Tứ đế” (khổ, tập, diệt, đạo); người cầu Bích-chi-phật chính là người tu “pháp Thập nhị nhân duyên”; người cầu Bồ-tát đạo, chính là người tu “Lục độ vạn hạnh”, là pháp tu của hàng Bồ-tát. Phàm là người người nam, người nữ xuất gia; người nam, người nữ tại gia; và những người cầu pháp Thanh văn, pháp Bích-chi-phật, cầu đạo Bồ-tát thì “không được phiền nhiễu khiến họ sanh lòng nghi hối”: chớ đắc tội với họ, chớ làm cho họ buồn phiền. Nếu buồn phiền, họ sẽ khởi tâm nghi hối; khi đã khởi tâm nghi hối thì không thể tinh tấn, không thể tu hành được.
“Nói với họ rằng”: giả như nói với những người ấy rằng “Các người cách đạo rất xa, trọn không thể được Nhất thiết chủng trí”: mấy người các vị tu hành cái gì? Quý vị còn cách đạo rất xa! Quý vị không thể thành công! Cứ theo đà này, rốt cuộc quý vị cũng sẽ chẳng đạt được Nhất thiết chủng trí chân chánh của chư Phật. Nhất thiết trí là “Tục đế”, Chủng trí là “Chân đế”. Nhất thiết chủng trí là phi tục phi chân, đây là “Trung đế”; Trung đế là trí huệ của Phật.
“Vì sao”: Nguyên nhân nào quý vị không thể đạt được Nhất thiết chủng trí? “Vì các người là kẻ phóng dật, biếng nhác đối với đạo”: vì quý vị là người quá phóng dật. Phóng, là phóng đãng; dật, là an dật. Vừa phóng đãng, lại an dật, tức là vừa không thích làm việc, lại thích nghỉ ngơi; đây là người phóng dật, cũng không giữ phép tắc. Bởi vì quý vị biếng nhác đối với đạo, nên quý vị sẽ không thành Phật, sẽ không đạt được Nhất thiết chủng trí.
Không nên khởi tâm xem thường họ mà thốt ra những lời như thế, “Lại cũng không nên hý luận các pháp, có sự tranh cãi”: đồng thời, cũng không nên đem các pháp của Phật ra đùa cợt, giảng nói, bàn luận một cách tùy tiện; ví như hát tuồng, đem Phật pháp ra mà nói đùa, tùy ý đàm luận. Hý luận là giảng không chân thật. Tức có sự tranh luận hơn thua, rõ ràng là hợp Phật pháp, người kia nói không hợp Phật pháp; rõ ràng là đúng, người kia lại bảo không đúng, đây gọi là “tranh cãi”, cố ý giảo biện. Giảo là giảo hoạt, biện là biện luận, không tuân giữ phép tắc. Quý vị không nên làm cho người khác phiền não, không nên nói: “các vị rất lười biếng, các vị không thể thành Phật!”, không nên nói như thế.
I2. GIẢI THÍCH HẠNH “QUÁN”
Nên đối với tất cả chúng sanh, khởi tưởng đại bi; đối với các Đức Như Lai, khởi tưởng như cha lành; đối với Bồ-tát, khởi tưởng như bậc Đại sư; đối với các Đại Bồ-tát ở mười phương, thường phải một lòng cung kính lễ bái. Bình đẳng nói pháp cho tất cả chúng sanh, vì thuận theo pháp, không nói nhiều cũng chẳng nói ít, nhẫn đến người rất ưa thích pháp, cũng chẳng nói nhiều với họ.
Đương ư nhất thiết chúng sanh, khởi đại bi tưởng; ư chư Như Lai, khởi từ phụ tưởng; ư chư Bồ-tát, khởi đại sư tưởng; ư thập phương chư Đại Bồ Tát, thường ưng thâm tâm cung kính lễ bái. Ư nhất thiết chúng sanh, bình đẳng thuyết pháp, dĩ thuận pháp cố, bất đa bất thiểu, nãi chí thâm ái pháp giả, diệc bất vị đa thuyết.
Quý vị phải có thái độ thế nào? “Nên đối với tất cả chúng sanh, khởi tưởng đại bi”: nên khởi tưởng lòng đại bi đối với tất cả chúng sanh; thấy chúng sanh quá khổ, ta nên nhổ trừ cái khổ cho họ. “Đối với các Đức Như Lai, khởi tưởng như cha lành”: đối với tất cả chư Phật, nên nghĩ rằng: tất cả các Đức Như Lai là người cha đại từ bi của chúng ta. Phải nghĩ như thế! “Đối với Bồ-tát, khởi tưởng như bậc Đại sư”: đối với tất cả các vị Bồ-tát, chúng ta nên nghĩ rằng: À! Đây là sư phụ dạy pháp tu hành cho chúng ta, đây là lương sư thiện đạo dạy dỗ chúng ta, có thể dùng nhiều phương pháp dẫn dắt chúng ta trên con đường tu tập. “Đối với các Đại Bồ-tát ở mười phương, thường phải một lòng cung kính lễ bái”: nên thật thành tâm đối với các vị Đại Bồ-tát khắp mười phương, cần phải lễ bái một cách cung kính đối với các vị Đại Bồ-tát trong mười phương, phải luôn giữ tâm như thế.
“Bình đẳng nói pháp cho tất cả chúng sanh”: đối với tất cả chúng sanh, nên bình đẳng từ bi mà thuyết pháp; phải bình đẳng, không có tâm chọn lựa. “Vì thuận theo pháp, không nói nhiều cũng chẳng nói ít”: vì tùy thuận nhân duyên của pháp này, không nói pháp cho chúng sanh này nhiều hơn một chút, cũng không nói pháp cho chúng sanh kia ít hơn một chút. Không chọn lựa đối tượng để nói pháp, cho rằng người này rất cung kính mình, liền nói pháp cho họ nhiều hơn một chút; người kia không cung kính mình, bèn nói pháp cho họ ít hơn một chút. Không nên như thế! Cung kính hay không cung kính, tin hay không tin, đều nên thuyết pháp cho họ giống như nhau, không thêm, cũng không bớt. “Nhẫn đến người rất ưa thích pháp, cũng chẳng nói nhiều với họ”: thậm chí người đến nghe pháp, cầu pháp rất yêu thích pháp này; ngay cả người như vậy, cũng không nói pháp cho họ nhiều hơn một chút.
I3. GIẢI THÍCH RÕ THẾ NÀO HẠNH Ý AN LẠC ĐÃ THÀNH TỰU
Văn-thù-sư-lợi! Vị Bồ-tát Ma-ha-tát này, trong đời Mạt pháp về sau, lúc pháp sắp diệt, có người thành tựu hạnh an lạc thứ ba đây. Khi nói pháp này, không ai có thể não loạn; được bạn đồng học tốt, cùng đọc tụng kinh này, cũng được đại chúng đến nghe thọ, nghe rồi có thể thọ trì, thọ trì rồi có thể tụng, tụng rồi có thể thuyết, thuyết rồi có thể chép, hoặc bảo người chép, cúng dường quyển kinh, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.
Văn-thù-sư-lợi! Thị Bồ-tát Ma-ha-tát, ư hậu Mạt thế, pháp dục diệt thời, hữu thành tựu thị đệ tam an lạc hạnh giả. Thuyết thị pháp thời, vô năng não loạn, đắc hảo đồng học, cộng độc tụng thị kinh, diệc đắc đại chúng nhi lai thính thọ, thính dĩ năng trì, trì dĩ năng tụng, tụng dĩ năng thuyết, thuyết dĩ năng thư, nhược sử nhân thư, cúng dường kinh quyển, cung kính tôn trọng tán thán.
“Văn-thù-sư-lợi”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni gọi một tiếng “Văn-thù-sư-lợi”! Ông nên biết! “Vị Bồ-tát Ma-ha-tát này, trong đời Mạt pháp về sau, lúc pháp sắp diệt”: Vị Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo, ở tương lai lúc pháp sắp diệt, “có người thành tựu hạnh an lạc thứ ba đây”: có vị Bồ-tát có thể thành tựu “hạnh ý an lạc” thứ ba này.
“Khi nói pháp này, không ai có thể não loạn”: đang lúc giảng bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, không người nào có thể não loạn quý vị được. Vì sao? Vì quý vị giảng “Kinh Pháp Hoa”, tất cả các vị hộ pháp trong hàng trời, rồng… tám bộ chúng[1] đều sẽ ủng hộ quý vị; vả lại, bởi vì xưa kia quý vị không gieo nhân não loạn chúng sanh khác, nên hiện đời cũng sẽ không bị chúng sanh não loạn quý vị.
“Được bạn đồng học tốt, cùng đọc tụng kinh này”: đến với quý vị, đều là những người rất tốt, cùng nhau tu hành, mọi người cùng đọc tụng bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này. Hiện tại chúng ta đều nghiên cứu “Kinh Pháp Hoa”, đây có thể nói là “được bạn đồng học tốt”, quý vị không nên cáu kỉnh với nhau! Nên làm bạn đồng học tốt của nhau! Mọi người đều phải cung kính lẫn nhau! “Cũng được đại chúng đến nghe thọ”: không những mọi người cùng nhau nghiên cứu “Kinh Pháp Hoa”, mà còn được rất nhiều người đến nghe và thọ trì bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.
“Nghe rồi có thể thọ trì”: sau khi nghe “Kinh Pháp Hoa” này rồi, không phải nghe xong là thôi, quý vị cần nên thọ trì bộ “Kinh Pháp Hoa” này. “Thọ trì rồi có thể tụng”: Sau khi thọ trì rồi, quý vị liền có thể tụng niệm. Trì là hằng trì, tức là thường nên học “Kinh Pháp Hoa”; nếu không học, thì không phải hằng trì. Chờ đến khi quý vị thọ trì “Kinh Pháp Hoa” một thời gian dài rồi, thì không cầm đến quyển kinh, mà vẫn có thể tụng được, vẫn có thể nhớ được, chứ không chỉ là có thể đọc thôi. Trì chính là đọc “Kinh Pháp Hoa”; tụng chính là thuộc lòng “Kinh Pháp Hoa”. Để quyển kinh trước mặt, gọi là “trì”, cũng gọi là “đọc”; không cần sử dụng đến quyển kinh, gọi là “tụng”. “Tụng rồi có thể thuyết”: không những có thể thuộc lòng mà còn có thể giảng giải. “Thuyết rồi có thể chép”: không phải chỉ có thể giảng là xong mà còn phải có thể chép bộ kinh này ra.
Đây là năm hạng pháp sư – do tụng niệm, thuộc lòng, thọ trì, biên chép, giảng nói mà làm pháp sư. Tôi có quen pháp sư Như Liên. Chữ viết của ngài rất đẹp. Mỗi ngày ngài đều ngồi xếp bằng như thế này ở trong phòng để chép “Kinh Pháp Hoa”; chép xong rồi, lại đem photocopy, đóng thành một bộ “Kinh Pháp Hoa”. Vị Hòa thượng này trước kia làm quan, về sau xuất gia, chuyên chép “Kinh Pháp Hoa”.
“Hoặc bảo người chép, cúng dường quyển kinh, cung kính, tôn trọng, ngợi khen”: nếu tự mình không thể chép kinh, có thể nhờ người khác chép bộ “Kinh Pháp Hoa” này. Chép xong một bộ, chúng ta đích thân cúi đầu đảnh lễ, lễ bái “Kinh Pháp Hoa” này, cung kính “Kinh Pháp Hoa” này, tôn trọng “Kinh Pháp Hoa” này, tán thán “Kinh Pháp Hoa” này. Bộ “Kinh Pháp Hoa” này, quý vị xem! Chư Phật đều đến đây để chứng minh, Đức Đa Bảo Như Lai cũng đến chứng minh, đây là tối diệu, thật không thể nào nghĩ bàn. Quý vị có tâm cung kính một phần thì sẽ được một phần cảm ứng điều lành; quý vị có tâm cung kính mười phần, thì sẽ được mười phần cảm ứng điều lành. Quý vị gặp được bộ “Kinh Pháp Hoa” này, không nên thờ ơ bỏ qua; cho nên quý vị được nghe “Kinh Pháp Hoa” này là điều bất khả tư nghì!
Ông bà, cha mẹ, thậm chí đến cả tổ phụ, tổ mẫu trước kia của quý vị đều có thể nói là chưa được nghe qua “Kinh Pháp Hoa”, bây giờ những người sanh sau đẻ muộn như quý vị lại được nghe “Kinh Pháp Hoa”, đây gọi là: “siêu Tổ bạt Huyền”, vượt cả đức hạnh tổ tông của quý vị, vì vậy đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Quý vị chớ cho rằng đây là sự việc rất bình thường! Hiện tại quý vị được học Phật pháp, chính là do có căn lành lớn, có đức hạnh lớn mới có thể được nghe kinh, học Phật pháp.
Tôi lại báo cho quý vị một tin tốt về Chánh Điện của chúng ta. Bây giờ mỗi tối đều có rất đông người, Chánh Điện này lại rất nhỏ; người thì rất đông, vì người đông mà ngồi trong Chánh Điện nhỏ nên không còn một chỗ trống. Đây gọi là “tọa vô hư tịch”, tức là không còn một cái ghế trống; với tình hình này, phải tìm một chỗ rộng hơn. Vì thế mỗi tối, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di của Phật Giáo Giảng Đường đều tụng “Chú Đại Bi”; đều nói: “Chánh Điện này mau lớn hơn một chút! Mau chóng rộng hơn một chút, sẽ ngồi thêm được nhiều người một chút!”, tụng chú lâu ngày như thế, trong tuần lễ này, tôi tin rằng Chánh Điện này sẽ rộng ra. Rộng đến cỡ nào? Có thể chứa được bốn, năm trăm người, có thể rộng lớn như thế! Ngồi bốn năm, trăm người, e rằng vẫn còn chỗ trống, quý vị nói xem, có phải là diệu hay không chứ? Chánh Điện nhỏ hẹp này sẽ rộng lớn thêm, quý vị sẽ không ngờ; đợi đến khi nó rộng ra, quý vị sẽ biết, đây đúng là bất khả tư nghì!
Hôm nay tôi báo cho quý vị nghe tin vui này, mọi người trở về nhà, cũng hãy niệm chú giúp, nguyện rằng: “Phật Giáo Giảng Đường mau rộng lớn hơn một chút nhé! Hội Phật Giáo Trung Mỹ cũng sẽ mau phát triển hơn một chút!”. Rộng đến cỡ nào? Càng rộng càng tốt! Bất luận người đông cỡ nào cũng đều có chỗ ngồi. Giống như ngôi Đại Hùng Bảo Điện của chùa Phổ Tế trên núi Phổ Đà, quý vị thấy dường như không lớn lắm, nhưng có một ngàn người vào cũng có thể đứng đủ; thậm chí có mười ngàn người, đại điện này cũng có chỗ; cho dù có một trăm ngàn người, trong đại điện này vẫn có chỗ; vì vậy đây chính là một Bảo Điện bất khả tư nghì.
Thời gian này, quý vị phải niệm chú cho ra một Bảo Điện; Bảo Điện này cũng sẽ có thể lớn, có thể nhỏ. Người đông một chút, nó liền to ra một chút; người ít đi một chút, nó liền nhỏ lại một chút. Quý vị chưa nghe nói đến cảnh giới diệu như thế, đạo tràng tương lai của chúng ta nhất định sẽ như thế, có được công năng này; người đông, nó sẽ to ra, người ít, nó thâu nhỏ lại. Nếu như vị nào không tin, cứ thử chờ xem! Quý vị ở Phật Giáo Giảng Đường hoặc hội Phật Giáo Trung Mỹ trong khoảng ba năm thì sẽ biết giảng đường này: “A! Là như thế!”, người đông nó sẽ rộng ra, người ít nó sẽ hẹp lại; quý vị nên biết, tin tốt tôi báo cho quý vị hôm nay, hoàn toàn là sự thật.
Có người sẽ bảo: “Tôi tuyệt đối không tin có đạo tràng như thế!”, đợi khi quý vị nhìn thấy, người nào không tin cũng phải tin! Khi chưa tận mắt nhìn thấy, tôi bảo quý vị tin, quý vị cũng sẽ không tin. Vì vậy, vấn đề hiện giờ không phải tin hay không tin, đợi sau này, quý vị sẽ rõ thôi! Vào ngày mùng một tháng giêng chúng ta khai giảng lớp hè thứ nhất, tôi đã nói với một người, không biết đó là là tín đồ Phật giáo hay là đệ tử của ma vương, rằng: “Năm nay, Phật giáo nước Mỹ sẽ nở một đóa sen lớn!”. Người ấy nói: “Thật à?”. Tôi bảo: “Sau này ông sẽ thấy!”. Thế mà khi khai giảng lớp hè, ông ta không dám nhìn đóa sen ấy, ông ta sợ. Hoa sen này đã nở, ông ta cũng không thấy.
[1] Tám bộ chúng (bát bộ chúng 八部眾): tám bộ quỉ thần, các vị thần bảo hộ Phật pháp, gồm: trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la và ma-hầu-la-già.
H2. Trùng Tụng (phân 2 phần)
I1. Giải Thích (phân 2 phần)
J1. Hạnh “Chỉ”
J2. Hạnh “Quán”
I2. Hạnh Ý An Lạc Đã Thành Tựu
J1. HẠNH “CHỈ”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này, mà nói kệ rằng:
Nếu muốn thuyết kinh này
Phải bỏ tâm ganh hờn
Mạn, dua, dối tà ngụy
Thường tu hạnh chất trực
Chẳng nên khinh miệt người
Cũng chẳng hý luận pháp
Không khiến người nghi hối
Rằng: “Ông chẳng thành Phật”
Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:
Nhược dục thuyết thị kinh
Đương xả tật nhuế mạn
Siểm cuống tà ngụy tâm
Thường tu chất trực hạnh
Bất khinh miệt ư nhân
Diệc bất hý luận pháp
Bất linh tha nghi hối
Vân nhữ bất đắc Phật
“Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này, mà nói kệ rằng”: ngay khi ấy, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn nói lại nghĩa này một lần nữa, nên dùng kệ để giảng giải.
“Nếu muốn thuyết kinh này”: Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo, khi muốn giảng nói bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, “Phải bỏ tâm ganh hờn, mạn, dua, dối tà ngụy”: phải xả bỏ tâm ganh tỵ, oán giận, và cả tâm cống cao ngã mạn; cũng phải bỏ tâm nịnh hót người giàu sang, cũng không nên nói dối, chớ nên ôm ấp những thứ tâm tà ngụy này. “Thường tu hạnh chất trực”: thường phải tu hạnh lời nói và việc làm ngay thẳng này. Chất trực chính là lời nói và việc làm đều ngay thẳng, đối với bất kỳ người nào cũng không có dạ quanh co. “Chất trực” này tương phản với “quanh co”; chính là chỗ “trực tâm là đạo tràng”, phải dụng tâm chất trực.
“Chẳng nên khinh miệt người, cũng chẳng hý luận pháp”: không xem thường người, không thấy người khác thấp hèn; chẳng những không xem thường người mà cũng không khinh thường pháp. “Không khiến người nghi hối”: không nên khiến người khác khởi tâm hoài nghi đối với Phật đạo. “Rằng: Ông chẳng thành Phật”: không nên nói: “Anh lười biếng như vậy, giải đãi như vậy, thì không thể thành Phật!”, chớ nói như thế, chớ não loạn người khác!
J2. HẠNH “QUÁN”
Phật tử này nói pháp
Thường nhu hòa, hay nhẫn
Từ bi với tất cả
Chẳng sanh lòng biếng lười.
Đại Bồ-tát mười phương
Thương chúng nên hành đạo
Phải sanh lòng cung kính
Đây là Đại sư ta.
Với chư Phật Thế Tôn
Nghĩ đấng Cha Lành vô thượng
Phá trừ lòng kiêu mạn
Nói pháp không chướng ngại.
Thị Phật tử thuyết pháp
Thường nhu hòa năng nhẫn
Từ bi ư nhất thiết
Bất sanh giải đãi tâm
Thập phương Đại Bồ-tát
Mẫn chúng cố hành đạo
Ưng sanh cung kính tâm
Thị tắc ngã Đại sư
Ư chư Phật Thế Tôn
Sanh vô thượng phụ tưởng
Phá ư kiêu mạn tâm
Thuyết pháp vô chướng ngại
“Phật tử này nói pháp, thường nhu hòa, hay nhẫn”: vị Bồ-tát Ma-ha-tát này thuyết pháp, thường rất dịu dàng, hay nhẫn nhục, đây là “mặc áo Như Lai” (trước Như Lai y). “Từ bi với tất cả”: dùng lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh; đây chính là “vào nhà Như Lai” (nhập Như Lai thất). “Chẳng sanh lòng biếng lười”: không khởi tâm khinh mạn, biếng nhác.
“Đại Bồ-tát mười phương, thương chúng nên hành đạo”: Bồ-tát Ma-ha-tát trong mười phương, các Ngài vì sao hành Bồ-tát đạo? Vì thương xót chúng sanh, nên các Ngài tu hành Bồ-tát đạo. “Phải sanh lòng cung kính, đây là Đại sư ta”: chúng ta phải một dạ cung kính đối với Bồ-tát Ma-ha-tát ở mười phương; Phải quán tưởng thế nào? Nên nghĩ: Đây là bậc thầy tốt nhất của mình! “Với chư Phật Thế Tôn, nghĩ đấng Cha Lành vô thượng”: Đối với Đại Bồ-tát, nghĩ tưởng như là bậc Đại sư, đối với chư Phật Thế Tôn, nghĩ tưởng như người cha đại từ bi vô thượng. “Phá trừ lòng kiêu mạn, nói pháp không chướng ngại”: nên phá trừ tâm kiêu ngạo, ngã mạn. Khi nói tất cả pháp, phải không có chỗ chướng ngại.
I2. HẠNH Ý AN LẠC ĐÃ THÀNH TỰU
Pháp thứ ba như thế
Người trí phải giữ gìn
Một lòng an lạc hạnh
Vô lượng chúng cung kính.
Đệ tam pháp như thử
Trí giả ưng thủ hộ
Nhất tâm an lạc hạnh
Vô lượng chúng sở kính.
Phần thứ ba, “hạnh ý an lạc” là như thế. Người có trí, nên y theo phương pháp này mà tu tập, giữ gìn hạnh an lạc này, một lòng tu tập hạnh an lạc này. Vô lượng chúng sanh đều nên cung kính vị Bồ-tát tu hành Bồ-tát đạo y như thế.
G. Thệ Nguyện Hạnh An Lạc (phân 2 phần)
H1. Trường Hàng (phân 2 phần)
I1. Nói Rõ Hành Pháp (phân 2 phần)
J1. Giải Thích Hành Pháp
J2. Giải Thích rõ Thế Nào Là Thệ Nguyện Hạnh An Lạc Đã Thành Tựu
I2. Khen Ngợi Kinh Pháp
H2. Trùng Tụng (phân 2 phần)
J1. GIẢI THÍCH HÀNH PHÁP
Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát Ma-ha-tát ở đời Mạt pháp sau này, lúc pháp sắp diệt, có vị nào trì Kinh Pháp Hoa này, ở trong hàng người tại gia, xuất gia sanh lòng đại từ; ở trong hàng người chẳng phải Bồ-tát, sanh lòng đại bi, nên nghĩ thế này: những người như thế thì bị mất lợi lớn. Đức Như Lai phương tiện, tùy nghi thuyết pháp mà chẳng nghe, chẳng biết, chẳng giác, không hỏi, không tin, không hiểu. Người đó dầu không hỏi, không tin, không hiểu kinh này, khi ta đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, tùy ở chỗ nào, ta đều dùng sức thần thông, sức trí huệ dẫn dắt, khiến họ được trụ trong pháp này.
Hựu Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát Ma-ha-tát, ư hậu Mạt thế, pháp dục diệt thời, hữu trì thị Pháp Hoa Kinh giả, ư tại gia xuất gia nhân trung, sanh đại từ tâm, ư phi Bồ-tát nhân trung, sanh đại bi tâm, ưng tác thị niệm: như thị chi nhân, tắc vị đại thất. Như Lai phương tiện, tùy nghi thuyết pháp, bất văn, bất tri, bất giác, bất vấn, bất tin, bất giải. Kỳ nhân tuy bất vấn, bất tin, bất giải thị kinh, ngã đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề thời, tùy tại hà địa, dĩ thần thông lực, trí huệ lực dẫn chi, linh đắc trụ thị pháp trung.
“Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại gọi Bồ-tát Diệu Cát Tường này một tiếng. Ngài bảo: “Này Diệu Cát Tường”! “Bồ-tát Ma-ha-tát ở đời Mạt pháp sau này, lúc pháp sắp diệt”: Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo, vào đời Mạt pháp sau này, khi pháp sắp sửa đoạn diệt, “có vị nào trì Kinh Pháp Hoa này”: nếu có Bồ-tát nào thọ trì, đọc tụng “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”. “Ở trong hàng người tại gia, xuất gia sanh lòng đại từ”: tại gia, là chỉ cho Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di; xuất gia, chính là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni. Ở trong những hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni và Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di này, nên khởi lòng đại từ. Từ, tức có thể làm cho chúng sanh đều đạt được an lạc. “Ở trong hàng người chẳng phải Bồ-tát, sanh lòng đại bi”: ở trong hàng người không tu hành pháp Phật, thậm chí đối với những kẻ hủy báng pháp Phật, nên khởi lòng đại bi. Bi năng cứu khổ, có thể trừ bỏ khổ của những chúng sanh tạo tội.
“Nên nghĩ thế này: những người như thế thì bị mất lợi lớn”: nên khởi ý nghĩ này. Là ý nghĩ gì? Như hạng người bị mất đi lợi ích rất lớn! Đây là tổn thất rất lớn của họ! Tổn thất lớn điều gì? “Đức Như Lai phương tiện, tùy nghi thuyết pháp”: pháp mà Đức Như Lai thuyết đều là phương tiện tùy nghi; gặp hạng người nào, sẽ giảng pháp gì. Gặp hạng người có căn tánh Đại thừa thì nói pháp Đại thừa; gặp hạng người có căn tánh Tiểu thừa thì nói pháp Tiểu thừa. Chỗ gọi là “Phật dùng một âm diễn nói pháp, chúng sanh tùy loài đều được hiểu” (Phật dĩ nhất âm diễn thuyết pháp, chúng sanh tùy loại các đắc giải). Đức Phật chỉ dùng một loại âm thanh để diễn nói Phật pháp, chúng sanh chủng loại không đồng nhau, nhưng mỗi loại đều hiểu rõ pháp Phật thuyết.
Hiện nay, loại người tạo tội này không nghĩ đến việc học Phật pháp, “chẳng nghe, chẳng biết, chẳng giác, không hỏi, không tin, không hiểu”: chẳng nghe Phật pháp, cũng chẳng biết Phật pháp, tự mình cũng chẳng giác ngộ. Vì sao chẳng nghe, chẳng biết, chẳng giác? Chính vì không thưa hỏi; tự mình không hiểu biết, cũng không hỏi người hiểu biết. Người ấy không có lòng tin, cũng không thật sự muốn hiểu Phật pháp. Vì vậy, hạng người này bị thiệt hại rất lớn.
“Người đó dầu không hỏi, không tin, không hiểu kinh này”: hạng người này, tuy không thưa hỏi diệu lý của “Kinh Pháp Hoa”, không tin diệu lý của “Kinh Pháp Hoa”, cũng không hiểu rõ diệu lý của “Kinh Pháp Hoa” này. “Khi ta đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, tùy ở chỗ nào, ta đều dùng sức thần thông, sức trí huệ dẫn dắt, khiến họ được trụ trong pháp này”: Ta, đây là Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo. Vị ấy phát nguyện: khi ta đạt được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, bất luận ở nơi nào, ta đều dùng năng lực thần thông và năng lực trí huệ của mình để tiếp dẫn hạng người không nghe, không hỏi, không tin kia, khiến cho họ cũng sẽ trụ trong diệu pháp này.
J2. GIẢI THÍCH RÕ THẾ NÀO LÀ THỆ NGUYỆN HẠNH AN LẠC ĐÃ THÀNH TỰU
Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát Ma-ha-tát ấy, vào lúc sau khi Đức Như Lai diệt độ, thành tựu pháp thứ tư đây, lúc nói pháp này, không có lỗi lầm, thường được các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, Bà-la-môn, cư sĩ cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Chư thiên ở trên không, vì nghe pháp cũng thường theo hầu. Nếu ở thôn xóm, thành ấp, rừng núi vắng vẻ, có người đến muốn gạn hỏi, hàng chư thiên thường vì pháp mà ngày đêm bảo vệ vị ấy, có thể khiến cho người nghe đều được vui mừng. Vì sao? Vì kinh này được thần lực của tất cả các Đức Phật thuở quá khứ, vị lai, hiện tại bảo hộ.
Văn-thù-sư-lợi! Thị Bồ-tát Ma-ha-tát, ư Như Lai diệt hậu, hữu thành tựu thử đệ tứ pháp giả, thuyết thị pháp thời, vô hữu quá thất, thường vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, Bà-la-môn, cư sĩ đẳng, cúng dường cung kính, tôn trọng tán thán. Hư không chư thiên, vị thính pháp cố, diệc thường tùy thị. Nhược tại tụ lạc, thành ấp. không nhàn lâm trung, hữu nhân lai dục nạn vấn giả, chư thiên trú dạ, thường vị pháp cố, nhi vệ hộ chi, năng linh thính giả giai đắc hoan hỷ. Sở dĩ giả hà? Thử kinh thị nhất thiết quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, thần lực sở hộ cố.
“Văn-thù-sư-lợi”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại gọi một tiếng “Văn-thù-sư-lợi”! “Bồ-tát Ma-ha-tát ấy, vào lúc sau khi Đức Như Lai diệt độ, thành tựu pháp thứ tư đây”: hàng Đại Bồ-tát này, sau khi Phật diệt độ, có vị thành tựu hạnh an lạc thứ tư; hạnh an lạc thứ tư ở đây chính là “phát nguyện”.
Vị ấy có thể thành tựu hạnh an lạc thứ tư nêu trên, “lúc nói pháp này, không có lỗi lầm”: ngay khi giảng nói bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, cũng không có lỗi lầm. “Thường được các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di”: vị ấy thường được tất cả Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cho đến “Quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, Bà-la-môn, cư sĩ”, “cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen”: những hạng người này đều sẽ cúng dường, cung kính vị ấy, lại còn tôn trọng, ngợi khen vị ấy. Không chỉ người trong nhân gian cung kính cúng dường, khen ngợi vị Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo như thế, ngay cả “chư thiên ở trên không, vì nghe pháp cũng thường theo hầu”: tất cả chư thiên trên hư không, đều vì nghe pháp, cũng thường đi theo, hầu hạ vị Bồ-tát này.
“Nếu ở thôn xóm, thành ấp, rừng núi vắng vẻ”: hoặc ở trong thôn xóm, hoặc ở trong thành thị, hoặc ở trong rừng vắng vẻ trên núi, “có người đến muốn gạn hỏi”: quý vị tu hành ở những nơi ấy, nếu có người muốn đến vấn nạn quý vị, khảo nghiệm quý vị. “Hàng chư thiên thường vì pháp mà ngày đêm bảo vệ vị ấy, có thể khiến cho người nghe đều được vui mừng”: tất cả các vị thiện thần hộ pháp, Thiên long bát bộ ngày đêm thường vì hộ trì Phật pháp mà đến bảo vệ vị Bồ-tát tu Bồ-tát đạo này. Thế thì khi họ đến vấn nạn quý vị, quý vị dùng diệu nghĩa Đại thừa đáp trả, có thể khiến cho tất cả những người đến nghe kinh pháp đều được vui vẻ.
“Vì sao”: vì lý do gì? “Vì kinh này được thần lực của tất cả các Đức Phật thuở quá khứ, vị lai, hiện tại bảo hộ”: chư Phật trong ba đời đều ủng hộ bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, vì vậy nếu có vấn đề gì trở ngại, khốn khó, đều có thể hóa thành không.
J2. Khen Ngợi Kinh Pháp (phân 2 phần)
J1. Nêu Pháp Khen Ngợi Chung
J2. Tóm Tắt Dụ Khen Ngợi Rộng
J1. NÊU PHÁP KHEN NGỢI CHUNG
Này Văn-thù-sư-lợi ! Kinh Pháp Hoa này, ở trong vô lượng kiếp, thậm chí danh tự còn chẳng được nghe, huống chi được thấy, thọ trì, đọc tụng.
Văn-thù-sư-lợi! Thị Pháp Hoa Kinh ư vô lượng kiếp trung, nãi chí danh tự bất khả đắc văn, hà huống đắc kiến, thọ trì, độc tụng.
“Này Văn-thù-sư-lợi”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại gọi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, “Kinh Pháp Hoa này, ở trong vô lượng kiếp, thậm chí danh tự còn chẳng được nghe”: bộ “Kinh Pháp Hoa” này, ở trong vô lượng vô lượng kiếp, có rất nhiều người ngay cả tên kinh “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” còn không được nghe. Hiện nay, tại nước Nhật có tông phái Nhật Liên, chỉ chuyên niệm tên kinh “Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”, chứng tỏ họ đã nghe danh tự này; trước đây họ đều không được nghe danh tự này, bây giờ họ niệm “Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”, tức là đã nghe được danh tự này rồi! “Huống chi được thấy, thọ trì, đọc tụng”: huống gì quý vị có thể thấy được bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này ư! Không dễ thấy được; huống gì quý vị có thể thọ trì, đọc tụng “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này.
J2. Tóm Tắt Dụ Khen Ngợi Rộng (phân 2 phần)
K1. Dụ Không Cho Hạt Châu (phân 2 phần)
L1. Lập dụ
L2. Hợp Với Pháp
K2. Dụ Cho Hạt Châu
L1. LẬP DỤ
Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như Chuyển Luân Thánh Vương hùng mạnh, muốn dùng uy thế hàng phục các nước, mà vua các nước nhỏ chẳng thuận mệnh lệnh. Vua Chuyển Luân liền đem các đội quân đi đánh dẹp. Vua thấy các đội quân chiến đấu có công, liền rất vui mừng, theo công ban thưởng, hoặc ban cho ruộng, nhà, thôn xóm, thành ấp; hoặc ban cho y phục, các thứ trang sức; hoặc ban cho các thứ châu báu, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ, nhân dân. Chỉ viên minh châu trong búi tóc là chẳng đem cho. Vì sao? Vì chỉ trên đỉnh đầu vua mới có viên châu này, nếu đem cho họ, các quyến thuộc của vua ắt sẽ rất kinh ngạc.
Văn-thù-sư-lợi! thí như cường lực Chuyển Luân Thánh Vương, dục dĩ uy thế hàng phục chư quốc, nhi chư tiểu vương bất thuận kỳ mệnh. Thời Chuyển Luân vương khởi chủng chủng binh nhi vãng thảo phạt. Vương kiến binh chúng chiến hữu công giả, tức đại hoan hỷ, tùy công thưởng tứ, hoặc dữ điền trạch, tụ lạc, thành ấp, hoặc dữ y phục, nghiêm thân chi cụ, hoặc dữ chủng chủng trân bảo, kim, ngân, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, tượng, mã, xa thừa, nô tỳ, nhân dân. Duy kế trung minh châu bất dĩ dữ chi. Sở dĩ giả hà? Độc vương đỉnh thượng hữu thử nhất châu, nhược dĩ dữ chi, vương chư quyến thuộc, tất đại kinh quái.
“Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như Chuyển Luân Thánh Vương hùng mạnh, muốn dùng uy thế hàng phục các nước”: Văn-thù-sư-lợi! Giống như Chuyển Luân Thánh Vương có sức mạnh kia, muốn dùng uy đức, thế lực của ông ta để hàng phục các nước khác. “Mà vua các nước nhỏ chẳng thuận mệnh lệnh”: quốc vương của các nước nhỏ kia không nghe theo mệnh lệnh của vị Chuyển Luân Thánh Vương này. “Vua Chuyển Luân liền đem các đội quân đi đánh dẹp”: lúc bấy giờ, Chuyển Luân Thánh Vương liền đem các binh lực chinh phạt những nước kia.
“Vua thấy các đội quân chiến đấu có công, liền rất vui mừng, theo công ban thưởng”: Chuyển Luân Thánh Vương thấy các đội quân chiến đấu có công, sanh lòng vui mừng, tùy theo công lao lớn nhỏ đã lập được mà ban thưởng cho họ. “Hoặc ban cho ruộng, nhà, thôn xóm, thành ấp”: hoặc cấp cho họ một ít đất đai và nhà cửa để ở, hoặc là thôn xóm, thành ấp; “hoặc ban cho y phục, các thứ trang sức”: hoặc ban cho họ chút ít quần áo và các vật dụng để tô điểm cho thân; “hoặc ban cho các thứ châu báu, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ, nhân dân”: hoặc ban thưởng cho họ các thứ châu báu quý như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, hổ phách, san hô, hoặc một con voi, hoặc ngựa, hoặc xe cộ, hoặc một vài người làm công và nhân dân.
* * *
Đoạn kinh văn này vẫn chưa giảng xong, nhưng tôi muốn báo với mọi người một tin: chủ nhật tuần này, Đạo Tràng chúng ta sẽ cử hành pháp hội Vu Lan. Vu Lan là âm Phạn (Ullambana), dịch là “Giải đảo huyền”, ý giống như người bị treo ngược, rất khổ sở, bây giờ cởi dây trói cho họ. Cởi trói cho ai? Cởi cho cha mẹ, tổ tiên trong đời quá khứ của chúng ta bị treo ngược. Chúng ta không một ai biết được tổ tiên, cha mẹ đời quá khứ của mình có công hay có tội? Người có công, đương nhiên hoặc sanh về thế giới Cực Lạc, hoặc sanh lên trời, hoặc sanh xuống nhân gian làm Tổng thống, đều không nhất định. Nếu có tội? Hoặc phải đọa xuống địa ngục, hoặc chuyển sanh trong loài ngạ quỷ, loài súc sanh, cũng đều không quyết chắc được.
Ngày rằm tháng bảy âm lịch là ngày kỷ niệm tôn giả Đại Mục-kiền-liên siêu độ cho mẹ của ngài. Những chúng sanh chúng ta cũng có thể mượn ngày này, tu tạo công đức cho cha mẹ bảy đời quá khứ, để siêu độ họ. Nếu quý vị cảm thấy mình rất nóng nảy, lửa vô minh rất mạnh thì có thể biết được tổ tiên, cha mẹ đời quá khứ của quý vị chẳng thể lìa khổ được vui, bởi vì mỗi ngày họ đều giúp quý vị nổi giận, bảo quý vị tạo tội nghiệp để mau cùng họ sum họp hơn. Nếu quý vị có cái cảm giác này, thì lúc này nên đến siêu độ cho tổ tiên, cha mẹ bảy đời quá khứ của mình, tạo công đức cho họ. Ở phương Tây, trước kia có rất ít kiểu đạo tràng như thế này, bây giờ đã có rồi, quý vị chớ bỏ lỡ cơ hội; là những người con cháu hiếu thảo, quý vị hãy tạo một ít công đức cho tổ tiên, cha mẹ của mình.
* * *
Chuyển Luân Thánh Vương thấy đội quân của mình chiến đấu thắng lợi, những người có công đều phải ban thưởng, vì vậy nói “hoặc ban cho ruộng, nhà”, hoặc cho họ ruộng đất, hoặc cho họ nhà cửa. Nhưng “ruộng đất” không phải chính là ruộng đất, ruộng là dụ cho tam-muội, cũng chính là “định”; nhà là dụ cho “trí huệ”. “Thôn xóm” là dụ cho quả vị thứ nhất Tu-đà-hoàn và quả vị thứ hai Tư-đà-hàm; “thành” là dụ cho quả vị thứ ba A-na-hàm; “ấp” là dụ cho quả vị thứ tư A-la-hán. Ngoài ra, “y phục” là dụ cho nhẫn nhục; ngay cả “bảy báu” cũng nhằm dụ cho thiện pháp Thất giác chi, hay còn gọi là Thất Bồ-đề phần. “Voi, ngựa, xe cộ” đều biểu thị cho Nhị thừa; “tôi tớ” là dụ cho công dụng của thần thông, là công năng, lợi ích của thần thông; “nhân dân” là dụ cho thiện pháp.
“Chỉ viên minh châu trong búi tóc là chẳng đem cho”: trong búi tóc của Chuyển Luân Thánh Vương có một viên minh châu cực kỳ quý giá, nhưng vị ấy không thể đem nó ban thưởng cho những tướng quân và binh sĩ có công, không thể thưởng cho bất cứ ai. “Vì sao”: vì lý do gì? “Vì chỉ trên đỉnh đầu vua mới có viên châu này”: vì chỉ trên đỉnh đầu của Chuyển Luân Thánh Vương mới có viên minh châu này! Do vậy, vị ấy không thể ban tặng nó lại cho người khác. “Nếu đem cho họ, các quyến thuộc của vua ắt sẽ rất kinh ngạc”: nếu như Chuyển Luân Thánh Vương ban viên minh châu này cho những người có công, thì các quyến thuộc của vị ấy nhất định sẽ rất ngạc nhiên (kinh quái). Ngạc nhiên vì không tin có sự việc này, cũng không tin mình được ban thưởng hậu hĩnh như thế.
L2. HỢP VỚI PHÁP
Này Văn-thù-sư-lợi! Như Lai cũng như thế, dùng sức thiền định trí huệ được cõi nước pháp, làm vua trong ba cõi, mà các ma vương chẳng chịu thuận phục. Các tướng hiền thánh của Như Lai cùng ma đánh nhau. Những người có công, lòng cũng vui mừng. Ở trong bốn chúng, vì họ mà nói các kinh, khiến tâm họ vui thích, ban cho thiền định, giải thoát, vô lậu căn lực, tài sản các pháp; lại còn ban cho thành Niết-bàn, bảo rằng đã được diệt độ, dẫn dắt tâm họ, khiến cho mọi người đều được vui mừng, mà chẳng vì họ nói Kinh Pháp Hoa này.
Văn-thù-sư-lợi! Như Lai diệc phục như thị, dĩ thiền định trí huệ lực, đắc pháp quốc độ, vương ư tam giới, nhi chư ma vương bất khẳng thuận phục. Như Lai hiền thánh chư tướng dữ chi cộng chiến, kỳ hữu công giả, tâm diệc hoan hỷ, ư tứ chúng trung, vị thuyết chư kinh, linh kỳ tâm duyệt, tứ dĩ thiền định, giải thoát, vô lậu căn lực, chư pháp chi tài, hựu phục tứ dữ Niết-bàn chi thành, ngôn đắc diệt độ, dẫn đạo kỳ tâm, linh giai hoan hỷ, nhi bất vị thuyết thị Pháp Hoa Kinh.
“Này Văn-thù-sư-lợi”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại gọi một tiếng Văn-thù-sư-lợi! “Như Lai cũng như thế”: Phật Thích-ca Mâu-ni Ta cũng giống như Chuyển Luân Thánh Vương, “dùng sức thiền định trí huệ được cõi nước pháp, làm vua trong ba cõi”: dùng tam-muội thiền định bất khả tư nghì này và sức mạnh trí huệ mà đạt được diệu pháp vô thượng, làm đấng Pháp Vương trong ba cõi. Đức Phật là vua pháp trong ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới; “Phật là Pháp Vương, tự tại đối với các pháp” (Phật vi pháp vương, ư pháp tự tại), vì Đức Phật đạt được đại trí đại huệ, đạt được pháp chân chánh.
Tuy Đức Phật đạt được diệu pháp vô thượng, là vua trong các pháp, vua khắp ba cõi, “mà các ma vương chẳng chịu thuận phục”: nhưng tất cả ma vương không chịu thuận phục; chúng không chịu đầu hàng, không cam tâm quy thuận. Vì vậy, “các tướng hiền thánh của Như Lai cùng ma đánh nhau”: Đức Như Lai thống lĩnh các hàng Đại thừa, Nhị thừa, Tam thừa – tất cả các tướng, cùng chiến đấu với ma vương. Giống như hiện nay chúng ta xuất bản “Tạp Chí Kim Cang Bồ-đề Hải”, cũng là chiến đấu với ma vương; chúng ta phải bảo vệ Phật pháp chân chính, vì vậy những “chiêu bài giả hiệu” kia của họ đều sẽ phải lộ ra.
“Những người có công, lòng cũng vui mừng”: những người đánh bại ma vương lập nên công lao, tâm Phật cũng vui mừng. “Ở trong bốn chúng, vì họ mà nói các kinh, khiến tâm họ vui thích”: Đức Phật ở trong bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nói cho mọi người nghe tất cả kinh điển. Hoặc nói giáo pháp Tam tạng, hoặc nói giáo pháp Phương-đẳng, hoặc nói giáo pháp Bát-nhã, hoặc nói về tám loại giáo: tạng, thông, biệt, viên, đốn, tiệm, bí mật, bất định; nói giáo lý của các kinh cho tất cả chúng sanh nghe, khiến cho lòng họ rất vui mừng.
“Ban cho thiền định, giải thoát, vô lậu căn lực, tài sản các pháp”: Đức Phật liền ban cho chúng sanh công lực thiền định, đức giải toát, trí huệ vô lậu, lại còn có Ngũ căn, Ngũ lực. “Căn” là Ngũ căn, “lực” là Ngũ lực. Ngũ căn này chính là: tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn và huệ căn; “tín, tấn, niệm, định, huệ” từ năm căn sanh ra, vì nó có sức mạnh của năm thứ, nên còn gọi là “Ngũ lực”. Đức Phật đem tất cả pháp tài ban tặng cho các chúng sanh.
“Lại còn ban cho thành Niết-bàn”: lại ban cho chúng sanh thành Niết-bàn. Niết-bàn sao gọi là “thành”? Vì nó có thể phòng địch, có thể phòng ngự kẻ địch tấn công; cũng chính là có thể phòng bị ma vương, ma vương không cách nào phá hoại Niết-bàn này của quý vị được, vì vậy gọi là thành Niết-bàn. “Bảo rằng đã được diệt độ, dẫn dắt tâm họ, khiến cho mọi người đều được vui mừng”: bảo là các vị đã được diệt độ rồi, dẫn dắt tâm chúng sanh, khiến cho tâm của tất cả chúng sanh đều hoan hỷ. “Mà chẳng vì họ nói Kinh Pháp Hoa này”: mà giữ lại loại diệu pháp của “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, không nói cho tất cả chúng sanh. “Kinh Pháp Hoa” này cũng giống như viên bảo châu trong búi tóc của Chuyển Luân Thánh Vương, không thể tùy tiện giảng cho người khác.
K2 . Dụ cho hạt châu (phân 2 phần)
L1. Lập Dụ
L2. Hợp Chung Với Pháp
L1. LẬP DỤ
Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như vua Chuyển Luân thấy những người trong các đội quân lập được công lớn, lòng rất vui mừng, đem hạt châu khó tin này, từ lâu ở trong búi tóc, không thể vọng cho người khác, mà nay đem cho họ.
Văn-thù-sư-lợi! Như Chuyển Luân vương, kiến chư binh chúng hữu đại công giả, tâm thậm hoan hỷ, dĩ thử nan tín chi châu, cửu tại kế trung, bất vọng dữ nhân, nhi kim dữ chi.
“Này Văn-thù-sư-lợi”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại gọi Văn-thù-sư-lợi một tiếng – Diệu Cát Tường! “Ví như vua Chuyển Luân thấy những người trong các đội quân lập được công lớn, lòng rất vui mừng”: giống như Chuyển Luân Thánh Vương khi thấy tướng sĩ các quân đội đánh trận, người lập được công lớn, thì trong lòng rất vui. “Đem hạt châu khó tin này, từ lâu ở trong búi tóc, không thể vọng cho người khác, mà nay đem cho họ”: đem bảo châu khó tin này, đã cất giấu trong búi tóc lâu nay, không thể tùy tiện cho người khác, mà nay vì những người kia có công quá lớn, nên đã ban cho họ.
L2. HỢP CHUNG VỚI PHÁP
Như Lai cũng lại như vậy, là Đại Pháp Vương trong ba cõi, đem pháp giáo hóa tất cả chúng sanh, thấy quân Hiền thánh đánh nhau với ma ngũ ấm, ma phiền não, ma chết, lập được công lớn, diệt ba độc, thoát ba cõi, phá lưới ma. Bấy giờ, Đức Như Lai cũng rất vui mừng, Kinh Pháp Hoa này có thể khiến cho chúng sanh đạt đến Nhất thiết chủng trí, tất cả thế gian nhiều oán hận khó tin, trước nay chưa từng nói, mà nay tuyên nói.
Như Lai diệc phục như thị, ư tam giới trung, vi Đại Pháp Vương, dĩ pháp giáo hóa nhất thiết chúng sanh, kiến hiền thánh quân dữ ngũ ấm ma, phiền não ma, tử ma cộng chiến, hữu đại công huân, diệt tam độc, xuất tam giới, phá ma võng. Nhĩ thời, Như Lai diệc đại hoan hỷ, thử Pháp Hoa Kinh, năng linh chúng sanh chí Nhất thiết trí, nhất thiết thế gian đa oán nan tín, tiên sở vị thuyết, nhi kim thuyết chi.
“Như Lai cũng lại như vậy”: Thích-ca Mâu-ni Ta cũng giống như Chuyển Luân Thánh Vương. “Là Đại Pháp Vương trong ba cõi, đem pháp giáo hóa tất cả chúng sanh”: làm Đại Pháp Vương ở trong ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới, dùng diệu pháp vô thượng giáo hóa tất cả chúng sanh.
“Thấy quân Hiền thánh đánh nhau với ma ngũ ấm, ma phiền não, ma chết”: thấy những hàng Sơ quả, Nhị quả, Tam quả, Tứ quả A-la-hán, hoặc hàng Nhị thừa Duyên giác, hoặc hàng Bồ-tát; những hàng này đều gọi là “quân Hiền thánh”. Đánh nhau với “ngũ ấm ma”, chính là: “Sắc, thọ tưởng hành, thức”; ngũ ấm ma này mỗi người chúng ta đều có đủ. Có ma phiền não, còn có ma chết. Ai cũng đều phải chết, chết cũng là một thứ ma; hiện nay chúng ta muốn tu thành Phật, không còn sanh tử, vì vậy phải chiến đấu với ma chết này. “Lập được công lớn”: đánh nhau với ma ngũ ấm, ma phiền não, ma chết và đã chiến thắng chúng, vì vậy có công lao rất lớn. “Diệt ba độc, thoát ba cõi, phá lưới ma”: có thể diệt trừ ba độc tham, sân, si; có thể vượt thoát Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới; phá lưới của ma vương.
“Bấy giờ, Đức Như Lai cũng rất vui mừng”: tu hành, có thể chiến thắng ma chết, cũng chiến thắng cả ma phiền não và ma ngũ ấm; lúc này lưới ma đã bị phá tan! Đức Như Lai thấy những người tu tập pháp Nhị thừa và Đại thừa đều có chỗ thành tựu, nên cũng rất vui mừng. “Kinh Pháp Hoa này có thể khiến cho chúng sanh đạt đến Nhất thiết chủng trí”: bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này có thể khiến tất cả chúng sanh đạt được tất cả trí tuệ. “Tất cả thế gian nhiều oán hận khó tin”: người trong thế gian phần nhiều oán hận đạo lý này của “Kinh Pháp Hoa”, cũng không dễ tin; thế nên “trước nay chưa từng nói, mà nay tuyên nói”: Đức Như Lai từ hơn bốn mươi năm về trước đến nay chưa từng nói “Kinh Pháp Hoa”, đến bây giờ mới giảng cho mọi người nghe chỗ vi diệu của “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.
“Này Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là lời nói bậc nhất của các Đức Như Lai, vô cùng sâu xa so với các lời thuyết giảng khác; sau cùng mới ban cho, như vị vua uy dũng, giữ gìn viên minh châu từ rất lâu, nay mới ban cho. Này Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các Đức Phật Như Lai, đứng đầu trong các kinh, được giữ gìn đã rất lâu, không tự tiện tuyên nói, bắt đầu hôm nay mới phô bày cho các ông.”
“Văn Thù Sư Lợi! Thử Pháp Hoa Kinh, thị chư Như Lai đệ nhất chi thuyết, ư chư thuyết trung, tối vi thậm thâm; mạt hậu tứ dữ, như bỉ cường lực chi vương, cửu hộ minh châu, kim nãi dữ chi. Văn Thù Sư Lợi! Thử Pháp Hoa Kinh, chư Phật Như Lai bí mật chi tạng, ư chư kinh trung, tối tại kỳ thượng, trường dạ thủ hộ, bất vọng tuyên thuyết, thủy ư kim nhật, nãi dữ nhữ đẳng, nhi phu diễn chi.”
“Văn-thù-sư-lợi”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, “Kinh Pháp Hoa này là lời nói bậc nhất của các Đức Như Lai”; bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này lời nói bậc nhất của chư Phật đời quá khứ, là lời nói bậc nhất của chư Phật đời hiện tại, cũng là lời nói bậc nhất của chư Phật đời vị lai. “Vô cùng sâu xa so với các lời thuyết giảng khác”: trong các kinh điển mà Đức Phật đã giảng nói, “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này cao tột sâu mầu, chẳng pháp nào có thể cao hơn, cũng chẳng pháp nào có thể sâu hơn. “Sau cùng mới ban cho, như vị vua uy dũng, giữ gìn viên minh châu từ rất lâu, nay mới ban cho”: đây là thứ ban cho tất cả chúng sinh cuối cùng, giống như vị Chuyển Luân Thánh Vương có uy đức lớn, có sức mạnh mẽ; ông ta cất giữ một viên minh châu ở trong búi tóc đã rất lâu, bây giờ vì những người lập được công trận lớn lao kia, nên đã ban tặng viên minh châu này cho họ.
“Này Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các Đức Phật Như Lai”: Bồ-tát Diệu Cát Tường! bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này là kho tàng bí mật của tất cả các Đức Phật trong mười phương, của tất cả các Đức Phật trong ba đời; rất bí mật, là pháp bất truyền, xưa nay chưa từng truyền trao. “Đứng đầu trong các kinh”: trong các kinh điển Đức Phật từng giảng nói, bộ kinh này là tối thượng. “Được giữ gìn đã rất lâu, không tự tiện tuyên nói”: từ trước đến nay, Ta giữ gìn bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này dường như đã rất lâu, không tùy tiện thuyết giảng. “Bắt đầu hôm nay mới phô bày cho các ông”: đến giờ này, Ta mới phân biệt diễn bày, giảng nói cho đại chúng trong pháp hội nghe. Vì vậy, các vị chớ có ý xem thường khi nghe pháp này!
H2. Trùng Tụng (phân 2 phần)
I1. Pháp Hạnh
I2. Khen Ngợi Kinh
I1. PHÁP HẠNH
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Thường tu hạnh nhẫn nhục
Thương xót hết tất cả
Mới có thể diễn nói
Kinh Phật đã khen ngợi.
Đời Mạt thế về sau
Người thọ trì kinh này
Hàng tại gia, xuất gia
Và chẳng phải Bồ-tát.
Nên sanh lòng từ bi
Những người đó chẳng nghe
Chẳng tin kinh pháp này
Thời là mất lợi lớn.
Khi ta chứng Phật đạo
Dùng các cách phương tiện
Vì họ nói pháp này
Làm cho trụ trong đó.
Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:
Thường hành nhẫn nhục
Ai mẫn nhất thiết
Nãi năng diễn thuyết
Phật sở tán kinh.
Hậu mạt thế thời
Trì thử kinh giả
Ư gia, xuất gia
Cập phi Bồ-tát.
Ưng sanh từ bi
Tư đẳng bất văn
Bất tín thị kinh
Tắc vi đại thất.
Ngã đắc Phật đạo
Dĩ chư phương tiện
Vị thuyết thử pháp
Linh trụ kỳ trung.
“Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni với tâm đại từ bi, sau khi nói kinh văn trên xong lại dùng kệ tụng, nói lại chi tiết nghĩa lý này cho đại chúng trong pháp hội.
“Thường tu hạnh nhẫn nhục, thương xót hết tất cả”: Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo nên thường tu hành hạnh nhẫn nhục, nhẫn những việc mà người khác không thể nhẫn, thương xót tất cả chúng sanh. “Mới có thể diễn nói, kinh Phật đã khen ngợi”: có được tâm nhẫn nhục này, và tâm thương xót tất cả chúng sanh, mới có thể diễn nói “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này. Bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này là kinh điển được các Đức Phật trong mười phương, ba đời đều khen ngợi.
“Đời Mạt thế về sau, người thọ trì kinh này”: trong tương lai, lúc pháp sắp diệt, có người thọ trì, đọc tụng bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, “hàng tại gia, xuất gia, và chẳng phải Bồ-tát”: hoặc là người tại gia, hoặc là người xuất gia, hoặc những chúng sanh không hiểu rõ Phật pháp; “nên sanh lòng từ bi”: đối với những hạng người này nên sanh lòng từ bi, ban cho họ sự an vui, mà trừ bỏ sự đau khổ của họ.
“Những người đó chẳng nghe, chẳng tin kinh pháp này, thời là mất lợi lớn”: nên thương xót họ, bảo rằng: “Chúng sanh các vị không nghe bộ “Kinh Pháp Hoa” này, cũng không tin bộ “Kinh Pháp Hoa” này, thì thật là một tổn thất rất to lớn! Sự tổn thất này của các vị không có gì lớn hơn! Vì các vị không thể thành Phật.” Quý vị không tin “Kinh Pháp Hoa” thì không thể thành Phật; quý vị muốn thành Phật, nhất định phải tin “Kinh Pháp Hoa”.
“Khi ta chứng Phật đạo, dùng các cách phương tiện, vì họ nói pháp này, làm cho trụ trong đó”: sau này khi ta thành tựu Phật đạo, sẽ dùng sức thiền định, sức trí huệ và sức thần thông của ta cùng với các cách phương tiện, vì hàng chúng sanh này mà nói “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”. Khiến cho tất cả chúng sanh đều đạt được chỗ vi diệu của “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, mà an trụ trong cảnh giới vi diệu này.
Người học Phật pháp càng ngày phải càng tinh tiến hơn, càng ngày phải càng thành tâm hơn, càng ngày phải càng giữ quy củ hơn, càng ngày phải càng thông minh hơn. Hôm nay quý vị thông minh hơn hôm qua, ngày mai quý vị sẽ càng thông minh hơn hôm nay; từng chút từng chút như thế thì sẽ có được trí huệ chân chánh. Nếu muốn có trí huệ chân chánh thì cần phải tuân giữ quy củ mà dụng công phu, mới có thể đạt được loại trí huệ chân chánh này. Vì vậy tôi hy vọng quý vị sau này phải quan tâm đến mình, phải cai quản bản thân mình; tự mình có thể cai quản bản thân, rồi một ngày nào đó quý vị sẽ thành công.
I2. Khen Ngợi Kinh (phân 2 phần)
J1. Gộp Chung Hai Dụ
J2. Gộp Chung Hai Hợp
J1. GỘP CHUNG HAI DỤ
Ví như vua Chuyển Luân
Có uy lực mạnh mẽ
Binh lính đánh có công
Thưởng ban cho các vật
Voi, ngựa và xe cộ
Đồ trang nghiêm nơi thân
Cùng những ruộng, nhà cửa
Xóm làng và thành ấp
Hoặc ban cho y phục
Cùng các thứ châu báu
Tôi tớ cùng của cải
Vui mừng mà ban cho
Nếu có người dũng mãnh
Làm được những việc khó
Vua mới mở búi tóc
Lấy minh châu ban cho.
Thí như cường lực
Chuyển Luân chi vương
Binh chiến hữu công
Thưởng tứ chư vật.
Tượng, mã, xa thừa
Nghiêm thân chi cụ
Cập chư điền, trạch
Tụ lạc, thành ấp.
Hoặc dữ y phục
Chủng chủng trân bảo
Nô tỳ, tài vật
Hoan hỷ tứ dữ.
Như hữu dõng kiện
Năng vi nan sự
Vương giải kế trung
Minh châu tứ chi.
“Ví như vua Chuyển Luân có uy lực mạnh mẽ”: Ví như, chính là nêu ra một ví dụ. Ví dụ như vị Chuyển Luân Thánh Vương có uy đức lớn, có thế lực lớn, cai quản bốn châu thiên hạ. Trên thế giới này có Kim Luân Vương, Ngân Luân Vương, Đồng Luân Vương và Thiết Luân Vương. Kim Luân Vương làm vua bốn đại bộ châu: Đông-thắng-thần châu, Nam-thiệm-bộ châu, Tây-ngưu-hóa châu và Bắc-câu-lô châu. Ngân Luân Vương làm vua ba châu: Đông-thắng-thần châu, Nam-thiệm-bộ châu và Tây-ngưu-hóa châu. Đồng Luân Vương làm vua hai châu: Đông-thắng-thần châu và Nam-thiệm-bộ châu. Thiết Luân Vương chỉ làm vua ở Nam-thiệm-bộ châu. Vị mà chúng ta đang giảng ở đây, chính là Kim Luân Thánh Vương; Kim Luân Thánh Vương có bảy món báu, là những thứ hy hữu ở thế gian, đó là: bánh xe vàng báu, voi trắng báu, ngựa tía báu, thần châu báu, ngọc nữ báu, chủ tạng thần báu và chủ binh thần báu.
“Binh lính đánh có công, thưởng ban cho các vật”: những binh lính này chiến đấu trên đất kẻ địch, lập được công lao, vì vậy vua liền ban thưởng cho tất cả của cải.“Voi, ngựa và xe cộ”: đây nhằm biểu thị cho pháp Nhị thừa. “Đồ trang nghiêm nơi thân”: dụ cho pháp môn tu tập. “Cùng những ruộng, nhà cửa, xóm làng và thành ấp”: “ruộng”: dụ cho sức tam-muội, “nhà”: dụ cho sức trí huệ, “xóm làng”: dụ cho người chứng đắc Sơ quả, Nhị quả, “thành”: dụ cho Tam quả A-na-hàm, “ấp”: dụ cho Tứ quả A-la-hán. “Hoặc ban cho y phục”: dụ cho pháp môn nhu hòa, nhẫn nhục. “Cùng các thứ châu báu”: rất nhiều loại châu báu chứ không phải chỉ có một, như vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não, vật báu nào cũng đều có.
“Tôi tớ cùng của cải”: “tôi tớ”: dụ cho công năng của thần thông. Quý vị chớ cho rằng thần thông rất tốt, ở trong Phật pháp, nó chính là tôi tớ, có thể để chúng ta tùy ý sử dụng. Quý vị có thiên nhĩ thông, muốn nghe trộm người khác nói chuyện cách đó rất xa, thì quý vị liền nghe được ngay, đó chẳng phải giống như tôi tớ của quý vị sao! Có được thiên nhãn thông, dù ở cách nhau rất xa, nhưng quý vị có thể vận dụng thiên nhãn thông để xem thử người kia đang làm gì. Thậm chí là họ đang ngủ, quý vị cũng biết; họ đang ăn cơm, quý vị cũng biết. Bất luận ở đó họ làm gì, quý vị đều biết cả; vì vậy thiên nhãn thông này cũng giống như kẻ tôi tớ, quý vị bảo nó làm thế nào, nó liền làm thế ấy. Các thứ của cải trên, “vui mừng mà ban cho”: rất vui mừng, liền ban thưởng cho họ.
“Nếu có người dũng mãnh, làm được những việc khó”: giả dụ có một kiện tướng rất dũng mãnh; kiện tướng chính là dũng sĩ bất khả chiến bại, trăm trận trăm thắng. Bất luận chiến đấu với kẻ nào, anh ta cũng nhất định thắng lợi; bất luận tấn công vào thành trì nào, anh ta nhất định công phá được thành trì đó. Anh ta có thể làm được những công việc khó khăn mà người khác không thể làm. Vì anh ta dũng mãnh như thế, có thể đánh bại kẻ địch như thế, đẩy lui mọi kẻ thù, “vua mới mở búi tóc, lấy minh châu ban cho”: vị Chuyển Luân Thánh Vương này nhận thấy ban thưởng cho những đồ vật khác, đều không xứng đáng với công lao của vị này; vì vậy đã lấy hạt minh châu trong búi tóc ban cho tướng quân vô cùng dũng mãnh này.
Bộ “Kinh Pháp Hoa” cũng giống như bảo châu kia; từ trước đến nay, Đức Phật không nói bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, bây giờ thời điểm đã đến, nên muốn tuyên nói cho chúng sanh!
J2. GỘP CHUNG HAI HỢP
Đức Như Lai cũng thế
Là vua của các pháp
Nhẫn nhục cùng đại lực
Trí huệ kho tàng báu.
Dùng lòng từ bi lớn
Như pháp mà độ đời
Thấy tất cả mọi người
Chịu các điều khổ não.
Muốn cầu được giải thoát
Cùng các ma đánh nhau
Vì các chúng sanh này
Nói ra các kinh pháp
Dùng pháp đại phương tiện
Nói các kinh điển này.
Như Lai diệc nhĩ
Vi chư Pháp Vương
Nhẫn nhục đại lực
Trí huệ bảo tạng
Dĩ đại từ bi
Như pháp hóa thế
Kiến nhất thiết nhân
Thọ chư khổ não
Dục cầu giải thoát
Dữ chư ma chiến
Vị thị chúng sanh
Thuyết chủng chủng pháp
Dĩ đại phương tiện
Thuyết thử chư kinh.
“Đức Như Lai cũng thế”: Như Lai, tức là Đức Phật Thích-ca Mâu-ni Ta, cũng vậy, cũng như thế, cũng giống như việc Chuyển Luân Thánh Vương kia ban thưởng bảo châu trong búi tóc. “Là vua của các pháp”: Phật là vua trong pháp, đó gọi là “Phật là Đấng Pháp Vương, tự tại nơi các pháp” (Phật vi Pháp Vương, ư pháp tự tại), đạt đến chỗ diệu dụng tự tại vô ngại.
“Nhẫn nhục cùng đại lực, trí huệ kho tàng báu”: Phật vừa có thể nhẫn nhục, vừa có sức lực mạnh, có uy đức lớn; lại còn có trí huệ, đây giống như có được tất cả kho báu. “Dùng lòng từ bi lớn”: Phật dùng “từ” ban vui cho chúng sanh, dùng “bi” để diệt trừ khổ cho chúng sanh, đó gọi là “từ năng dữ lạc, bi năng bạt khổ”. “Như pháp mà độ đời”: y cứ theo pháp này mà giáo hóa tất cả chúng sanh, cũng chính là: “đáng phải dùng thân Phật để độ thoát, liền hiện thân Phật mà vì họ nói pháp; đáng phải dùng thân Bồ-tát để độ thoát, liền hiện thân Bồ-tát mà vì họ nói pháp; đáng phải dùng thân Bích-chi-phật, Thanh văn, Duyên-giác để độ thoát, liền hiện thân các vị ấy mà vì họ nói pháp”; hiện ra các thân để giáo hóa chúng sanh, đây gọi là “Như pháp mà độ đời”. Cũng chính là “quán cơ giáo hóa” (quán cơ đậu giáo), quán sát cơ duyên, dùng pháp để giáo hóa chúng sanh; “tùy người nói pháp” (nhân nhân thuyết pháp), đối với hạng người nào, sẽ tùy nhân duyên giảng cho họ loại pháp nào.
Cũng như đối với chúng sanh thích ăn thì trước tiên giảng “kinh ăn” – kinh giảng về ăn uống; bảo là: “Quý vị ăn một chút thứ này, sẽ rất tốt cho quý vị! Nếu quý vị là người mập, quý vị thích ốm, thì sẽ ốm lại một chút; nếu quý vị thích mập, ăn thứ này, sẽ liền mập ra một chút!” Người thích ăn này vừa nghe thế liền reo lên: “A! Thế thì hay quá! Tôi đang không muốn mập, vậy thì ăn một chút thứ có thể làm ốm này!” thế là liền theo kinh giảng về ăn uống mà ăn; còn người thích mập, nghe nói ăn cái này vào sẽ mập, họ cũng ăn nó ngay. Đây gọi là “pháp thực” mà Đức Như Lai đã thuyết, quý vị chớ cho là thật có thức ăn cho quý vị ăn; “nói pháp” chính là “cho thức ăn” (thực), quý vị quên rồi à? “Thiền duyệt[1] làm thức ăn, tràn ngập niềm pháp hỷ[2]” (thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn). Vì sao có rất nhiều người, ngày chỉ ăn một bữa là đã thấy đầy đủ? Chính vì họ đã đạt đến chỗ “thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn”; mỗi ngày đều ăn pháp của Phật, mỗi ngày ăn một bữa; ăn chưa no, ngày mai lại ăn nữa! Phật cũng chính là như thế.
Có chúng sanh không thích ăn, chỉ thích ngủ, mỗi ngày ăn trưa xong, nhất định phải ngủ; thế là Đức Phật liền giảng “kinh ngủ”. Ngủ thế nào đây? Bảo rằng: “Quý vị nằm, đầu quay về hướng nam, chân hướng bắc; bên phải ở dưới, bên trái ở trên—bàn tay phải để dưới má, chân chồng xếp lên nhau. Quý vị nằm ngủ theo tư thế này, gọi là “nằm kiết tường” (kiết tường ngọa), giấc ngủ của quý vị sẽ rất là an lành, kiết tường! Quý vị nằm mộng cũng kiết tường, ngủ cũng kiết tường, thức hay ngủ đều kiết tường!” Người này vừa nghe thế, liền reo lên: “A! Vậy thì hay quá! Kiết tường!”; thế là y theo phương pháp này mà ngủ; vừa ngủ, liền đắc được “tam-muội” của ngủ! Đắc tam-muội, liền thức dậy, bảo: “A! Chớ có ngủ nhiều như thế! Ngủ nhiều như thế, cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Vì vậy, giảng “kinh ngủ” có thể làm cho người này tỉnh táo ra.
Đây là ví dụ, sao gọi là “ngủ”? Quý vị có thể nhập định chính là ngủ; vừa nhập định, giống như ngủ vậy. Nhưng ngủ thì đầu cúi gục như thế này; còn tư thế nhập định, đầu không động đậy, người không lắc lư, như như bất động, liễu liễu thường minh, đó mới là “ngủ chân thật”. Quý vị ngủ như thế, là ngủ “giấc ngủ giả”, ngủ “giấc ngủ chết”, không phải là giấc ngủ sống. Nhập định thật sự, rất sáng suốt, rất rõ ràng, quý vị nhập định, rút ngắn vạn năm còn trong thoáng chốc, kéo dài thoáng chốc thành đến vạn năm, một niệm vạn năm, vạn năm một niệm. Quý vị xem, ngủ thế này có dài hay không? (một người nói: “Con không hiểu!”) Đương nhiên là quý vị không hiểu, nếu quý vị hiểu được điều này, vậy thì quý vị chẳng phải là tầm thường.
Vì vậy, “như pháp mà độ đời” chính là như thế: người thích ăn thì giảng “kinh ăn”; người thích ngủ thì giảng “kinh ngủ”; người thích tiền, thì giảng “kinh tiền tài”. Tóm lại, họ thích gì thì giảng cho họ kinh đó. Giảng kinh tài, kinh sắc, kinh danh, kinh thực, kinh thùy; năm thứ này, Đức Như Lai đều giảng cho họ, vì vậy gọi là “như pháp mà độ đời”.
“Thấy tất cả mọi người, chịu các điều khổ não”: Ngài thấy tất cả chúng sanh vì chấp đắm nơi tài, sắc, danh, thực, thùy nên có các khổ não, chịu các khổ não! Ví dụ tham tài, chỗ gọi là “chưa được nó thì suy tính để được nó” (vị đắc chi, hoạn đắc chi), khi chưa có, suy nghĩ tìm cách nào để có được tiền của? Tiền của có rồi – hoặc đi đến nơi nào đó đánh cắp, hoặc ăn cướp; quý vị bảo thế nào đây? Hà! Anh ta lại buồn rầu: “Chao ôi! Mỗi ngày ta phải canh giữ nó, vì không chừng ta cướp của người, cũng sẽ có người khác cướp lại của ta!” thế là ban đêm không dám ngủ, chỉ trông giữ số tiền này. Quý vị bảo xem có phải là phiền não không? Tiền, sắc, danh, thực, thùy đều như thế, khi chưa có thì nghĩ cách để có được nó; đã được rồi, lại sợ mất; quý vị nói xem, có phiền não hay không? Vì vậy mà phải chịu các khổ não!
“Muốn cầu được giải thoát, cùng các ma đánh nhau”: vì đã chịu khổ não trong thời gian quá lâu, nên họ muốn đạt được sự giải thoát, không vướng mãi vào đó nữa! Muốn được tự do, muốn thăng thiên độn thổ, vì vậy họ đã đánh nhau với các ma phiền não, ma chết, ma nghiệp chướng, cũng như với “ngũ độc”: ma tâm tham, ma tâm sân, ma tâm si, ma tâm mạn và ma tâm nghi – “tam độc” đã biến thành “ngũ độc” rồi! – một khi lâm trận, liền đánh bại các thứ ma này.
“Vì các chúng sanh này, nói ra các kinh pháp”: vì vậy Đức Phật đã nói các kinh pháp cho những chúng sanh này, mong muốn họ đạt được sự giải thoát. “Dùng pháp đại phương tiện”: dùng pháp phương tiện lớn nhất. Những pháp phương tiện này, đều là quên mình để độ chúng sanh; như là xuống địa ngục, mong thọ khổ thay chúng sanh. Quý vị thấy Bồ-tát Địa Tạng Vương, vì muốn cứu giúp những chúng sanh trong địa ngục, nên Ngài đã ở trong địa ngục để giáo hóa họ, đây chính là dùng đại phương tiện. “Nói các kinh điển này”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói ba tạng giáo điển, lại nói các Kinh Phương-đẳng, Kinh bát-nhã…
Đã biết các chúng sanh
Được sức mạnh kia rồi
Cuối cùng mới vì họ
Nói Kinh Pháp Hoa này.
Như vua mở búi tóc
Lấy minh châu đem cho
Kinh này là tối tôn
Đứng đầu trong các kinh.
Ta vẫn thường giữ gìn
Chẳng hề vọng chỉ bày
Nay chính đã đến lúc
Vì các ông mà nói.
Ký tri chúng sanh
Đắc kỳ lực dĩ
Mạt hậu nãi vị
Thuyết thị Pháp Hoa.
Như vương giải kế
Minh châu dữ chi
Thử Kinh vi tôn
Chúng Kinh trung thượng.
Ngã thường thủ hộ
Bất vọng khai thị
Kim chánh thị thời
Vi nhữ đẳng thuyết.
“Đã biết các chúng sanh, được sức mạnh kia rồi”: đã biết chúng sanh, người thuộc Phương-đẳng giáo cũng đạt được lợi ích, người thuộc Bát-nhã giáo cũng đã đạt được lợi ích. Họ đều đã đạt được lợi ích rồi! “Cuối cùng mới vì họ, nói Kinh Pháp Hoa này”: vào thời Mạt pháp về sau, mới nói cho chúng sanh bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này. Đây là kinh Phật nói sau cùng, mục đính cuối cùng của Phật chính là nói “Kinh Pháp Hoa”.
“Như vua mở búi tóc, lấy minh châu đem cho”: giống như Chuyển Luân Thánh Vương gỡ lấy minh châu trong búi tóc, ban cho vị tướng quân có công lao lớn nhất.“Kinh này là tối tôn, đứng đầu trong các kinh”: bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này là tối tôn, tối quý, tối cao, vô thượng ở trong các Kinh. “Ta vẫn thường giữ gìn, chẳng hề vọng chỉ bày”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói, Ta thường giữ gìn “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, không tùy tiện giảng cho người; rất lâu rồi vẫn không giảng, Ta luôn giữ lại “Kinh Pháp Hoa” này. “Nay chính đã đến lúc, vì các ông mà nói”: bây giờ chính là đúng lúc rồi! Không sớm cũng không muộn, không trước cũng không sau, chính là lúc này! Lúc nào? Chính là lúc giảng cho mọi người “Kinh Pháp Hoa”.
Do đó, giờ này đây chúng ta giảng “Kinh Pháp Hoa”, cũng là đúng lúc! Khi đến đất nước này, đầu tiên tôi giảng “Kinh Lăng-nghiêm”. Có người nói: “Kinh Lăng-nghiêm” là giả, vì sao? Mọi người xem Kinh Lăng Nghiêm đều sững sờ , không hiểu rõ, nên cho là không phải thật. Kinh Lăng-nghiêm đích thực là thật! Mà đúng là thật đi nữa, nếu quý vị cho là giả thì sẽ là giả; còn nếu là giả, mà quý vị cho là thật, thì sẽ là thật. Vì sao? Vì “tất cả đều do tâm tạo” (nhất thiết duy tâm tạo) mà! Thật, giả đều do tâm quý vị phân biệt mà ra – “nhân giả tự sanh phân biệt” (chính ông tự khởi tâm phân biệt). Vốn ở nơi kinh điển nào có gì là thật, gì là giả. Nếu nó giúp ích cho quý vị, thì đó là chân kinh; bằng như ngược lại, thì là giả; nếu nó có lợi ích cho quý vị, thì đúng là chân kinh rồi; không đem lại lợi ích cho quý vị, thì đó là giả. Sao gọi thật, giả? Thật, giả là ở bản thân của quý vị, chẳng phải ở kinh! “Kinh Pháp Hoa” mà chúng ta đang giảng chính là chân kinh, nhưng nếu quý vị không hiểu, thì chân kinh cũng chẳng có tác dụng; trái lại, nếu quý vị hiểu, thì dù là giả, cũng vẫn có ít nhiều hữu dụng. Vì vậy, kỳ giảng kinh thứ hai này, sẽ giảng “Kinh Pháp Hoa”, kỳ thứ ba sẽ giảng “Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm ”. Có người nói: “Vậy Ngài lại giảng “Kinh Địa Tạng”, “Kinh Kim Cang”, con đều nghe qua rồi!” những bộ đó là tiểu kinh, ở đây chúng ta giảng đại kinh, chân kinh.
卍 卍 卍
Ngày mai là ngày khánh đản của Bồ-tát Đại Thế Chí. Bồ-tát Đại Thế-chí là ai nào? Ngài là đệ tử của Đức Phật A-di-đà ở thế giới Cực Lạc bên phương tây; bên trái Đức Phật A-di-đà là Bồ-tát Quán Thế Âm, bên phải chính là Bồ-tát Đại Thế-chí. Đợi khi Đức Phật A-di-đà thoái vị, Bồ-tát Quán Thế Âm sẽ là giáo chủ thế giới Cực Lạc, khi Bồ-tát Quán Thế Âm thoái vị, thì Bồ-tát Đại Thế-chí làm giáo chủ. Vì vậy, một vị Phật và hai vị Bồ-tát này là “Tam Thánh” của thế giới Cực Lạc ở phương tây.
Ngày mai là ngày đản sinh của Bồ-tát Đại Thế Chí, vì vậy bắt đầu từ ngày mai, chúng ta sẽ niệm “ Nam mô A-di-đà Phật”; một mặt là khánh chúc sinh nhật Bồ-tát Đại Thế Chí, một mặt là cử hành pháp hội Vu-lan, siêu độ tất cả chúng sanh.
Ngày mai và ngày mốt – chính là ngày thứ bảy, hai ngày đều niệm Phật; chủ nhật niệm Phật, lại tụng “Kinh Vu-lan-bồn”. Nếu như đông người, chúng ta có thể sẽ giảng bộ “Kinh Vu-lan-bồn”; tôi biết năm người đệ tử của tôi hiện nay, ít nhiều đều có trí tuệ thông suốt, trí huệ còn lớn hơn cả tôi, và thân cũng cao hơn cả tôi, vì vậy tôi tin rằng sẽ không có vấn đề gì khó khăn, và tôi tin tưởng rằng họ sẽ giảng rất rõ ràng! Có ai thích nghiên cứu “Kinh Vu-lan-bồn” thì vào chủ nhật tuần này, mọi người hãy cùng nhau nghiên cứu.
Vẫn còn một tin mới nữa, là gì nào? Khoảng hai tuần trước, tôi đã có nói qua; nếu như ai thích học làm thơ hoặc kệ tụng Trung Hoa thì vào ngày thứ bảy, tôi sẽ đọc cho quý vị nghe những bài thơ và kệ tụng “không đáng xem” của tôi. Vì sao “không đáng xem”? Vì nó không có “mặt mũi”; tức là làm không hay, rất “xấu xí”; tiếng Anh gọi là gì nhỉ? Ugly phải không? Vì vậy nên sợ người khác nhìn thấy. Nhưng nếu quý vị muốn học loại thơ và kệ tụng “sợ người nhìn thấy” này, tôi sẽ không ngần ngại mà đem ra “diện kiến” quý vị; chờ đến khi quý vị gặp “nó” rồi, thì quý vị sẽ sợ đến bỏ chạy mất dạng! Tuy biết sẽ làm cho quý vị sợ hãi, nhưng cũng phải nói ra để quý vị biết được sự lợi hại của nó! Hiện giờ chính là tôi đang giảng thơ cho quý vị đấy!
卍 卍 卍
F2. Nói Tóm Lại Về Tướng Thành Tựu Của Pháp Hạnh (phân 3 phần)
G1. Kết Khuyên Bốn Hạnh
G2. Nêu Lên Ba Báo Để Khuyên
G3. Tổng Kết
G1. KẾT KHUYÊN BỐN HẠNH
Sau khi Ta diệt độ
Người mong cầu Phật đạo
Muốn được trụ an ổn
Diễn nói kinh pháp này
Phải nên thường gần gũi
Bốn pháp trên như thế.
Ngã diệt độ hậu
Cầu Phật đạo giả
Dục đắc an ổn
Diễn thuyết tư kinh
Ưng đương thân cận
Như thị tứ pháp
“Sau khi Ta diệt độ, người mong cầu Phật đạo”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói, sau khi Ta nhập Niết-bàn, có Bồ-tát tu pháp Bồ-tát, hành đạo Bồ-tát như thế mà cầu Phật đạo, “muốn được trụ an ổn, diễn nói kinh pháp này”: vị ấy muốn có được sự an ổn vui vẻ để giảng nói bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này. “Phải nên thường gần gũi, bốn pháp trên như thế”: nên gần gũi bốn pháp như trong phần trường hàng ở trên đã nói, chính là “hạnh thân an lạc, hạnh miệng an lạc, hạnh ý an lạc và hạnh nguyện an lạc”; nên gần gũi bốn pháp này, thực hành bốn pháp này.
G2. Nêu Lên Ba Báo Để Khuyên (phân 3 phần)
H1. Báo Chướng Chuyển, Chuyển Hiện Báo
H2. Nghiệp Báo Chuyển, Chuyển Sanh Báo
H3. Phiền Não Chướng Chuyển, Chuyển Hậu Báo
H1. BÁO CHƯỚNG CHUYỂN, CHUYỂN HIỆN BÁO
Người đọc tụng kinh này
Thường không bị ưu não
Độc thị kinh giả
Thường vô ưu não
Nếu người nào có thể thường đọc tụng “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này, cũng sẽ thường không có lo buồn và phiền não.
H2. NGHIỆP CHƯỚNG CHUYỂN, CHUYỂN SANH BÁO
Lại không có bệnh đau
Nhan sắc được sáng sạch
Chẳng sanh nhà bần cùng
Dòng ti tiện xấu xa.
Hựu vô bệnh thống
Nhan sắc tiển bạch
Bất sanh bần cùng
Ti tiện xú lậu
“Lại không có bệnh đau, nhan sắc được sáng sạch”: lại thường không bị bệnh hoạn gì, vì vậy da dẻ người này rất sáng; sáng tức là gương mặt trắng hồng hào, không có một chút sắc khí đen. Quý vị thấy trên khuôn mặt người nào có một làn sắc hồng, rất tươi tắn, không tối tăm, thì đấy chính là người có trí huệ. Quý vị thấy trên khuôn mặt người nào phát ra sắc đen – đương nhiên không kể tới người da đen! Mặt của những người bình thường không nên có màu đen; vì thế khi họ lộ ra sắc đen, chính là điềm không may rồi, họ sẽ gặp phải việc không tốt. Quý vị thường có khuôn mặt hồng hào, thì sẽ gặp được điều may mắn; sáng trắng, chính là cả khuôn mặt đều sáng hồng, rất đẹp! “Chẳng sanh nhà bần cùng, dòng ti tiện xấu xa”: họ không sanh vào gia đình nghèo khổ, cũng không làm kẻ hạ nhân; hạ nhân tức là kẻ làm công cho người nhưng được rất ít tiền, là công việc rất thấp kém. Họ cũng sẽ không xấu xí (xú lậu); xấu xí tức là tướng mạo rất khó coi.
H3. Phiền Não Chướng Chuyển, Chuyển Hậu Báo (phân 2 phần)
I1. Nói Riêng ba phiền não chướng chuyển
I2. Nói Chung Tất Cả Phiền Não Chướng Chuyển
I1. NÓI RIÊNG BA PHIỀN NÃO CHƯỚNG CHUYỂN
Chúng sanh thường ưa thấy
Như ham mộ hiền thánh
Các đồng tử cõi trời
Dùng làm kẻ sai khiến.
Dao gậy chẳng lâm vào
Độc dữ không thể hại
Nếu người muốn mắng nhiếc
Miệng thời bị ngậm bít.
Dạo đi không sợ sệt
Dường như sư tử vương
Trí huệ luôn rực sáng
Như mặt trời chói chang.
Chúng sanh nhạo kiến
Như mộ hiền thánh
Thiên chư đồng tử
Dĩ vi cấp sử.
Đao trượng bất gia
Độc bất năng hại
Nhược nhân ác mạ
Khẩu tắc bế tắc.
Du hành vô úy
Như sư tử vương
Trí huệ quang minh
Như nhật chi chiếu.
“Chúng sanh thường ưa thấy, như ham mộ hiền thánh”: quý vị tu Bồ-tát đạo, không có bệnh, không có ưu sầu, cũng không nghèo, không thấp hèn, không xấu xí, vì vậy chúng sanh thích gặp quý vị, cũng giống như ngưỡng mộ bậc Hiền thánh, Bồ-tát vậy. “Các đồng tử cõi trời, dùng làm kẻ sai khiến”: tất cả đồng tử ở cõi trời cũng đến làm việc cho quý vị, nghe theo sự sai bảo của quý vị.
“Dao gậy chẳng lâm vào, độc dữ không thể hại”: có việc hung hiểm gì, dao gậy cũng sẽ không chạm vào người quý vị; chẳng những dao gậy không thể làm hại quý vị, dù có người nào muốn bỏ thuốc đầu độc quý vị, cũng chẳng thể nào hại quý vị được. “Nếu người muốn mắng nhiếc, miệng thời bị ngậm bít”: giả sử có người mắng nhiếc quý vị, họ vừa định mắng thì miệng không thể mở ra. “Dạo đi không sợ sệt, dường như sư tử vương”: bất luận đến nơi nào cũng đều không sợ hãi, giống như vua sư tử vậy; sư tử là vua của các loài thú, bất cứ loài thú nào cũng đều sợ nó. “Trí huệ luôn rực sáng, như mặt trời chói chang”: trí huệ của vị ấy rực sáng, giống như mặt trời chiếu cùng khắp mặt đất, chẳng một vật nhỏ tí ti nào mà không chiếu vào, chẳng có chỗ tối tăm nào mà không rọi tới.
I2. Nói Chung Tất Cả Phiền Não Chướng Chuyển (phân 4 phần)
J1. Trong Mộng Vào Giai Vị Tương Tợ Thập Tín
J2. Trong Mộng Vào Giai Vị Sơ Trụ Kiến đạo
J3. Trong Mộng Vào Giai Vị Trụ Hành Hướng Địa Tu Đạo
J4. Trong Mộng Vào Giai Vị Diệu Giác Cứu Cánh
J1. TRONG MỘNG VÀO GIAI VỊ TƯƠNG TỢ THẬP TÍN[3]
Nếu ở trong chiêm bao
Chỉ thấy những việc tốt
Thấy các Đức Như Lai
Ngồi trên tòa sư tử.
Các hàng chúng Tỳ-kheo
Vây quanh nghe nói pháp
Lại thấy các long thần
Cùng A-tu-la thảy.
Số như cát sông Hằng
Đều cung kính chắp tay
Tự ngó thấy thân mình
Mà vì chúng nói pháp.
Nhược ư mộng trung
Đãn kiến diệu sự
Kiến chư Như Lai
Tọa sư tử tòa.
Chư Tỳ-kheo chúng
Vi nhiễu thuyết pháp
Hựu kiến long thần
A-tu-la đẳng.
Số như Hằng sa
Cung kính hiệp chưởng
Tự kiến kỳ thân
Nhi vị thuyết pháp.
“Nếu ở trong chiêm bao, chỉ thấy những việc tốt”: nếu quý vị nằm mộng cũng sẽ thấy được điềm lành, không mộng thấy những điều hung ác; tức là ở trong chiêm bao cũng thấy được cảnh giới tốt lành. Thế nào là cảnh giới tốt lành? Chính là “Thấy các Đức Như Lai , ngồi trên tòa sư tử”: thấy các Đức Phật ngồi trên tòa sư tử nói pháp. “Các hàng chúng Tỳ-kheo, vây quanh nghe nói pháp”: có rất nhiều vị thuộc bốn chúng đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đến vây quanh, khen ngợi Phật, nghe Phật thuyết pháp.
“Lại thấy các long thần, cùng A-tu-la thảy”: lại thấy tám bộ quỷ thần như trời, rồng, a-tu-la…, “Số như cát sông Hằng, đều cung kính chắp tay”: con số ấy nhiều như số cát sông Hằng, cùng đến chắp tay cung kính lễ bái, cúng dường. “Tự ngó thấy thân mình, mà vì chúng nói pháp”: tự thấy thân thể của mình đang nói pháp cho tám bộ trời, rồng… này.
J2. TRONG MỘNG VÀO GIAI VỊ SƠ TRỤ[4] KIẾN ĐẠO[5]
Lại thấy các Đức Phật
Thân tướng thuần sắc vàng
Phóng vô lượng hào quang
Chiếu soi khắp tất cả.
Dùng giọng tiếng Phạm âm
Mà diễn nói các pháp
Phật vì hàng tứ chúng
Nói kinh pháp vô thượng.
Thấy thân mình ở đấy
Chắp tay khen ngợi Phật
Nghe pháp lòng vui mừng
Mà cúng dường Đức Phật.
Đặng pháp Đà-la-ni
Chứng được trí bất thoái
Phật biết tâm người đó
Đã vào sâu Phật đạo
Liền thọ ký cho kia
Sẽ thành Tối chánh giác.
Này ông! Thiện nam tử
Sẽ ở đời vị lai
Thành tựu vô lượng trí
Nơi đạo lớn của Phật.
Cõi nước rất trang nghiêm
Rộng lớn không đâu bằng
Cũng có hàng tứ chúng
Chắp tay nghe nói pháp.
Hựu kiến chư Phật
Thân tướng kim sắc
Phóng vô lượng quang
Chiếu ư nhất thiết.
Dĩ Phạm âm thanh
Diễn thuyết chư pháp
Phật vị tứ chúng
Thuyết vô thượng pháp.
Kiến thân xử trung
Hợp chưởng tán Phật
Văn pháp hoan hỷ
Nhi vi cúng dường.
Đắc đà-la-ni
Chứng bất thối trí
Phật tri kỳ tâm
Thâm nhập Phật đạo
Tức vi thọ ký
Thành tối chánh giác.
Nhữ thiện nam tử
Đương ư lai thế
Đắc vô lượng trí
Phật chi đại đạo
Quốc độ nghiêm tịnh
Quảng đại vô tỷ
Diệc hữu tứ chúng
Hợp chưởng thính pháp.
“Lại thấy các Đức Phật, thân tướng thuần sắc vàng, phóng vô lượng hào quang, chiếu soi khắp tất cả”: lại nằm mộng, thấy các Đức Phật, thân màu vàng Tử-ma[6], phóng ra vô lượng ánh sáng, chiếu soi đến tất cả chúng sanh. “Dùng giọng tiếng Phạm âm, mà diễn nói các pháp”: dùng Phạm âm thanh tịnh để diễn nói tất cả các pháp. Vì vậy, âm thanh cũng rất quan trọng, người giảng kinh nói pháp, âm thanh phải trong trẻo, nói năng cần rõ ràng, không nên khiến cho người nghe không hiểu được quý vị đang nói cái gì. Quý vị có được giọng nói trong trẻo, vang dội, là do đời trước đã tu các căn lành, nên mới có những biểu hiện như thế; bằng không, khi quý vị nói chuyện, âm thanh giống như khóc, mọi người vốn không có tâm sầu khổ, nhưng khi nghe giọng nói của quý vị họ liền bật khóc.
“Phật vì hàng tứ chúng, nói kinh pháp vô thượng”: lại nghe được Đức Phật giảng nói diệu pháp vô thượng cho bốn chúng đệ tử. “Thấy thân mình ở đấy, chắp tay khen ngợi Phật”: tự thấy mình cũng ở bên trong đạo tràng ấy, chắp tay khen ngợi Phật nói pháp. Giống như có rất nhiều cư sĩ thành tâm, đã mộng thấy những điều này, đấy đều là những người có căn lành! Có một số các vị Tỳ-kheo cũng có được điềm mộng này. “Nghe pháp lòng vui mừng, mà cúng dường Đức Phật”: ca ngợi Phật, nghe pháp nên vui mừng, cúng dường Đức Phật. “Đặng pháp Đà-la-ni, chứng được trí bất thoái”: được pháp môn tổng trì, tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa, chứng được trí huệ không thoái chuyển! Tức là đạt được trí huệ, vĩnh viễn sẽ không còn mê, sẽ không còn mơ mơ hồ hồ nữa. “Phật biết tâm người đó, đã vào sâu Phật đạo”: Đức Phật biết tâm người này đã thâm nhập Phật đạo, “liền thọ ký cho kia, sẽ thành Tối chánh giác”: liền thọ ký cho họ sẽ thành tựu quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác cao tột.
“Này ông! Thiện nam tử”: những thiện nam tử các ông! “Sẽ ở đời vị lai, thành tựu vô lượng trí, nơi đạo lớn của Phật”: Đức Phật thọ ký cho quý vị, Ngài bảo: “Thiện nam tử! Vào đời sau, các ông sẽ được trí huệ vô lượng, lại được thành tựu Phật đạo.” “Cõi nước rất trang nghiêm, rộng lớn không đâu bằng”: cõi nước kia của quý vị cũng trang nghiêm, thanh tịnh và rất rộng lớn, “Cũng có hàng tứ chúng, chắp tay nghe nói pháp”: cũng có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều chắp tay nghe pháp.
J3. TRONG MỘNG VÀO GIAI VỊ TRỤ HÀNH HƯỚNG ĐỊA TU ĐẠO[7]
Lại thấy thân của mình
Ở trong chốn núi rừng
Tu tập các pháp lành
Chứng thật tướng các pháp
Nhập sâu vào thiền định
Thấy chư Phật mười phương.
Hựu kiến tự thân
Tại sơn lâm trung
Tu tập thiện pháp
Chứng chư thật tướng
Thâm nhập thiền định
Kiến thập phương Phật.
“Lại thấy thân của mình, ở trong chốn núi rừng, tu tập các pháp lành”: lại thấy thân này của mình ở trong chốn núi rừng thanh tịnh, tu tập pháp lành thiền định.“Chứng thật tướng các pháp”: chứng được lý thể thật tướng, chứng được cảnh giới diệu hữu không thể nghĩ bàn. “Nhập sâu vào thiền định, thấy chư Phật mười phương”: có thể đạt đến cảnh giới sâu mầu của thiền định, cũng chính là cảnh giới “khi hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa”; lúc này, ở trong định, có thể diện kiến các Đức Phật trong mười phương và được nghe kinh pháp.
J4. TRONG MỘNG VÀO GIAI VỊ DIỆU GIÁC[8] CỨU CÁNH
Chư Phật thân sắc vàng
Trăm phước tướng trang nghiêm
Nghe pháp vì người nói
Thường có mộng tốt này.
Lại mộng làm quốc vương
Bỏ cung điện quyến thuộc
Và ngũ dục thượng diệu
Đi đến nơi đạo tràng.
Ở dưới cội Bồ-đề
Mà ngồi tòa sư tử
Cầu đạo qua bảy ngày
Đặng trí của chư Phật.
Thành đạo Vô thượng rồi
Dậy mà chuyển pháp luân
Vì bốn chúng nói pháp
Trải nghìn muôn ức kiếp.
Nói pháp mầu vô lậu
Độ vô lượng chúng sanh
Sau sẽ vào Niết-bàn
Như khói hết đèn tắt.
Chư Phật thân kim sắc
Bách phước tướng trang nghiêm
Văn pháp vị nhân thuyết
Thường hữu thị hảo mộng.
Hựu mộng tác quốc vương
Xả cung điện quyến thuộc
Cập thượng diệu ngũ dục
Hành nghệ ư đạo tràng.
Tại Bồ-đề thọ hạ
Nhi xử sư tử tòa
Cầu đạo quá thất nhật
Đắc chư Phật chi trí.
Thành vô thượng đạo dĩ
Khởi nhi chuyển pháp luân
Vị tứ chúng thuyết pháp
Kinh thiên vạn ức kiếp.
Thuyết vô lậu diệu pháp
Độ vô lượng chúng sanh
Hậu đương nhập Niết-bàn
Như yên tận đăng diệt.
“Chư Phật thân sắc vàng, trăm phước tướng trang nghiêm”: người này trong mộng gặp được Phật, thân Phật phóng ra ánh sáng màu vàng Tử-ma; chính là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, pháp thân trang nghiêm thanh tịnh vi diệu “tướng trăm phước” của Đức Phật. “Nghe pháp vì người nói, thường có mộng tốt này”:ở trước Phật được nghe pháp, lại vì người mà nói pháp, thường có cảnh mộng vi diệu không thể nghĩ bàn như thế.
“Lại mộng làm quốc vương, bỏ cung điện quyến thuộc, và ngũ dục thượng diệu, đi đến nơi đạo tràng”: lại mộng thấy mình làm vua, nhưng lại xả bỏ các hoàng hậu, phi tần trong tam cung lục viện; lại cũng không màng đến những thứ tốt nhất như: tài, sắc, danh, thực, thùy, hay sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà một mình đi đến chỗ đạo tràng kia. “Ở dưới cội Bồ-đề, mà ngồi tòa sư tử”: ngồi trên tòa sư tử dưới cội cây Bồ-đề, “cầu đạo qua bảy ngày, đặng trí của chư Phật”: sau bảy ngày cầu đạo, liền đạt được trí huệ của Phật. Ở trong mộng, quý vị xem! Đã thành Phật rồi! “Thành đạo Vô thượng rồi, dậy mà chuyển pháp luân”: sau khi thành tựu Phật đạo vô thượng, liền chuyển pháp luân, đây là một trong “tám tướng thành đạo[9]”. “Vì bốn chúng nói pháp, trải nghìn muôn ức kiếp”: nói pháp cho bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Ở trong mộng, trải qua thời gian nghìn muôn ức kiếp lâu xa như thế. “Nói pháp mầu vô lậu, độ vô lượng chúng sanh”: nói pháp mầu vô lậu, độ được vô lượng chúng sanh. “Sau sẽ vào Niết-bàn, như khói hết đèn tắt”: đến cuối cùng cũng nhập Niết-bàn! Giống như khói hết thì đèn cũng tắt.
G3. TỔNG KẾT
Nếu trong đời ác sau
Nói pháp bậc nhất này
Người đó được lợi lớn
Các công đức như trên.
Nhược hậu ác thế trung
Thuyết thị đệ nhất pháp
Thị nhân đắc đại lợi
Như thượng chư công đức.
Giả sử trong đời ác sau này, nếu có người nào có thể giảng nói “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, người này nhất định sẽ được lợi ích rất lớn, điều tốt rất lớn; mà lợi ích này, chính là các công đức mộng lành như đã nêu ở trên, cũng chính là mộng lành sẽ thành hiện thực!
[1] Thiền duyệt 禪悅: trạng thái vui vẻ thoải mái phát sinh nơi tâm khi người tu nhập vào thiền định.
[2] Pháp hỷ法喜: niềm vui do tham cứu, tu tập pháp Phật mà có được.
[3] Thập tín 十信: vị thứ 10 trong 52 giai vị tu tập của Bồ-tát.
[4] Sơ trụ初住: một trong mười trụ thuộc 52 giai vị Đại thừa..
[5] Kiến đạo 見道: giai vị tu hành dùng trí vô lậu quán sát Tứ đế để thấy được chân lý. Đại thừa cho rằng Sơ địa là vào Kiến đạo, nên gọi Bồ-tát Sơ địa là Kiến đạo.
[6] Vàng Tử-ma 紫磨金(Cg: Tử-ma hoàng kim): vàng ròng, loại vàng tốt và quí nhất. Tử là màu vàng tía, ma : có ý là không bợn nhơ, đồng với vàng Diêm-phù-đàn ở Ấn Độ
[7] Tu đạo 修 道 (S: Bhāvanā-mārga; Cg: Hữu học đạo): tu hành theo pháp môn để đoạn trừ phiền não và được an lạc. Theo thuyết của Đại thừa Duy thức, từ Trụ tâm của Sơ trụ trở lên đến địa cuối cùng, (Địa thứ 10) tu Kim cương vô gián đạo, gọi là Tu đạo.
[8] Diệu giác 妙 覺 (Cg: Diệu giác địa): giai vị cuối cùng trong quá trình tu hành của Bồ-tát Đại thừa, đã trừ sạch vô minh, chứng được trí huệ không thể nghĩ bàn. Đây là một trong 42 giai vị hoặc 52 giai vị Bồ-tát
[9] Tám tướng thành đạo 八 相成道: tám oai tướng của Đức Phật Thích-ca, cũng là nghi thức giáo hóa chúng sanh trong một đời của Đức Phật, gồm: (1). Tướng từ cung trời Đâu-suất giáng thần; (2). Tướng gá thai; (3). Tướng giáng sinh; (4). Tướng xuất gia; (5). Tướng hàng ma; (6). Tướng thành đạo; (7). Tướng thuyết pháp; (8). Tướng Niết-bàn.
Hết Phẩm 14 HẠNH AN LẠC