ĐẠI THỪA DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH THIỂN THÍCH
(Đại Lão Hòa Thượng thượng Tuyên hạ Hóa giảng thuật vào năm 1968, tại Phật Giáo Giảng Đường, San Francisco, California)
Phẩm 14: HẠNH AN LẠC
Kệ khai kinh
Phật pháp cao siêu rất thẳm sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tầm cầu.
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Phẩm này có tên là “Phẩm Hạnh An Lạc”. “Hạnh An Lạc” chính là “Hạnh Bồ-tát”; “Hạnh Bồ-tát” cũng chính là “Hạnh An Lạc”. “An” chính là an trụ nơi hạnh này; “lạc” là vui vẻ—vui vẻ an trụ là hạnh môn tu tập của hàng Bồ-tát. “An” tức là thân an ổn mà tâm cũng an ổn, thân tâm đều an ổn trụ nơi cảnh giới hành Bồ-tát đạo. Không những an trụ nơi cảnh giới này, mà còn vui vẻ nữa. Vì sao lại vui vẻ? Bởi vì chính mình vui mừng, hoan hỷ hành đạo Bồ-tát này. Các phẩm “Phẩm Pháp Sư”, “Phẩm Đề Bà Đạt Đa”, “Phẩm Khuyến Trì” ở trước đều rất quan trọng, phẩm này càng quan trọng hơn. Vì sao được an lạc? Vì được ngồi tòa Như Lai, mặc áo Như Lai, vào nhà Như Lai. Tu hạnh an lạc này là một con đường tất yếu phải đi qua của người hành Bồ-tát đạo, vì thế phẩm này gọi là “Phẩm Hạnh An Lạc”, đây là phẩm thứ 14.
D2: NÊU NGUYÊN TẮC, phân hai phần
E1. Văn-Thù Thưa Hỏi
E2. Như Lai Trả Lời
E1. VĂN-THÙ THƯA HỎI
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Các vị Bồ-tát này thật là hiếm có, vì kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn: Ở trong đời ác sau này sẽ hộ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa này. Bạch Đức Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát ở trong đời ác sau này, làm thế nào để có thể giảng nói kinh này?
Nhĩ thời, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ-tát Ma-ha-tát bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Thị chư Bồ-tát, thậm vi hy hữu, kính thuận Phật cố, phát đại thệ nguyện, ư hậu ác thế, hộ trì độc thuyết thị Pháp Hoa Kinh. Thế Tôn! Bồ-tát Ma-ha-tát, ư hậu ác thế, vân hà năng thuyết thị kinh?
“Bấy giờ”: tức là ngay sau khi nói “Phẩm Khuyến Trì” xong, Đức Phật bắt đầu nói đến “Phẩm An Lạc Hạnh”.
“Văn-thù-sư-lợi”: là Phạn ngữ (Manjushri), Trung Hoa có chỗ dịch là “Diệu Đức”, cũng có chỗ dịch là “Diệu Cát”. Diệu Đức hay Diệu Cát thì ý nghĩa đều như nhau. Khi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ra đời thì có mười điềm lành hiện ra, không giống như các Bồ-tát khác. Mười điềm lành này tiêu biểu cho “Thập Độ Ba-la-mật” của Bồ-tát Đại Trí Văn-thù-sư-lợi, gồm có:
1. Ánh sáng chiếu rực khắp nhà.
2. Sương ngọt (cam lộ) đầy sân.
3. Bảy thứ báu từ dưới đất trồi lên.
4. Thần mở hang kín.
5. Gà sanh ra Phượng Hoàng.
6. Heo sanh ra Rồng con.
7. Ngựa sanh ra Kỳ Lân.
8. Bò sanh ra Bạch Trạch[1].
9. Lúa trong kho biến thành vàng.
10. Voi có sáu ngà.
Tóm lại, cảnh giới của vị Bồ-tát này thật không thể nghĩ bàn.
Khi vị Bồ-tát này tu Bồ-tát hạnh, Ngài không hề nói dối, cũng không sát sanh, không trộm cướp, mà nghiêm cẩn giữ gìn giới luật. Căn cứ vào đâu để chứng minh là Ngài giữ giới luật mà không trộm cắp? Có một lần, Ngài nói với các Bồ-tát khác rằng: “Từ khi tôi phát tâm tu hành, tôi đã giữ giới không trộm cắp; vì thế ngày nay, đồ vật của tôi không bị người khác lấy trộm; chẳng những không bị người trộm cắp, mà dù cho tôi có để những món đồ quý giá nhất ở ngoài đường, cũng chẳng có ai nhặt mất!” Có vị Bồ-tát không tin lời này, bèn nói: “Thế thì bây giờ chúng tôi sẽ làm một cuộc thử nghiệm. Ngài hãy đem một món đồ quý giá nhất ra để giữa đường ngay trước cửa thành, vì nơi đó có nhiều người qua lại. Trong vòng ba ngày nếu như không có người nhặt, mới chứng minh được lời Ngài nói là thật.”.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: “Được! Chúng ta hãy cứ thử xem sao!” Thế là Ngài đem một hạt châu Ma-ni cực kỳ quý giá và một số vật quý khác để ở giữa đường trước cửa thành. Những người muốn ra vào thành đều phải đi qua cửa thành này; tuy người qua kẻ lại đông đúc và tấp nập, thế mà trong suốt ba ngày, quả nhiên không có ai nhặt cả, bảo châu vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Lúc này, các Bồ-tát mới tin việc Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giữ gìn giới “không trộm cắp” là sự thật.[2]
Lại nữa, trí tuệ của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thuộc vào bậc nhất. Vì sao trí tuệ của Ngài lại thuộc vào bậc nhất? Chính do Ngài tu tập hạnh Bát-nhã; từ khi mới bắt đầu tu tập Bồ-tát đạo, Ngài đã tu ba món Bát-nhã: là Văn tự Bát-nhã, Quán chiếu Bát-nhã và Thật tướng Bát-nhã, vì thế trí tuệ của Ngài cực lớn.
Đức Phật Thích-ca khi chưa thành Phật, đã từng theo học Phật pháp với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Phần trước của “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” có đề cập đến “Bồ-tát Diệu Quang”, chính là vị Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi này! Vì vậy, hiện tại chúng ta tu tập, sau khi thọ giới rồi thì nhất định phải giữ giới một cách nghiêm túc; nếu như hiện tại chúng ta không nghiêm túc giữ gìn giới luật thì sau này, khi thành Đạo cũng sẽ không chân thật. Chúng ta cần phải học hạnh không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu như Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi!.
“Pháp Vương Tử”: Phật là đấng Pháp Vương – là Vua trong các pháp, là bậc Trời trong hàng trời, là bậc Thánh trong hàng thánh; thế còn Bồ-tát thì sao? Chính là con của Đấng Pháp Vương, cho nên gọi Ngài là “Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử”.
“Bồ-tát”: “Bồ-tát” là Phạn ngữ và gọi đầy đủ là “Bồ-đề-tát-đỏa” (Bodhisattva). Bồ-đề là “giác”; tát-đỏa là “hữu tình”. Bồ-đề-tát-đỏa chính là “giác hữu tình” –khéo giác ngộ tất cả hữu tình, giúp họ đạt đến giác ngộ. Lại nữa, vị Bồ-tát này cũng giống như tất cả chúng sanh chúng ta, chẳng qua Ngài đã giác ngộ, nên trở thành một bậc giác ngộ trong chúng hữu tình.
“Ma-ha-tát”: Ma-ha là “đại”; tát là “Bồ-tát”, có nghĩa Ngài là một vị đại Bồ-tát trong số các Bồ-tát. Đại Bồ-tát cũng là “Lão Bồ-tát”, và Lão Bồ-tát không phải là một “Tiểu Bồ-tát”. Bồ-tát mới phát tâm được gọi là Tiểu Bồ-tát. Các Bồ-tát mới phát tâm thì không hẳn là đều có thể trở thành Bồ-tát; vì sao? Vì trong các Bồ-tát mới phát tâm, có người chỉ phát tâm được một ngày, có người phát tâm được hai ngày, ba ngày… rồi liền thoái tâm Bồ-đề, quay gót chạy trở về! Giống như Tôn-giả Xá-lợi-phất hành Bồ-tát đạo, lúc mới phát tâm Bồ-đề, gặp phải sự khảo nghiệm liền thoái lui. Vì thế, người xưa có mấy câu kệ rất hay như thế này:
Trứng cá, nại-ma-la,
Bồ-tát mới phát tâm
Nhân ba việc này nhiều
Kết quả chẳng bao nhiêu!
Ngư tử, Nại-ma-la,
Bồ-tát sơ phát tâm,
Tam sự nhân trung đa,
Cập kỳ kết quả thiểu!
“Ngư tử” tức là trứng cá--fish egg. Cá sinh rất nhiều trứng, nhưng không phải tất cả đều nở thành cá con.
“Nại-ma-la” (amalaka) là một loại cây ở Ấn Độ, những nước khác rất hiếm thấy. Loại cây này trổ rất nhiều hoa, nhưng không chắc đã đậu được dù chỉ một quả.
“Bồ-tát sơ phát tâm.” Bồ-tát sơ phát tâm thì rất nhiều, một khi nghe nói hành đạo Bồ-tát là tốt, liền phát ngay tâm Bồ-đề; nhưng khi trải qua một thời gian, gặp phải sự thử thách, cảm thấy hành đạo Bồ-tát thật không phải dễ, chi bằng không hành! Bởi thế, Bồ-tát sơ phát tâm thì rất đông, nhưng thật sự trở thành Lão Bồ-tát thì không nhiều lắm! “Tam sự nhân trung đa” có nghĩa là cả ba sự việc trứng cá, quả Nại-ma-la và Bồ-tát sơ phát tâm khởi đầu tại nhân địa thì gieo nhân rất nhiều; tuy nhiên “cập kỳ kết quả thiểu,” đến lúc được thành tựu thật sự thì lại rất ít.
Do đó, vị Lão Bồ-tát này đã từng trải qua quá trình tôi luyện; “tôi luyện” như thế nào? Chính là dùng lửa để tôi luyện. Đây không phải là dùng lửa để thiêu đốt Bồ-tát, vậy thì thế nào? Giống như ở trong nước và lửa, lửa thiêu đốt đau đớn như thế, nước nhấn chìm khó chịu như thế; nhưng khi đã trải qua quá trình rèn giũa khó nhẫn chịu này, thì sự tôi luyện đã thành công! Vì thế, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi này không chỉ là Lão Bồ-tát, mà còn là Đại Bồ-tát, còn là một Đại Bồ-tát không thể nghĩ bàn!
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi “bạch Phật”, tức là ngài thưa với Đức Phật, thưa điều gì? “Bạch Đức Thế Tôn! Các vị Bồ-tát này thật là hiếm có”: Đức Thế Tôn! Những vị Bồ-tát này hiện đang ở trước Đức Phật phát đại thệ nguyện, đây là điều rất hiếm lạ, rất ít có. “Vì kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn, ở trong đời ác về sau sẽ hộ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa này”: bởi những vị này vô cùng cung kính Phật, cho nên thuận theo tâm ý Ngài mà phát thệ nguyện rộng lớn, sẵn lòng ở trong đời ác năm trược này, nhẫn chịu những điều người khác khó nhẫn, thực hành những hạnh khổ người khác không thể hành. Trong đời Mạt pháp sau này, các vị ấy sẵn lòng hộ trì những người thọ trì kinh điển, đọc tụng kinh điển, giảng nói kinh điển. Đó là kinh điển nào? Chính là bộ: “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.
Hiện tại, chúng ta giảng “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, sẽ có không biết bao nhiêu vạn Bồ-tát, Thanh văn, Duyên-giác có mặt ở đây để hộ trì đạo tràng. Vì sao? Vì những vị Bồ-tát này, trong đời quá khứ đều đã phát nguyện ấy, bởi thế, có pháp hội “Kinh Pháp Hoa” thì những vị ấy nhất định sẽ ủng hộ pháp hội này; cũng giống như Đức Đa Bảo Như Lai, Ngài đã phát nguyện nơi nào có Đức Phật giảng “Kinh Pháp Hoa” thì Ngài sẽ hiện thân đến trước vị đó để bảo chứng.
“Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát ở trong đời ác về sau, làm thế nào để giảng nói kinh này?”: Đức Thế Tôn! Có đại Bồ-tát muốn hoằng dương “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, ở trong đời Mạt pháp sau này, trong một thế giới tội ác đầy dẫy như thế. Thế giới hiện tại của chúng ta đây, mọi người đều thích dùng sức mạnh để tranh hơn thua, thích đánh nhau, người tranh với người, nhà tranh với nhà, nước tranh với nước, thế giới tranh với thế giới. Thế giới này muốn chinh phục thế giới kia, thế giới kia lại muốn chinh phục thế giới này, vì thế loài người muốn chạy lên mặt trăng, người ở mặt trăng lại muốn chạy đến thế giới Ta-bà; đây gọi là “ở trong đời ác về sau”. Vào thời Mạt pháp tội ác đầy dẫy, làm thế nào mới có thể giảng nói “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã thưa hỏi Đức Phật điều này.
E2. NHƯ LAI TRẢ LỜI (có 2 phần)
F1. Nêu Chung Cương Yếu
F2. Giải Thích Rõ Bốn Hạnh
F1. NÊU CHUNG CƯƠNG YẾU
Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Nếu Đại Bồ-tát, ở trong đời ác về sau, muốn nói kinh này, phải an trụ bốn pháp.
Phật cáo Văn Thù Sư Lợi: nhược Bồ-tát Ma-ha-tát, ư hậu ác thế, dục thuyết thị kinh, đương an trụ tứ pháp.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi rằng nếu có vị Đại Bồ-tát phát tâm hoằng dương bộ kinh này, ở trong thế giới tội ác đời sau, vị ấy phát tâm muốn giảng nói bộ “Kinh Diệu Pháp Kiên Hoa” này, cần phải an trụ trong bốn pháp.
F2. GIẢI THÍCH RÕ BỐN HẠNH (phân 4 phần)
G1. Hạnh Thân An Lạc (có 2 phần)
H1.Văn Trường Hàng (có 2 phần)
I1. Nêu chung “hành” và “cận”
I2. Giải thích riêng “hành” và “cận”
H2. Văn Trùng Tụng
G2. Hạnh Miệng An Lạc
G3. Hạnh Ý An Lạc
G4. Hạnh Thệ Nguyện An Lạc
I1. NÊU CHUNG “HÀNH XỨ” VÀ “THÂN CẬN XỨ”
Một: an trụ nơi hành xứ và thân cận xứ của Bồ-tát, thì có thể vì chúng sanh mà diễn nói kinh này.
Nhất giả, an trụ Bồ-tát hành xứ cập thân cận xứ, năng vị chúng sinh diễn thuyết thị kinh.
Bốn pháp này gồm: (1). “An trụ hành xứ của Bồ- tát”, nên cư trú chỗ Bồ-tát tu hành. Chỗ Bồ-tát tu hành là nơi nào? Chính là sáu pháp Ba-la-mật (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và bát-nhã), hoặc mười pháp Ba-la-mật (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, bát-nhã, phương tiện, nguyện, lực và trí). Cần phải cư trú trên mười pháp Ba-la-mật này, đây chính là chỗ tu hành của Bồ-tát. Cùng với “thân cận xứ của Bồ-tát”; nên cư trú cảnh giới hành trì của Bồ-tát, nên thân cận cảnh giới cần nên thân cận của Bồ-tát, như thế mới có thể vì chúng sanh mà diễn nói, giảng giải bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này.
I2. GIẢI THÍCH RIÊNG (có 2 phần):
J1. Giải Thích Hành Xứ
J2. Giải Thích Thân Cận Xứ
J1. GIẢI THÍCH HÀNH XỨ
Này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là hành xứ của Đại Bồ-tát? Nếu Đại Bồ-tát trụ nơi nhẫn nhục, nhu hòa thiện thuận mà không vụt chạc nóng nảy, tâm cũng không kinh sợ. Lại nữa, đối với các pháp mà vô sở hành (không chấp có sở hành sở chứng), mà lại quán tướng như thật của các pháp; song, chẳng hành theo (chẳng chấp vào) sự chẳng phân biệt ấy. Đây gọi là hành xứ của Đại Bồ-tát.
Văn Thù Sư Lợi! Vân hà danh Bồ-tát Ma-ha-tát hành xứ? Nhược Bồ-tát Ma-ha-tát trụ nhẫn nhục địa, nhu hòa thiện thuận, nhi bất tốt bạo, tâm diệc bất kinh; hựu phúc ư pháp vô sở hành, nhi quán chư pháp như thực tướng, diệc bất hành bất phân biệt, thị danh Bồ-tát Ma-ha-tát hành xứ.
Đoạn văn này giảng về ý nghĩa thế nào gọi là “hành xứ của Bồ-tát”.
“Này Văn-thù-sư-lợi!”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni gọi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo: Ông có biết chăng? “Thế nào gọi là hành xứ của Đại Bồ-tát?”: thế nào mới có thể gọi là chỗ tu hành của Đại Bồ-tát? “Nếu Đại Bồ-tát trụ nơi nhẫn nhục”: “Nếu” tức tỷ dụ như; tỷ dụ như khi vị Bồ-tát này tu tập hạnh nhẫn nhục, trụ trên mảnh đất nhẫn nhục.
Nói tới “nhẫn nhục”, thật không phải dễ; Đức Phật Thích-ca Mâu-ni trong đời quá khứ, khi làm tiên nhẫn nhục, bị vua Ca-lợi cắt đứt từng phần thân thể, nhưng trong tâm không hề khởi một niệm sân hận, đây mới đúng thực là trụ trên mảnh đất nhẫn nhục. Người nào từng nghe qua “Kinh Kim Cang” đều biết câu chuyện này, bằng không, chắc không biết.
Trong vô lượng kiếp vào thời quá khứ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tu hạnh nhẫn nhục ở trong núi. Trong núi không có người, vậy Ngài tu hạnh nhẫn nhục với ai? Không có người lui tới thì Ngài tu pháp nhẫn nhục này như thế nào? Ngài tu nhẫn, “nhẫn” không nhất định phải có “nhục”, đây chính là nhẫn những điều người khác không thể nhẫn. Ví như trong núi có một số muỗi, muỗi đốt rất đau; thế mà bị muỗi đốt, Ngài vẫn nhẫn chịu, không xua đuổi chúng. Vì sao? Thứ nhất, Ngài muốn tu hạnh nhẫn; thứ hai, nếu Ngài xua chúng đi, e rằng những con muỗi kia sẽ hoảng sợ! Bởi vì Ngài đã tu hạnh nhẫn nhục. Đây chỉ là con vật bé nhỏ – con muỗi; thế còn những con lớn thì sao? Dù rắn đến cắn, Ngài cũng nhẫn chịu; thậm chí là cọp, Ngài cũng nhẫn chịu. Tất cả những loài côn trùng, cọp, beo muốn cắn, Ngài đều nhẫn chịu, đây là nhẫn đối với tất cả các loài súc sanh; vì không có người, cho nên tu hạnh nhẫn đối với loài súc sanh.
Có một lần, vua Ca-lợi vào núi săn bắn. Ông ta dẫn theo rất nhiều người, nào là đại thần, tướng quân, lại còn dẫn theo cả một số phụ nữ. Những cô gái này đều là nương nương, phi tần trong cung. Trong lúc săn bắn, mỗi người tự tìm lấy con mồi để săn, riêng những cô gái này không đi săn, cho nên dạo ngắm các cảnh trên núi, bỗng trông thấy một người rất kỳ quái. Kỳ quái thế nào? Tóc trên đầu người này rất dài, bện lại thành mảng giống như tấm thảm trải nhà của chúng ta; râu cũng rất dài, móng tay dài gần cả tấc, quấn quanh đến mấy vòng trên đầu ngón tay.
Vừa trông thấy vị này, các cô gái liền bảo nhau: “Đây là quái vật gì thế?”, nhiều cô sợ hãi định bỏ chạy. Thấy họ lấy làm lạ, chẳng biết mình là người hay súc sanh, vị kia liền lên tiếng: “Các cô không cần phải sợ! Tôi không ăn thịt các cô đâu!”. Các cô gái nói: “Đây không phải là quái vật, ông ta cũng biết nói chuyện giống như chúng ta vậy!” Thế là những cô sắp sửa bỏ chạy vì sợ cũng quay lại.
Người nào cũng có tâm lý hiếu kỳ, muốn xem thử người kia sao lại biết nói, nên hỏi:
- Ông làm gì ở đây?
Vị kia đáp:
- Tôi ở đây tu hành.
- Cái gì gọi là tu hành?
- Bất luận ai gây cho tôi phiền phức gì, tôi đều nhẫn chịu. Tôi ở đây tu hạnh nhẫn nhục.
Nói chuyện qua lại mấy câu, các cô gái không còn sợ hãi nữa vì thấy người này biết nói chuyện giống như mình, nên từ từ tiến lại gần hơn, vây quanh vị tu hành ấy.
Bấy giờ, cuộc săn bắn sắp kết thúc, vua Ca-lợi trở lại tìm các phi tần; nghe tiếng các cô đang ríu rít nói chuyện ở phía kia. Vì trên núi không có âm thanh tạp, nên từ xa đã nghe tiếng họ nói chuyện. Thế là vua lập tức đi đến, muốn xem thử các cô đang làm gì. Vừa trông qua, ồ! Thì ra là một quái nhân râu tóc rất dài! Nhưng không phải là một tên “híp-pi”. Quý vị không nên hiểu lầm, cho rằng híp-pi có râu tóc dài là giống như vị tiên nhẫn nhục này. Không phải như vậy! Vị tiên nhẫn nhục chuyên nhẫn nhục, còn những tên “híp-pi” lại không chuyên nhẫn nhục, chỉ chuyên muốn giết người, trộm cướp, không từ một việc xấu xa nào, đây chính là chỗ khác nhau giữa hai hạng người này.
Thấy quái nhân kia trò chuyện với người đẹp của mình như thế, nhà vua liền khởi tâm ghen tức, nghĩ: “Hừ! Gã quái nhân kia xem ra cũng có một chút bản lĩnh đặc biệt, đã mê hoặc các mỹ nữ của ta. Từ trước đến nay, những người này đều tuân giữ phép tắc trong hoàng cung, nay gặp phải gã quái nhân này thì không còn giữ gìn phép tắc gì nữa! Có thể họ đã đem lòng yêu mến gã kia rồi”. Thế là nhà vua nổi giận, quát:
- Này! Gã quái nhân kia, người làm gì ở đây thế?
Vị tiên nhẫn nhục đáp:
- Thưa Đại vương! Tôi ở đây tu nhẫn nhục!
Vua hỏi lại:
- Cái gì gọi là nhẫn nhục?
Vị tiên nhân đáp:
- Nhẫn nhục, tức là khi mọi người mắng chửi tôi, tôi cũng nhịn; mọi người đánh tôi, tôi cũng nhịn; mọi người đối xử với tôi xấu xa thế nào, tôi cũng sẽ nhịn.
Vua Ca-lợi tỏ vẻ hoài nghi:
- Ta không tin! Ngươi nhất định là kẻ lường gạt. Trên đời này, làm gì có người nào bị mắng mà vẫn nhẫn nhịn, bị đánh cũng nhẫn nhịn?
Vị tiên nhẫn nhục thưa:
- Không chỉ mắng tôi, tôi nhẫn nhịn; đánh tôi, tôi nhẫn nhịn; dầu cho có người giết chết tôi, tôi cũng vẫn nhịn.
Vua bảo:
- Mọi người đều nghe cả rồi đấy! Kẻ này dám dối gạt ta, bảo rằng nếu có người đến giết chết hắn, hắn vẫn nhịn. Được! Bây giờ để ta giết chết ngươi, xem ngươi có thể nhẫn được không?
Vị tiên nhẫn nhục nói:
- Đại Vương có thể thử!
Vua nói:
- Được! Ta sẽ thử một tý xem sao! Những việc không thể thử ta đều muốn thử xem. Ngươi cho rằng ta không dám thử ư? Hừ! Ngươi nói nếu giết chết ngươi, ngươi cũng nhẫn nhịn, nhưng bây giờ ta sẽ không giết ngươi.
Thế nhà vua làm gì nào? Ông ta rút phắt thanh bảo kiếm ra, quơ một đường, cắt đứt một vành tai của vị tiên nhẫn nhục, rồi hỏi:
- Ngươi có đau không?
Vị này vẫn thản nhiên đáp:
- Không hề gì!
Vua nói:
- Ngươi nói dối. Ta không tin bị cắt mất một tai mà trong lòng ngươi không hề khởi một niệm oán hận nào. Tai bị cắt rất đau đớn, thế mà ngươi lại nói chẳng hề gì. Được! Ta sẽ cắt luôn tai bên kia của ngươi.
Dứt lời, nhà vua lại cắt đứt bên tai còn lại của vị tiên nhẫn nhục, rồi hỏi:
- Bây giờ thế nào? Ngươi có còn bảo là không hề gì chứ?
Vị tiên nhẫn nhục vẫn bình thản đáp:
- Đương nhiên là chẳng hề gì!
Nghe thế, vua Ca-lợi càng thêm tức giận, quát:
- Ngươi dám nói dối ta ư! Bị cắt đứt hai tai mà bảo là chẳng hề gì. Được! Ta sẽ cắt luôn mũi của ngươi!
Thế là nhà vua lại cắt mũi của vị tiên nhẫn nhục. Sau đó ông ta gặn hỏi:
- Bây giờ ngươi cảm thấy thế nào? Hãy mau trả lời thành thật, không được nửa lời dối trá. Ta rất ghét những kẻ không thành thật, rõ ràng ngươi đang oán hận, thế mà lại bảo không có, chỉ toàn là dối trá.
Vị tiên nhẫn nhục đáp:
- Vẫn không hề gì, mất mũi cũng chẳng quan trọng!
- Thế thì tốt! Ngươi cho rằng không có mũi cũng chẳng sao, vậy ta sẽ chặt một cánh tay của ngươi, ngươi có oán hận không? – Nhà vua hỏi.
- Tôi không oán hận. – Vị tiên nhẫn nhục đáp.
- Được vậy thì quá tốt! Vậy ta sẽ chặt nốt cánh tay còn lại của ngươi, xem thử ngươi thế nào? Ta muốn hoàn thành đạo nghiệp cho nhà ngươi. Ngươi tu hạnh nhẫn nhục, người khác không dám đối xử với ngươi như thế, nhưng ta là hoàng đế, dầu có giết ngươi cũng không phạm tội.
Thế là nhà vua lại chặt đứt hai cánh tay của vị tiên kia, rồi hỏi:
- Thế nào? Ngươi vẫn vui vẻ chứ? Hai tay không còn, ngươi vẫn không có lòng oán hận chứ?
Vị tiên nhẫn nhục đáp:
- Đương nhiên rồi! Ngài biết rõ là tôi hoàn toàn không có lòng oán hận mà!
Lần này, vua Ca-lợi tức giận cực độ, nói:
- Vẫn không ư? Trên đời này không thể có hạng người như thế được! Đã bị chặt đứt tay mà ngươi vẫn không oán hận? Vậy ta sẽ chặt một chân của ngươi.
Nhà vua lại chặt đứt một chân của vị tiên kia, rồi hỏi:
- Ngươi đã hối hận chưa? Ngươi hành hạnh nhẫn nhục như thế, dẫn đến kết quả chân không còn, tay cũng không còn, chỉ còn sót lại một chân. Nếu bây giờ ngươi chịu nói thật, ta còn có thể lượng thứ cho. Ngươi có oán hận không?
Vị tiên nhẫn nhục vẫn đáp:
- Tôi không oán hận! Không có chân cũng chẳng sao. Chỉ cần Đại vương cảm thấy vui thì ngài cứ làm.
Nghe thế, nhà vua liền nói:
- Được lắm! Ngươi còn dám dối trá nữa ư!
Thế là ông ta lại chặt nốt chân còn lại của vị tiên nhân, rồi hỏi:
- Ngươi cảm thấy thế nào? Hai chân, hai tay đã không còn; mũi, tai cũng không còn, ngươi có oán hận không?
Vị tiên kia vẫn một mực đáp:
- Tôi hoàn toàn không oán hận!
Vua Ca-lợi cảm thấy rất kỳ lạ, nghĩ thầm: “Người này có tà pháp gì chăng? Vì sao bị cắt thịt trên người mà vẫn không đau đớn, lại còn bảo ‘nhẫn nhịn’? Hắn ta nhẫn nhịn thật hay chỉ giả vờ?”. Nghĩ thế, nhà vua lại nói:
- Ngươi nói ngươi nhẫn nhịn, vậy rốt cuộc ngươi có gì để chứng minh rằng ngươi thật sự nhẫn nhịn? Hay là ngươi moi tim ra để ta xem thử có thật trong tâm ngươi không hề oán hận, có thế ta mới tin.
Quý vị nói xem, chân tay đã bị chặt, còn phải moi tim ra cho người ta xem thử!
Thế nhưng vị tiên tu hạnh nhẫn nhục bảo:
- Tim, nếu như ngài muốn xem cũng được thôi; song, bây giờ tôi cho ngài một minh chứng (rằng thật trong tâm tôi có sân hận hay không). Ngài đã chặt đứt hai chân, hai tay của tôi, nếu như tôi sanh lòng oán hận thì trong tương lai, tôi sẽ không thành Phật mà sẽ bị đọa vào địa ngục, sau đó chuyển sanh vào loài quỷ đói, làm thân súc sanh; còn nếu như tôi không có lòng oán hận, tai đã bị ngài cắt sẽ mọc trở lại, mũi bị ngài cắt cũng sẽ khôi phục lại y như hình dạng trước kia; không chỉ có tai và mũi, mà ngay cả tứ chi cũng sẽ khôi phục lại giống như lúc chưa bị ngài chặt đứt. Ngược lại, nếu có tâm sân hận thì thân thể tôi sẽ không khôi phục lại được.
Vị này vừa dứt lời, quả nhiên tai, mũi và tứ chi đều mọc lại như cũ.
Vừa trông thấy thế, vua Ca-lợi lập tức hô lớn:
- Ồ! Hắn là yêu quái đấy! Nhanh lên! Hãy mau dùng kiếm chém hắn ta! Một mình ta không thể nào chém được!
Lệnh vừa ban ra, lập tức tất cả binh tướng đồng loạt xông lên, định chém loạn xạ nhằm bằm nát vị này ra. Ngay lúc ấy, quý vị nói xem việc gì đã xảy ra? Bấy giờ, các vị thiện thần hộ pháp, Bồ-tát Vi-đà đều nổi giận, nói:
- Ông thật là ép người quá đáng!
Thế là trời nổi sấm sét, giáng xuống đầu vua Ca-lợi. Ông ta lại bảo:
- Đó chính là do yêu quái biến hóa ra đấy! Thần thông của hắn ta lớn như vậy, phải làm thế nào đây?
Vị tiên nhẫn nhục bảo:
- Không phải do tôi dùng phép biến hóa ra, mà chính do các vị thiện thần hộ pháp muốn trừng phạt ngài đấy!
Nhà vua lo sợ hỏi lại:
- Vậy ta phải làm thế nào đây?
Vị tiên nhẫn nhục bảo:
- Ngài mau khởi tâm sám hối, bằng không thì sẽ không xong đâu.
- Vậy xin ngài hãy giúp tôi sám hối. Chỉ một mình tôi, e rằng không thể được. – Nhà vua khẩn khoản van nài.
Vị tiên nhẫn nhục liền cầu xin thiện thần hộ pháp chớ trừng phạt vua Ca-lợi. Ngài thưa:
- Các vị thiện thần hộ pháp xin chớ trách ông ta! Ông ấy là kẻ vô tri, là kẻ ngu si. Không những tôi không oán hận, mà sau này khi thành Phật, với người đã chặt tứ chi của tôi, tôi sẽ độ kẻ ấy trước tiên.
Khi nghe được lời phát nguyện này, vua Ca-lợi vô cùng cảm động, than thầm rằng: “Ôi! Bậc tu hành này thật là vĩ đại! Ta đã đối xử với người tồi tệ như thế, vậy mà người còn muốn độ ta trước nhất”. Nghĩ thế, nhà vua khóc ròng thưa:
- Nếu sau khi ngài thành Phật, tôi nhất định sẽ làm vị đại đồ đệ đầu tiên của ngài!
Tức là nhà vua muốn làm người ghi danh đầu tiên.
Sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thành Phật, Ngài độ Kiều-trần-như trước tiên – tức là người đệ tử với hiệu là “Giải bổn tế”[3], chính là vua Ca-lợi thuở ấy. Người đệ tử này, quý vị xem! Xưa kia đã gây ra lỗi lầm đối với thầy mình như thế, vị thầy ấy trái lại đối xử tốt với ông ta như thế, lại còn muốn độ ông ta trước nhất. Từ đó cho thấy, đối với Phật giáo, tất cả ân oán đều không thành vấn đề, không có vấn đề gì mà không thể giải quyết.
Từ công án này, chúng ta nên suy nghĩ và tự hỏi xem có thể giống Đức Phật Thích-ca Mâu-ni khi tu hạnh nhẫn nhục, có người chặt tay chân chúng ta, cắt tai mũi của chúng ta, chúng ta có thể nhẫn được không? Tôi hy vọng quý vị không thể nhẫn. Vì sao? Nếu quý vị có thể nhẫn, sẽ có người đến chặt quý vị; nếu không có người đến cắt tai mũi, chặt tay chân quý vị, quý vị nói mình có thể nhẫn, thì là (nhẫn) thật hay giả đây? Vấn đề chính là ở chỗ này! Nhưng tôi lại hy vọng quý vị có thể nhẫn. Nếu quý vị có thể nhẫn thì mới chứng minh được quý vị thật sự giống Đức Phật Thích-ca Mâu-ni khi còn là vị tiên nhân tu hạnh nhẫn nhục.
Vậy thì: “Tôi không mong muốn làm vị tiên nhẫn nhục giống như Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, tôi muốn làm vua Ca-lợi! Nếu có người tu nhẫn nhục, tôi sẽ chặt tay chân người ấy, cũng sẽ cắt tai mũi người ấy; rồi sau đó tôi hy vọng người đó phát nguyện sau khi thành Phật sẽ độ tôi trước tiên, tôi sẽ đỡ tốn rất nhiều công sức tu tập, mà vẫn được chứng quả”. Cách suy nghĩ này không đáng tin cậy, cũng không hợp lý. Vì sao? Nếu quý vị có thể gặp được người giống như Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thì rất tốt; song phàm phu thì không thể bì với thánh nhân được.
Đối với phàm phu chưa chứng quả, nếu quý vị cắt tay họ, họ cũng biết đau; quý vị cắt tai mũi họ, họ cũng đều biết đau; một khi đau, họ sẽ khởi tâm oán hận. Tâm oán hận vừa khởi lên, e rằng chính họ sẽ rơi vào cảnh giới A-tu-la, họ giết quý vị, quý vị chém họ, khiến cho chiến tranh thế giới ngày một lớn. Vì thế không nên học theo vua Ca-lợi. Vua Ca-lợi tuy rất may mắn gặp được Đức Phật Thích-ca Mâu-ni phát nguyện độ ông ta trước tiên, nhưng trường hợp này cũng rất nguy hiểm. Nếu như Đức Phật không phát nguyện này, quý vị nói xem, ông ta có cách nào để không bị đọa vào địa ngục? Ông ta có cách gì để có thể bảo Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhất định phải phát nguyện độ ông ta trước tiên? Trường hợp này không thể nắm chắc trong tay, sự việc này không đáng tín cậy! Quý vị nên nghĩ cách khác chứ đừng nên học theo vua Ca-lợi.
Cái “nhẫn” này phải như thế nào đây? Phải “không có nhẫn”, phải “bất nhẫn”, phải “vô nhẫn”. Nếu bất nhẫn, sao còn gọi là nhẫn? Không có nhẫn, sao lại nói nhẫn? Nếu vô nhẫn, sao Đức Phật lại nói đến nhẫn nhục Ba-la-mật? “Không có nhẫn” mới thực sự nhẫn, “vô nhẫn” cũng là thực sự nhẫn, “bất nhẫn” cũng là thực sự nhẫn. Nói vậy là sao? Vị Pháp sư này thuyết pháp chính là như thế đó! Không nói gì có đạo lý cả, muốn nói sao thì nói.
Cái gì gọi là “không có nhẫn”? Tức quý vị nhẫn, nhưng cảm giác như không có nhẫn; quý vị chớ cho rằng: “Ồ! Ta đã nhẫn, lần này ta đã nhẫn!” Đó chính là chấp trước. “Đã nhẫn”, giống như không có nhẫn; có nhẫn, cũng như không có nhẫn, nên nói: “có như không, thật như hư”(hữu nhược vô, thật nhược hư). Thí dụ như người ta mắng quý vị, quý vị nói: “Tôi đã nhẫn, nó mắng tôi!” trong tâm quý vị còn tồn tại khái niệm “mắng” đấy! Nếu quý vị “không có nhẫn”, tuyệt nhiên không biết người kia mắng, thì sẽ không có sự trình báo như thế. Căn bản ở đây chính là chỗ không thấy có nhẫn, đó gọi là “không có nhẫn”. Nếu quý vị có một cái “nhẫn”, tức là đã có chỗ dính mắc.
Có người nói: “Tôi không tin, là vì Đức Phật Thích-ca Mâu-ni vẫn còn nhớ việc đó, lúc Ngài làm vị tiên tu nhẫn nhục, bị vua Ca-lợi chặt đứt thân thể; Ngài vẫn chưa buông xả, vẫn còn chấp mắc; nếu như không có chấp mắc, tại sao Ngài còn nhớ mà kể lại?”
-Đức Phật Thích-ca nhớ chính là không nhớ; cũng như quý vị hiểu, chính là không hiểu gì cả!
Về “nhẫn nhục”, đã nói xong ý nghĩa khái quát. “Nhẫn” này, có khi dễ dàng nhẫn một lần, hai lần, nhưng đến lần thứ ba thì nhẫn không nổi nữa; một lần nhẫn không nổi thì sẽ làm mất đi công đức của những lần nhẫn trước kia! Vì thế mới nói: “Một đốm lửa nhỏ có thể thiêu rụi cả rừng công đức”.
Vị Đại Bồ-tát này tu hạnh nhẫn nhục như thế nào? “Nhu hòa thiện thuận mà không vụt chạc nóng nảy (tốt bạo), tâm cũng không kinh sợ”: nhu là mềm mỏng;hòa là không tranh giành; thiện là không ác; thuận là tùy thuận, Đại Bồ-tát tu đạo Bồ-tát, hành hạnh nhẫn nhục, nhất định phải nhu hòa thiện thuận, mà còn phải không vụt chạc hấp tấp (tốt bạo). Tốt tức là hơi đột ngột, vội vã. Làm việc với vẻ hơi vội vã, vụt chạc; sau khi làm xong, sự việc này sẽ không đúng Pháp, hợp với đạo lý, nên gọi là “vụt chạc”. Bạo tức nóng nảy, dễ nổi giận, tánh tình rất nóng nảy, dễ nổi cáu; Bồ-tát tu Bồ-tát đạo, không nên nóng nảy hấp tấp. Trước mọi tình huống, tâm vị ấy không sợ hãi. Vì sao vị ấy không sợ hãi? Chính vì có định lực.
“Lại nữa, đối với các pháp mà vô sở hành (không chấp có sở hành sở chứng), mà lại quán tướng như thật của các pháp”: Vị Đại Bồ-tát này đối với tất cả pháp, không có niệm chấp “tu hành”; vì không có ý niệm chấp trước này, nên gọi là “vô sở hành”. Vị ấy hành mà không hành, hành với tâm vô sự; làm rồi, giống như không hề có mảy may việc ấy. Thế là sao? Vì vị ấy thật sự đã buông xả! Vả lại, vị ấy quán tất cả các pháp đều là không. Với người thường, nếu quý vị nói với họ các pháp đều là không, họ sẽ không tu hành nữa, và bảo: “Các pháp đều là không, tu gì cơ chứ? Tu cũng là không, không tu cũng là không, thế cần gì phải tu?” ngoại đạo tà kiến giảng giải như thế đấy. Còn Bồ-tát quán các pháp “không”, vị ấy biết tất cả pháp đều không, mà nhận rõ được “tướng như thật” của các pháp. Các pháp vốn hoàn toàn đều là “Chân Như”, đây chính là diệu lý của “Thật Tướng”.
“Song, chẳng hành theo (chẳng chấp vào) sự chẳng phân biệt ấy”: vị này cũng không có cái thấy “không phân biệt” ấy. “Các pháp không” của ngoại đạo thì cũng là “không phân biệt”, cũng “không tu hành”; đây là cái thấy không phân biệt của ngoại đạo: “Nó là không, thì quý vị phân biệt nó làm gì?” họ tu hành theo kiểu tà kiến này; nhưng Bồ-tát không tu theo kiểu tà kiến ấy. “Đây là hành xứ của Đại Bồ-tát”: như phần trước đã giảng, đây là của “hạnh thân an lạc” của Đại Bồ-tát, chỗ tu hành của thân.
[1]Bạch Trạch 白澤: một loại thú thần. Hình dáng con Bạch Trạch:
http://zh.wikipedia.org/zh-hk/File:SekienHakutaku.jpg
[2] Trong “Đại Trí Độ Luận” của Bồ-tát Long Thọ, đoạn nói về “Trì giới độ” của Lục độ.
[3] A Nhã Kiều Trần Như (Ajnata Kaundinya): Tên Ngài có nghĩa là “giải bổn tế ” (liễu giải một cách rốt ráo, hiểu rõ tận căn nguyên), còn gọi là “tối sơ giải”, nghĩa là được “khai ngộ đầu tiên”. Kinh Lăng Nghiêm Quyển 5, đoạn 25 vị Thánh trình bày sở ngộ của mình, tức là 25 Pháp môn Viên Thông:
“Bấy giờ Thế tôn bảo khắp các vị đại Bồ-tát và các vị A-la-hán đã sạch các lậu hoặc trong đại chúng rằng; “Các ông là những vị Bồ-tát và A-la-hán sinh trưởng trong Phật pháp, đã chứng được quả vô học. Nay Như Lai hỏi các ông, lúc ban đầu mới phát tâm, ngộ tính viên thông ở giới nào trong mười tám giới? Do phương tiện gì mà được tam-muội? ”
Nhóm năm vị Tỷ-khưu Kiều-trần-như liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật rồi thưa rằng, “Chúng con khi ở Lộc uyển và Kê viên, thấy Như Lai khi mới thành đạo, nhờ nghe được pháp âm của Như Lai mà ngộ được lý Tứ Diệu Đế.”
Phật hỏi trong hàng Tỷ-khưu chúng con (về viên thông). Con là người đầu tiên giải ngộ, nên Như Lai ấn chứng cho con là A-nhã-đa (Ajnata). Tính vi diệu của âm thanh vốn là nhiệm mầu và viên mãn, con nhờ âm thanh mà chứng được A-la-hán.”
J2. GIẢI THÍCH THÂN CẬN XỨ (phân 3 phần):
K1. Thân Cận Xứ Là Lìa Xa (Ước viễn luận cận).
K2 . Thân Cận Xứ Là Gần Gũi (Ước cận luận cận).
K3. Thân Cận Xứ Là Không Rời Xa Không Gần Gũi (Ước phi viễn phi cận luận cận).
K1. ƯỚC VIỄN LUẬN CẬN: có 10 ý
L1. Xa lìa người quyền thế.
L2. Xa lìa người tà, pháp tà.
L3. Xa lìa trò hung hiểm.
L4. Xa lìa hạng Chiên-đà-la.
L5. Xa lìa hàng Nhị thừa.
L6. Xa lìa dục tưởng.
L7. Xa lìa kẻ bất nam.
L8. Xa lìa nguy hại.
L9. Xa lìa cơ hiềm.
L10. Xa lìa nuôi dưỡng.
L1. XA LÌA NGƯỜI QUYỀN THẾ
Thế nào gọi là “chỗ thân-cận” (thân cận xứ) của đại Bồ-tát? - Vị đại Bồ-tát chẳng gần-gũi quốc-vương, vương-tử, đại-thần, quan-trưởng.
Vân hà danh Bồ-tát Ma-ha-tát thân cận xứ? Bồ-tát Ma-ha-tát bất thân cận quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng.
Thế nào gọi là “chỗ thân-cận”của đại Bồ-tát?: cái gì là chỗ Bồ-tát cần nên thân cận? Thân cận tức là tiếp cận, không lìa xa, rất gần gũi. Vị đại Bồ-tát chẳng gần-gũi quốc-vương, vương-tử, đại-thần, quan-trưởng: vị đại Bồ-tát không phan duyên, dựa thế, gần gũi vua, quan, thái tử, đại thần, Không qua lại, kết bạn với vua. Đây gọi là “Vin cao kết quý”. Gần gũi vua chính là thứ tâm lý dựa thế. Vương tử tức là thái tử con vua; đại thần tức là quan lớn của quốc gia; quan trưởng tức là chỉ tất cả những người làm quan, Bồ-tát không nên giao tiếp với những hạng người này, cũng không nên qua lại với họ. Nói là không qua lại với những người làm quan, song cũng có thể qua lại với những hạng người này; đó là khi họ chủ động đến gần quý vị mà không phải là quý vị tự tìm đến, lân la gần gũi họ.
Ví như quý vị ở trong chùa, không hề có ý phan duyên, dựa thế, nhưng vị vua kia tự tìm đến kết thân với quý vị, lễ bái quý vị thì không sao, lúc này quý vị có thể tùy theo căn tánh của họ mà nói pháp, vì vậy nói “Pháp vô định pháp” chính là trong trường hợp này. Quý vị không nên cố chấp nói: “Ồ! Trong ‘Kinh Pháp Hoa’ có nói: Đại Bồ-tát tu hành, không nên gần gũi vua, vương tử, đại thần, quan trưởng!”, thế là khi người kia đến, quý vị không tiếp họ, đây là một điều sai lầm. Họ tìm đến gần gũi với quý vị thì được, chứ không phải tự quý vị tìm đến lân la với họ, trường hợp này được xem là đúng pháp. Nếu như quý vị đến chỗ của vị vua kia, nói: “Ồ! Hôm nay là sinh nhật ngài, tôi chúc ngài sống lâu, tôi sẽ tụng cho ngài một quyển ‘Kinh Vô Lượng Thọ’, phù hộ cho ngài trẻ mãi không già!”, đây gọi là gì nào? Chính là tâng bốc nịnh hót. Không nên!
Quý vị ở chốn A-lan-nhã[1] – tức là ở “chỗ yên tĩnh”, vua muốn đến tiếp xúc gần gũi với quý vị, gặp quý vị thì không sao; nhưng quý vị không được tìm cách lôi kéo ông ta đến. Nếu như quý vị dùng cách nào đó để dẫn dụ ông ta đến thì chính là quý vị đã chủ động thân cận ông ta rồi đấy. Tóm lại, quý vị nghĩ rằng: “Ồ! Nếu nhà vua đến chào mình thì tiếng tăm của mình sẽ vang dội lắm!” hoặc là: “Nếu tổng thống đến chỗ mình, sẽ như thế nào…”, từ sáng đến tối quý vị cứ vọng tưởng như vậy là sai rồi! Nên dựa vào cảm ứng. Thế nào là dựa vào cảm ứng? Hãy để cho Bồ-tát Vi-đà gọi ông ta đến! Nếu như quý vị có tu hành, Bồ-tát Vi-đà thấy biết, “A! không có người nào hộ pháp vị Bồ-tát này. Ta sẽ kiếm một đại hộ pháp đến giúp đỡ ông ta”. Thế là ngài sẽ tìm một người có thể là rất giàu để giúp quý vị; trường hợp này thì được. Vì vậy, quý vị cần phải hiểu và giảng giải đạo lý này một cách cho rõ ràng.
L2. XA LÌA NGƯỜI TÀ, PHÁP TÀ
Chẳng gần gũi các ngoại đạo Phạm-chí, Ni-kiền-tử v.v…, và chẳng gần những kẻ viết văn chương thế tục, những người ngâm nga khen ngợi sách ngoại đạo, cùng hạng Lộ-già-da-đà, Nghịch-lộ-già-da-đà.
Bất thân cận chư ngoại đạo phạm chí, ni-kiền-tử đẳng, cập tạo thế tục văn bút, tán vịnh ngoại thư, cập lộ-già-da-đà, nghịch-lộ-già-da-đà giả.
Chẳng gần gũi các ngoại đạo Phạm-chí, Ni-kiền-tử v.v…: Đại Bồ-tát chỉ nên tu học Phật pháp, tuyệt đối không thân cận với ngoại đạo Phạm-chí. Phạm-chí(Brahmacharin) tức là người xuất gia ngoại đạo. Ni-kiền-tử (nirgrantha) cũng là một trong số những phái ngoại đạo. Có sáu vị thầy dẫn đầu sáu phái ngoại đạo (lục sư ngoại đạo). Đồ đệ của họ lại phân chia thành chín mươi sáu phái ngoại đạo, vì thế nên nói vân vân (v.v…). Ni-kiền là Phạn ngữ, Trung Hoa dịch “Ly hệ”, nghĩa là: nếu xa lìa sự trói buộc, sẽ không đạt được giải thoát; vì thế, đây là một trong số các phái ngoại đạo (với giáo lý sai lầm). Và những kẻ viết văn chương thế tục: sáng tác điện ảnh thế gian, viết tuồng hát, viết những loại tiểu thuyết khiến người xem khởi lòng dâm dục, những loại này đều gọi là văn chương thế tục. Những người ngâm nga khen ngợi sách ngoại đạo: tức là khen ngợi những sách vở bên ngoài, ngoại đạo này hay như thế này… như thế này…
Cùng hạng Lộ-già-da-đà: Lộ-già-da-đà (lokayata) cũng là Phạn ngữ, Trung Hoa dịch là “ác luận”. “Ác luận” là những nghị luận xấu ác, lý luận ác hại; nói tới nói lui cũng không nêu ra được chân lý mà chỉ dạy người ta tạo tội. Như là: “Quý vị dùng drugs (ma túy, chất kích thích), dùng LSD[2] nhiều thêm chút nào thì sẽ khai ngộ thêm chút nấy; quý vị dùng ít thì khai ngộ ít. Vì thế, quý vị dùng càng nhiều càng tốt!”. Không chỉ khuyến khích quý vị dùng, mà ngay cả ông ta cũng dùng. Đây là luận điệu của người thầy phá hại đồ đệ, đó gọi là “ác luận”. Thầy đả phá, đạp đổ đệ tử, nhằm tỏ ý ông thầy trí huệ luôn cao, luôn giỏi hơn trò. Bất luận đệ tử nói thế nào cũng đều cho là không đúng; đệ tử đúng cũng thành không đúng, chính là tạo cho người một luận điệu sai lầm, không hợp đạo lý, đó gọi là hạng “Lộ-già-da-đà”.
“Nghịch-lộ-già-da-đà”: Nghịch-lộ-già-da-đà dịch là “nghịch luận”; hạng ở trên là ác luận, còn đây là nghịch luận. Thế nào là “nghịch luận”? Là hạng người chuyên xúi giục người làm chuyện ngỗ nghịch: “Này! Quý vị có thể giết chết cha mình thì mới là anh hùng!”, “Nếu quý vị có thể đánh thầy mình thì mới thật sự là trượng phu!”, “Nếu quý vị đập nát tượng Phật thì tôi sẽ đảnh lễ quý vị!”…; luận điệu này nhằm xui người làm điều ngỗ ngược, khích lệ người làm việc xấu ác.
Nghịch luận thuộc hạng người đệ tử chuyên phá hại thầy, những điều thầy nói đều không đúng, anh ta luôn cảm thấy: “Tôi là đệ tử, thầy là sư phụ, nhưng tôi giỏi hơn, tôi thông minh hơn thầy nhiều!” tức là chuyên phá thầy. Loại “Lộ-già-da-đà” ở trên là hạng người thầy chuyên phá hại đệ tử; còn loại “Nghịch-lộ-dà-đa” này là hạng đệ tử chuyên phá hại thầy. Hai bên chê bai lẫn nhau, thầy chê bai trò, trò cho rằng “có qua mà không có lại là trái lễ nghĩa” (Lai nhi bất vãng phi lễ dã – Khổng Tử), thế là anh ta lập luận nghịch lại, cũng chính là chê bai thầy mình: “Anh chớ có nghe sư phụ, nghe tôi đây này! Sư phụ chẳng có chút học thức nào đâu!”, đây gọi là hạng “Nghịch-lộ-già-da-đà”.
L3. XA LÌA TRÒ HUNG HIỂM
Cũng chẳng gần gũi các trò gây nguy hiểm, đâm nhau, đánh nhau, và bọn người Na-la v.v… cũng chẳng gần gũi các trò ma thuật biến hóa.
Diệc bất thân cận chư hữu hung hý, tương thoa tương phác, cập na-la đẳng chủng chủng biến hiện chi hý.
Cũng chẳng gần gũi các trò gây nguy hiểm: trò nguy hiểm tức là không phải trò chơi trẻ con, mà là những trò giết nhau, đánh nhau, tranh hơn thua với nhau. Những trò đánh nhau này đều không nên đi xem, không nên đi nghe. Đâm nhau, đánh nhau: tức là đấu võ với nhau, quý vị đánh tôi một đòn, tôi đánh trả quý vị một đòn. Vì thế, chẳng trách ngày nay có người phê bình, vào ngày lễ Viśākha[3] của chúng ta, không nên cho diễn tiết mục võ thuật, đấu võ. Ý kiến này cũng rất hợp lý, vì trong “Kinh Pháp Hoa” không cho phép làm như thế; nhưng chúng ta không phải là Bồ-tát, Bồ-tát mới cấm. Cần hiểu rõ điểm này, hiện tại chúng ta đều là phàm phu, phàm phu làm rất nhiều việc lỗi lầm, song không hề gì; chẳng qua là cần phải sửa đổi. Sửa đổi rồi mới thật không hề gì, nhưng nếu không sửa thì có vấn đề. Chớ lầm cho rằng: “Pháp sư nói chẳng hề gì, vậy chúng ta gây lỗi lầm nhiều thêm chút nữa!” như thế là không được.
Và bọn người Na-la v.v… cũng chẳng gần gũi các trò ma thuật biến hóa: Na-la (nata) cũng là Phạn ngữ, chính là “đại lực sĩ”. Đại lực sĩ, tức là quý vị có thể nhấc nổi năm trăm pounds[4], nhưng tôi có thể nhấc đến sáu trăm pounds! Đó là đọ sức với quý vị. Người đọ sức này muốn chứng tỏ mình là một đại anh hùng, sức tôi mạnh hơn mọi người! Bồ-tát không gần gũi hạng người này.
Lại có loại người làm trò ma thuật biến hóa; ma thuật tức là vốn không có, người này sẽ biến thành có; đang có, anh ta lại sẽ biến thành không; trong tay những kẻ này có rất nhiều mánh khóe, họ kêu quý vị đến xem và bảo đó là thật. Trẻ con xem thì ngỡ là thật; người lớn xem thì biết đó là trò biến hóa! Đây là một loại ảo thuật, người ấy dùng ma thuật biến hóa, nên biết người này chẳng phải thật sự làm ra được việc ấy. Bồ-tát cũng không xem các trò ảo thuật này.
L4. XA LÌA HẠNG CHIÊN-ĐÀ-LA
Lại chẳng gần gũi hạng Chiên-đà-la, và những kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, hoặc những người săn bắn, đánh bắt, hoặc những kẻ sống theo luật nghi ác. Những hạng người như thế hoặc có lúc lại đến, thì thuyết pháp cho họ, nhưng không có lòng mong cầu.
Hựu bất thân cận chiên-đà-la, cập súc trư dương kê cẩu, điền liệp ngư, bộ, chư ác luật nghi. Như thị nhân đẳng hoặc thời lai giả, tắc vị thuyết pháp, vô sở hy vọng.
Lại chẳng gần gũi hạng Chiên-đà-la: Chiên-đà-la (chandala) là một trong các đẳng cấp của xã hội Ấn Độ. Ấn Độ có bốn giai cấp, đó là:
(1). Bà-la-môn, chỉ giai cấp cúng tế, tăng lữ.
(2). Sát-đế-lợi, chỉ giai cấp quý tộc.
(3). Phệ-xá, chỉ giai cấp thường dân, làm nghề nông, chăn nuôi, buôn bán.
(4). Chiên-đà-la, chỉ giai cấp nô lệ.
Trong bốn đẳng cấp này, địa vị của Bà-la-môn là tôn quý nhất, giai cấp Chiên-đà-la thì là thấp hèn nhất.
Giai cấp Chiên-đà-la chuyên làm nghề giết mổ, không được ở trong thôn trấn. Con đường của những giai cấp khác đi, họ không được đi. Họ chỉ được đi vẻn vẹn trên một con đường. Ngoài đường phố, thậm chí họ phải rung chuông, còn phải đeo tấm bảng trên đầu để tự công bố cho mọi người biết mình là Chiên-đà-la, là kẻ mổ heo. Quý vị xem! Quan niệm về giai cấp, đẳng cấp ở xã hội Ấn Độ rất là gay gắt. Bồ-tát không thân cận với hạng người hàng thịt này.
Và những kẻ nuôi heo, dê, gà, chó: súc (畜) tức là chăn nuôi súc vật, chữ này, có nơi đọc là “xử” (處), vùng này đọc là “tự” (序). Không chứa, cũng không nuôi gà, chó, dê, heo. Bồ-tát cũng không gần gũi hạng người chăn nuôi heo, dê, gà, chó; cũng không gần gũi hạng người săn bắn, đánh bắt (điền liệp, ngư, bổ): “điền liệp’ tức là săn bắn, vây bắt; “ngư” tức là đánh cá, câu cá; “bổ” tức là săn bắt chim. Bồ-tát cũng không được phép săn bắt.
Có người bảo: “Nếu thế, Lục Tổ (Đại sư Huệ Năng) khi còn ở cùng những người thợ săn, cùng họ săn bắn suốt mười sáu năm thì sao?”. Đại sư Lục Tổ ở chung với những người thợ săn, nhưng bản thân Ngài không tham gia việc săn bắn.
Vừa rồi nói “Bồ-tát không gần gũi vua, đại thần, quan trưởng, vương tử”, quý vị xem, Lục Tổ ở Trung Hoa, bao lần được Vũ Tắc Thiên triệu thỉnh, Ngài vẫn không nhập triều; Hoàng đế Trinh Quán triều Đường bốn, năm phen thỉnh Tứ Tổ (Đại sư Đạo Tín), ngài vẫn không đến yết kiến, các vị ấy đều tuân thủ quy tắc này của “Kinh Pháp Hoa”.
Những kẻ sống theo luật nghi ác: và tất cả những kẻ sống theo luật nghi ác. Giống như hiện nay, những người ở đường Powell nói họ cũng là người xuất gia, nhưng lại ăn mặc kỳ dị, đến các nơi ào ào quyên tiền người ta[5]. Ngoài ra, hiện nay có một số người rất quái dị, ăn mặc quái gở; đó đều gọi là “ác luật nghi”, dáng vẻ của họ rất kỳ quái. Bồ-tát cũng không gần gũi loại người kỳ quái này.
Những hạng người như thế hoặc có lúc lại đến, thì thuyết pháp cho họ, nhưng không có lòng mong cầu: những người như vậy, giả như có lúc họ đến thì quý vị nói Phật pháp cho họ nghe, và cũng với tâm không có chút gì mong cầu, không chút gì phan duyên với họ cả.
L5. XA LÌA HÀNG NHỊ THỪA
Lại chẳng gần gũi các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà cầu quả vị Thanh Văn, cũng không xá chào. Hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh hành, hoặc trong giảng đường, không ở chung với họ. Hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ-tát theo cơ-nghi nói pháp, nhưng không lòng mong cầu.
Hựu bất thân cận cầu Thanh văn Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, diệc bất vấn tấn. Nhược ư phòng trung, nhược kinh hành xứ, nhược tại giảng đường trung, bất cộng trụ chỉ. Hoặc thời lai giả, tùy nghi thuyết pháp, vô sở hy cầu.
Lại chẳng gần gũi các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà cầu quả vị Thanh Văn, cũng không xá chào: Đại Bồ-tát cũng không gần gũi các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hạng người Tiểu thừa cầu quả vị Thanh Văn này; cũng không xá chào. Vì sao? Vì chí hướng không đồng. Nói đến vấn đề xá chào, quý vị thấy một số người xuất gia ở Nhật Bản, hễ gặp người liền chắp tay xá, đó là vì họ chưa nghe qua “Kinh Pháp Hoa”; nếu đã nghe qua kinh này, họ sẽ không như thế.
Hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh hành, hoặc trong giảng đường, không ở chung với họ: bản thân mình hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh hành, hoặc trong giảng đường, không cùng ở, cùng sống chung với người xấu ác. Người xấu ác này, trừ phi họ sửa đổi lỗi lầm thì không sao. Đến chỗ chúng ta, như Sementan, vì mong cầu Phật pháp, thì có thể được.
Hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ-tát theo cơ-nghi nói pháp, nhưng không lòng mong cầu: giả như có lúc họ muốn đến học Phật pháp, thì tùy theo căn cơ của họ mà nói pháp, nhưng cũng không phan duyên, trong tâm chẳng có mưu tính gì cả.
L6. XA LÌA DỤC TƯỞNG
Này Văn-thù-sư-lợi! Lại nữa, Đại Bồ-tát không nên nơi thân người nữ khởi sanh tư tưởng dục nhiễm mà thuyết pháp cho họ, cũng chẳng ưa thích nhìn. Nếu vào nhà người, đừng trò chuyện với gái nhỏ, xử nữ, quả phụ (tiểu nữ, xử nữ, quả nữ), v.v...
Văn Thù Sư Lợi! Hựu Bồ-tát Ma-ha-tát, bất ưng ư nữ nhân thân, thủ năng sanh dục tưởng tương nhi vị thuyết pháp, diệc bất lạc kiến. Nhược nhập tha gia, bất dữ tiểu nữ xử nữ quả nữ đẳng cộng ngữ.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni gọi một tiếng Văn-thù-sư-lợi!, tức là Ta lại nói cho ông biết những việc Bồ-tát không nên làm. Những việc gì? Lại nữa, Đại Bồ-tát không nên nơi thân người nữ khởi sanh tư tưởng dục nhiễm mà thuyết pháp cho họ, cũng chẳng ưa thích nhìn: Đại Bồ-tát không nên khi nhìn thấy người nữ liền khởi sanh tư tưởng dục nhiễm, phân tích tướng mạo cô ta cân đối như thế nào, xinh đẹp ra sao, rồi khởi tâm dâm dục. Không nên như thế! Thậm chí vừa trông thấy người nữ liền mừng rỡ, vui vẻ thuyết pháp cho cô ta. Người nam muốn thỉnh vị này thuyết pháp, ông ta không màng để ý đến, nhưng nếu là người nữ thì ông ta rất hứng thú, càng nói càng hăng, càng hăng càng nói, chỉ chuyên nói với người nữ, nói đến mấy ngày mấy đêm cũng không hết chuyện. Vì sao? Chính vì ông ta thích người nữ, có tâm dục nhiễm với người nữ.
Phải nên thế nào đây? Chẳng những không khởi tư tưởng dâm dục đối với người nữ, cũng không mong muốn nhìn thấy họ. Bởi vì thân thể người nữ không sạch sẽ, do đó người tu đạo không nên thường xuyên gặp gỡ họ, mong mỏi thấy họ. Nếu như quý vị thật sự có định lực, thì thấy cũng như không thấy, nên nói “Mắt nhìn hình sắc lòng không động; tai vẳng việc đời tâm chẳng hay” (Nhãn quán hình sắc nội vô hữu, nhĩ thính trần sự tâm bất tri), đó lại là một việc; còn như quý vị chưa có định lực, một khi xúc cảnh sẽ bị cảnh chuyển, vì vậy không nên gặp gỡ người nữ nhiều như thế.
Nếu vào nhà người, đừng trò chuyện với gái nhỏ, xử nữ, quả phụ (tiểu nữ, xử nữ, quả nữ), v.v... : giả sử có công việc gì đặc biệt, người hành Bồ-tát đạo, khi vào nhà người khác, không được trò chuyện với đứa bé gái; chẳng những không nên nói chuyện với bé gái mà ngay cả xử nữ cũng không nên. Người tu Bồ-tát đạo như quý vị, đặc biệt là phải luôn có người ở bên cạnh, (tức là phải có hai người) khi tiếp chuyện, không được một mình cùng nói chuyện với xử nữ; xử nữ là những cô gái chưa kết hôn, cũng chưa gần gũi với người nam bao giờ.
Quả nữ, tức là các cô gái sau khi kết hôn, chồng qua đời, thủ tiết thờ chồng. Người nữ thủ tiết thờ chồng, quý vị cũng không được cùng họ nói chuyện; cùng nói chuyệntức là chỉ có riêng hai người khi nói chuyện, không có người khác ở bên cạnh. Từ “等” (đẳng) trong chánh văn, tức là chỉ cho loại người: tiểu nữ, xử nữ, quả nữ; đẳng, là đẳng loại (cùng loại). Loại người này, không nên cùng nói chuyện, không nên nói chuyện riêng với nhau; cùng nói, cũng tức là nói chuyện riêng, là không có người thứ ba ở bên cạnh nghe. Đại Bồ-tát tu hành Bồ-tát đạo, không nên cùng nói chuyện như thế với những người nữ.
L7. XA LÌA KẺ BẤT NAM
Cũng lại chớ gần gũi với năm hạng người bất nam, xem là thân hậu.
Diệc phục bất cận ngũ chủng bất nam chi nhân, dĩ vi thân hậu.
Cũng lại chớ gần gũi với năm hạng người bất nam: năm hạng người bất nam này, có vị nào biết không? Nếu ai biết thì nói lại cho đại chúng cùng nghe thử! Nào, Quả Ninh!
- Đệ tử không biết (Quả Ninh đáp).
Ai biết? Ai có thể nói cho tôi nghe? Có ai biết không? Nhanh lên nào! Quả Hộ biết không?
- Đệ tử không biết (Quả Hộ đáp).
- Vì sao chú không biết? Thế Quả Dật biết không?
- Đệ tử không biết.
- Thế còn Quả Tu?
- Đệ tử cũng không biết. Sư Phụ chưa dạy con.
Quý vị thọ giới đều đã học qua, khi thẩm tra giới, đã có hỏi đến. Quả Tiên biết không?
- Đệ tử không biết.
Chà! Không ai biết cả, chẳng trách có nhiều đồng tính luyến ái đến vậy, chính là vì không biết vấn đề này! Hiện nay, đồng tính luyến ái đã trở thành hợp pháp, các cô sắp tới đây sẽ không có cơm ăn, không có ai nuôi, không có ai thèm muốn, bởi người nam đều muốn lấy người nam làm vợ rồi, chứ không muốn lấy người nữ nữa, người nữ không còn hữu dụng, cũng không cần người nữ sanh con cho họ nữa. Thê thảm quá! Sao quý vị lại cười? Phải khóc mới đúng chứ!
Năm hạng người bất nam: thế đã không phải là nam, thì là người nữ chăng? Cũng không phải nữ. Có năm loại người không phải nam, cũng chẳng phải nữ. Quý vị nói họ là nam, nhưng họ không có khả năng làm được việc thuộc về bản năng của nam giới; quý vị bảo họ là nữ, nhưng người này lại cũng không có khả năng làm được việc thuộc về thiên chức của người nữ, vì thế năm loại người này được gọi là “bất nam”.
Khi nãy không nói họ là “bất nữ” mà là “bất nam”, thế thì bây giờ tôi đặt cho họ một cái tên, cũng gọi là “bất nữ”. “Bất nam bất nữ”, quý vị nói xem, đây là thứ gì? Đây quả thật không phải là người mà là đồ vô dụng! Chẳng có một chút hữu dụng nào ở trên đời này cả, chỉ là đồ vật biết ăn! Họ không thể giúp người nữ sanh con, bản thân họ cũng không thể làm người nữ để sanh con, Quý vị nói xem, loại người như thế có phải là chẳng giúp ích được gì cho thế giới không?
“Bất nam bất nữ” này có năm hạng:
(1). Sanh (生). Người này, từ trong bụng mẹ sanh ra đã không có nam căn, cũng không có nữ căn; vừa ra đời, họ đã không phải là nam, cũng chẳng phải là nữ, nên việc thuộc về bản năng của nam giới, người này không thể làm được; và tất nhiên, cũng không thể thực hiện được việc thuộc về bản năng của nữ giới. Xưa nay, đàn ông là để giúp đàn bà sanh con; còn người đàn bà, tự bản thân họ sẽ sanh con; thế nhưng, người này vừa lọt lòng mẹ đã không thể làm được chuyện họ cần phải làm, hạng này gọi là “sanh”, tức là vừa sanh ra đã không có khả năng.
Vì sao họ trở nên như thế? Lý nhân quả này, quý vị cần phải biết! Do vì đời trước, họ luyến ái người đồng giới – hoặc giả người nữ chỉ luyến ái người nữ, hoặc giả người nam lại đi luyến ái người nam, hoặc giả họ vừa luyến ái người nam vừa luyến ái người nữ; với tính cách như vậy, cho nên họ đã trở nên nam chẳng ra nam, nữ chẳng ra nữ, có hình mà vô căn – hình dáng con người thì có, nhưng căn của con người lại không, hạng này gọi là “sanh”.
(2). Kiền (犍). Vốn là người có nam căn, nhưng anh ta lại cắt bỏ nó đi, hoặc là anh ta bị mọc một loại ung nhọt độc, khiến cho nam căn bị hư hoại; đối với người nữ cũng giống thế, hạng này gọi là “kiền”.
(3). Đố (妒). Hạng này khi thấy người nam, sanh lòng ganh tỵ, liền biến đổi thành nam; đã đành biến thì biến thành nam, có tâm lý của giới tính này, thế nhưng họ không làm được việc, không thể giao hợp. Có lúc, họ thấy người nữ, liền sanh lòng ganh tỵ, lại biến thành người nữ, nhưng cũng không có khả năng giao hợp. Tùy theo cảm xúc ganh tỵ mà họ biến đổi thành nam hay nữ. Hạng này gọi là “đố”.
(4). Biến (變). Loại “đố” ở trên, khi thấy người nam, họ liền biến thành nữ; khi thấy người nữ, lại biến thành nam, đó là do khởi tâm dâm dục; hoặc khi thấy người nam thì trở thành nam, thấy người nữ thì trở thành nữ, tất cả những hình tướng đó đều do tâm ganh tỵ mà hiện ra; còn “biến” ở loại thứ tư này, là bản thân họ tự thay đổi sau một khoảng thời gian. Thí dụ như vào lúc 12 giờ họ là người nam, đến 1 giờ họ lại biến thành người nữ, không cần phải nhìn thấy người nam, mà cơ thể họ vẫn tự biến đổi. Đợi đến hai giờ, hoặc ba giờ, hoặc năm giờ sau, họ lại biến thành người nam; vì thế, gọi loại người này là: “nam bất nam, nữ bất nữ” (nam không ra nam, nữ không ra nữ).
Sự thể của loại người này là sao? Sở dĩ họ trở nên như thế chính vì xưa kia, làm thân người nam lại đem lòng yêu thương người nam, làm người nữ lại đi yêu người nữ; hoặc trường hợp người nam, hay người nữ kia tự hành dâm một mình. Người làm ra những chuyện kiểu này thì tương lai sẽ phải lãnh chịu quả báo kiểu này, trở thành kẻ chẳng phải nam, chẳng phải nữ. Quý vị bảo họ là nam, thế nhưng họ không có nam căn; quý vị cho họ là nữ, nhưng họ lại không có nữ căn. Họ vừa có thể biến thành nam, vừa có thể biến thành nữ. Biến là biến vậy thôi, nhưng họ không có khả năng giao hợp, hoàn toàn không có năng lực này.
(5). “Bán” (半). Tức là chỉ có một nửa. Sao gọi là “một nửa”? Tức là loại người này nửa tháng biến thành người nam, nửa tháng biến thành người nữ; nửa tháng nam, nửa tháng nữ. Hạng “biến” ở trên, có thể một-hai ngày là người nam, một-hai ngày là người nữ, không nhất thiết đợi đến nửa tháng. Thế còn loại người này? Họ phải đợi đến nửa tháng, đã có được nam căn rồi, nhưng đến nửa tháng sau, lại biến thành người nữ. Đây cũng thuộc loại người “nam chẳng ra nam, nữ chẳng ra nữ”, mới thọ quả báo này.
Cho nên có nghiên cứu Phật pháp, quý vị mới hiểu được lý lẽ này, bằng không thì tuyệt nhiên không thể biết được năm loại bất nam, năm loại bất nữ này. Quý vị thấy! Phật Pháp đã bày tỏ mọi sự việc cho chúng ta một cách rõ ràng.
Năm hạng người này nếu muốn xuất gia, không được nhận, không cho phép họ xuất gia. Đức Phật không độ năm hạng người này vì họ quá xấu xa. Năm hạng người này, tư tưởng của họ rất tồi tệ, rất ô nhiễm, trong bụng họ toàn những ý nghĩ xấu, tư tưởng xấu. Vì thế, bất luận người nào, nếu có tình hình “thủ dâm” – tự hành dâm một mình; (kể cả nam lẫn nữ), thì sẽ trở thành năm hạng người bất nam, cũng chính là năm loại người bất nữ, cũng chẳng phải nam cũng chẳng phải nữ. Có thể có người cho rằng: “Đây mới chính là (cảnh giới) ‘không có tướng nam nữ’!” Nhưng đây là hoại tướng, bị gọi là “các căn không trọn vẹn” (chư căn bất cụ túc). Bản chất của “căn” này chính là “căn nam, nữ”, căn nam, nữ của quý vị đều không trọn vẹn, đây là loại người tồi tệ nhất trên đời; vì thế làm người, nhất định phải giữ gìn khuôn phép. Nếu quý vị không tuân thủ khuôn phép thì tương lai sẽ phải nhận lãnh quả báo, tức là sẽ trở thành người không được bình thường; Quý vị xem! Những người có sáu căn không toàn vẹn đều là vì đã từng làm quá nhiều việc xấu xa, vì thế mới phải nhận lãnh quả báo này.
Xem là thân hậu: thân tức là gần gũi; hậu tức là kết bạn thân với họ. Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo, không nên kết bạn thân thiết với năm hạng người bất nam, bất nữ này.
L8. XA LÌA NGUY HẠI
Đừng đơn độc vào nhà người, nếu có việc cần phải vào một mình thì nên nhất tâm niệm Phật.
Bất độc nhập tha gia, nhược hữu nhân duyên tu độc nhập thời, đãn nhất tâm niệm Phật.
Không được đến nhà người tại gia khi chỉ có một mình nhằm tránh hiềm nghi. Nếu có việc quan trọng, nhất định phải đến nhà người khác một mình, thì phải một lòng niệm “Nam mô A-Di-Đà-Phật”, hoặc niệm “Nam mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật”; chỉ một lòng chuyên niệm Phật.
L9. XA LÌA CƠ HIỀM
Nếu nói pháp cho người nữ, không được cười hở răng, không được để hở ngực, ngay cả vì pháp cũng không được thân thiết, huống chi là việc khác.
Nhược vị nữ nhân thuyết pháp, bất lộ xỉ tiếu, bất hiện hung ức, nãi chí vị pháp, do bất thân hậu, huống phục dư sự.
Nếu nói pháp cho người nữ, không được cười hở răng, không được để hở ngực: Giả như khi thuyết Phật pháp cho người nữ, không nên cười ha hả, để lộ răng ra. Quý vị thử xem! Vừa nói vừa cười không phải là một cung cách tốt! Khi quý vị nói pháp cho người nữ, không nên cười nhe hàm răng ra; nếu quý vị cười để lộ răng, sẽ khiến cho người kia khởi tâm dâm dục, hoặc bản thân quý vị có ý nghĩ không trong sáng. Cũng không nên để hở phần trên của bụng; ngực chính là phần trên của bụng.
Ngay cả vì pháp cũng không được thân thiết, huống chi là việc khác: thậm chí dù có giảng Phật pháp cho họ, cũng không được tỏ ra quá thân mật, kề vai chụm đầu. Không được như thế! Huống chi là làm những việc khác ư! Vì thế, người tu đạo Bồ-tát, cần phải thận trọng, kiểm điểm bản thân trong từng phút từng giây.
Người giảng Phật pháp cần phải trau dồi định lực; nếu quý vị có định lực thì có thể vào nước mà không bị chìm, vào lửa mà không bị cháy, giống như vàng đã được tinh chế, ví dụ như đối với loại vàng tốt nhất, quý vị lấy 10 ounces, rồi dùng lửa đốt thế nào đi nữa, nó vẫn còn đủ 10 ounces, không hề bị giảm đi một ly nào; nhưng nếu là loại vàng kém chất lượng, một khi bị nung lên, nó sẽ trở nên ít đi, không đủ phân lượng như lúc đầu. Người tu đạo cũng thế, nếu quý vị tu tập thành công thật sự, thì dù có đốt trong lửa cũng không bị biến chất, dìm trong nước cũng không bị hư hoại, đó gọi là “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”. Có thể thuận theo duyên (căn cơ chúng sanh, hoàn cảnh, v.v…) mà không biến chất, dầu không biến chất nhưng vẫn thuận theo duyên, đây là cảnh giới tột cùng không thể nghĩ bàn; nhưng nếu chưa đạt đến trình độ này thì chúng ta nhất định phải hết sức thận trọng, phải nỗ lực trong từng phút từng giây, chớ khởi vọng tưởng.
- Thế, có thể tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, đấy có phải là vọng tưởng chăng? Quý vị tùy duyên, là phải hay không phải vọng tưởng?
Không phải! Bởi vì quý vị không thay đổi (bất biến)! Quý vị có thể giữ cho không thay đổi, mới có thể tùy duyên; thường tùy duyên, thường bất biến, thường bất biến là thường tùy duyên, đây là một cảnh giới không thể nghĩ bàn, không phải là việc mà những người bình thường có thể làm được. Nhất định phải đạt đến trình độ lửa đốt cũng không chết, nước dìm cũng không chết, mới có thể nói là thật sự được cảnh giới không thể nghĩ bàn, đây là một cảnh giới đặc thù; vì thế, chúng ta tu đạo, khi chưa đạt đến cảnh giới này, nhất định phải hết sức thận trọng khi tu tập.
L10. XA LÌA NUÔI DƯỠNG
Không ưa thích nuôi đệ tử trẻ tuổi, Sa-di nhỏ tuổi, cũng không thích cùng chung một thầy với chúng.
Bất nhạo súc niên thiếu đệ tử, sa di tiểu nhi, diệc bất lạc dữ đồng sư.
Không ưa thích nuôi đệ tử trẻ tuổi: không ưa thích tức là không sẵn lòng, chứ không hẳn khăng khăng không nuôi, vì nếu có nhân duyên đặc biệt thì cũng có thể nuôi, chẳng qua là không thích nuôi mà thôi. Nếu quý vị thích nuôi, thế thì sai rồi! Quý vị thích đệ tử nhỏ tuổi, nói rằng: “Ta già rồi! Trong gia đình không có con trai, cũng không có con gái, xuất gia thâu nhận đệ tử nhỏ, hầu nó phụng sự ta. Thế là tốt lắm!” Như thế không đúng! Vì người xuất gia, người tu hạnh Bồ-tát không nên hưởng thụ, không nên bảo người khác hầu hạ mình, phục dịch mình, làm công cho mình. Người hành đạo Bồ-tát có nhiều điều bất tiện, có nhiều việc không thể làm, quý vị không thể tùy tiện. Vì thế, nếu quý vị muốn thâu nhận đệ tử nhỏ tuổi thì hoàn toàn không nên; nếu là trường hợp đặc biệt, thì cũng có thể.
Vì sao không nhận đệ tử nhỏ tuổi? Vì đệ tử tuổi còn nhỏ rất cứng đầu, ít khi chịu nghe lời. Quý vị xem! Ngay cả cha mẹ mà chúng còn không nghe lời dạy dỗ, khiến cho cha mẹ phải nổi giận, nhưng cũng đành bó tay; quý vị nói xem, nếu thu nhận nhằm đứa đệ tử ngỗ ngược như thế, từ sáng đến tối sẽ gặp phải không ít phiền lòng, vì vậy không nên thích nuôi đệ tử nhỏ tuổi. Nếu nó biết vâng lời, là đứa trẻ ngoan, quý vị bảo nó tu hành, nó liền tu hành; bảo nó không được bướng bỉnh, nó liền không bướng bỉnh, được như thế thì có thể thu nhận.
Vậy, học tập kinh điển, quý vị phải có tầm nhìn linh hoạt, không nên cứng nhắc; nói là đứa đệ tử nhỏ tuổi “chớ ưa thích nuôi”, chứ không phải hoàn toàn “không được” nuôi; nếu nó là đứa trẻ ngoan thì vẫn được nuôi. Nói thế, nhưng làm sao để biết nó ngoan hay không? Nếu không biết thì quý vị không nên mạo hiểm, không nên thâu nhận; nếu quý vị biết chính xác đứa trẻ này ngoan, có chút ít nền tảng tu hành, thì có thể thu nhận.
Đề cập đến vấn đề này, tôi lại nhớ đến chuyện thu nhận một đệ tử nhỏ tuổi quy y. Đệ tử quy y có mấy chú còn rất nhỏ, chỉ mới mười hai, mười ba tuổi, nhưng các chú rất vâng lời.
Lúc còn ở Đông Bắc (Mãn Châu), tôi nghe nói có một đứa bé tên Trịnh Đức, tính tình rất kỳ lạ. Từ lúc lên năm tuổi, hằng ngày chú đều lạy cha mẹ. Nghe nói có đứa trẻ như thế, tôi tự sanh lòng hổ thẹn bởi vì đến năm mười hai tuổi, tôi mới biết lạy cha mẹ, không bằng chú, từ lúc lên năm đã thể hiện hạnh hiếu đạo. Thế là tôi nhất định muốn gặp qua chú bé. Trong gia đình, chú không hề gây phiền phức, từ sáng đến tối, cha mẹ chú không biết thế nào là buồn, thế nào là lo.
Một hôm, khi cơ duyên đã chín mùi, tôi đến nhà chú. Gia đình chú bé ở tại huyện Ngũ Thường, cách huyện tôi ở hơn một trăm dặm đường. Lúc bấy giờ, chú bé này đã được mười hai tuổi.
Trước khi tôi đến, có rất nhiều đạo khác muốn thu nhận chú làm đệ tử; bởi vì chú là người có tiếng tăm tốt, ai ai cũng đều biết chú là một đứa con có hiếu, rất hiếu thảo với cha mẹ. Do vậy, những vị thầy ngoại đạo đều để tâm đến chú, muốn thu nhận chú làm đồ đệ, nên đã tìm gặp chú; nhưng mỗi khi trò chuyện, họ đều không thể biện luận thắng chú được. Chú hỏi: “Ngài tu đạo gì?” Vị kia đáp: “Tôi tu thân!”, rồi vị này giảng thế nào mới có thể tu thành thần tiên. Chú lại hỏi: “Thần tiên phải thế nào mới có thể thành?” Vị kia đáp: “Phải tĩnh tọa, phải hiếu thảo với cha mẹ…”
Chú liền hỏi lại: “Thế ngài có hiếu thảo với cha mẹ không?” Câu hỏi của chú khiến những vị kia không biết đường nào mà trả lời. Chú bảo: “Hiện tại, tôi phải hiếu thảo với cha mẹ trước đã, sau khi trả hiếu cho cha mẹ xong, tôi mới tu đạo”; chú lại nói: “Cha mẹ chính là Phật sống ở nhà, tôi không thể bỏ gần để tìm xa”. Lý luận này khiến các vị thầy ngoại đạo không cách gì biện luận thắng chú được, đành phải bỏ về. Rất nhiều vị thầy ngoại đạo muốn độ chú, nhưng không cách nào độ được.
Hôm tôi đến, chú ở trong nhà, đang khom người ra cửa sổ kính, vừa thấy tôi, chú liền nói với mẹ: “Mẹ ơi! Sư phụ con đến rồi!” Người mẹ ngạc nhiên hỏi lại: “Con có sư phụ khi nào?” Chú đáp: “Bây giờ thì con đã có sư phụ rồi!”. Mẹ chú thấy con hôm nay có vẻ kỳ lạ, liền mời tôi vào nhà. Lúc ở Đông Bắc, trên người luôn đeo một cái đãy, bên trong chứa đủ mọi thứ, từ kinh điển đến những đồ dùng hàng ngày; cũng giống như cái xắc của quý vị, chỉ khác là cái đãy của tôi thì khoác chéo trên người. Khi tôi vừa tiến vào cửa, chú bé trông thấy liền đón lấy cái đãy của tôi rồi khoác ngay vào người; tôi cùng chú bước vào nhà, ngồi trên cái giường lò và trò chuyện với nhau.
Tôi hỏi: “Ai bảo chú lạy cha mẹ? Có phải cha mẹ chú thích như thế?” Chú đáp ngay: “Không phải!” Tôi hỏi lại: “Thế tại sao chú phải lạy?” Chú đáp: “Vì cảm thấy ân của cha mẹ không cách gì đền đáp được, nên con lạy cha mẹ, làm cho song thân hân hoan hạnh phúc, con nhận thấy đây là điều mà người con nên làm.”. Tôi lại hỏi: “Lúc lên năm tuổi, chú còn chưa hiểu chuyện, vì sao lại muốn lạy cha mẹ?” Chú đáp: “Lúc bấy giờ, con cảm thấy làm như thế thì con rất vui sướng.” Tôi buộc miệng khen: “Tốt quá! Chú còn giỏi hơn cả ta! Phải đến năm mười hai tuổi, ta mới biết lạy cha mẹ, cũng chẳng có ai dạy ta phải làm thế cả. Thế mà khi mới năm tuổi, chú đã có thể làm được điều đó, chú đúng là một đứa trẻ ngoan, rất mực hiếu thảo.” Nghe tôi bảo thế, chú vui lắm.
Tôi lại hỏi cha mẹ chú: “Rốt cục, chú bé chỉ lạy hai người thôi, hay là có khi nào đã làm gì cho hai người tức giận không?” Người chồng đáp: “Hai vợ chồng già tôi chẳng có đạo hạnh gì, nhưng có lẽ cha tôi là người có đạo đức, nên nay chúng tôi mới sanh được một đứa con có hiếu như vậy!” Quý vị thấy đấy! Họ không tự mãn, không nói: “Ồ! Ngài thấy không, chúng tôi làm việc phải nên mới sanh được một đứa con ngoan, đã hiếu thảo với chúng tôi như thế!”. Từ điểm này, chứng tỏ người cha nhất định phải là người rất thông hiểu đạo lý.
Nói chuyện suốt một giờ đồng hồ, sau đó tôi bước xuống định kiếu từ, Trịnh Đức cũng nhanh nhẹn nhảy xuống, cầm lấy đôi giầy của tôi. Tôi cứ đinh ninh chú cầm đôi giầy đưa tôi mang và để ra về, không ngờ chú lại cầm nó chạy một mạch đến một phòng khác để giấu, sau đó quay lại nói với tôi: “Sư phụ! Hôm nay là lần đầu tiên con gặp người, nhất định phải giữ người ở lại để dùng với gia đình con một bữa cơm đạm bạc. Con không nấu món gì ngon, vả lại trong nhà con cũng chẳng có món gì ngon cả!” Nghe chú nói thế, tôi cũng rất vui. Tôi mới đến lần đầu, thế mà chú đã giữ sư phụ lại dùng cơm, chứng tỏ chú cũng rất có hiếu với thầy; nên tôi đã im lặng không nói gì, chỉ gật gật đầu. Chú liền đi làm cơm, sau đó dọn lên mời cả nhà cùng dùng.
Sau khi dùng cơm xong, tôi hỏi chú: “Này Trịnh Đức! Bây giờ con đã tôn ta làm sư phụ, vậy thì sư phụ phải nghe lời đệ tử, hay đệ tử phải nghe lời sư phụ đây?” Chú đáp: “Đương nhiên là đệ tử phải nghe lời dạy bảo của sư phụ rồi, sao có chuyện sư phụ nghe lời của đệ tử được chứ?” Tôi bảo: “Con nói vậy, thế thì tại sao chưa được sự cho phép của thầy, con lại đem đôi giày của thầy đi giấu, khi quay lại, mới mời thầy ở lại dùng cơm? Nếu như con nghe lời sư phụ, thì không nên cầm đôi giầy của thầy đi, rồi mới giữ thầy ở lại dùng cơm; con nên thưa với thầy trước, chứ không nên sử dụng thủ đoạn ép buộc, để kêu thầy ở lại. Con làm thế, há chẳng phải là bảo sư phụ phải nghe lời đệ tử sao?”
Nghe tôi nói thế, chú liền quỳ xuống trước mặt tôi thưa: “Thưa sư phụ! Con sẽ không dám nữa! Tuyệt đối không dám làm như vậy nữa! Con nghĩ rằng làm như vậy thì sư phụ chắn chắn không thể đi!” Tôi bảo: “Đã biết sư phụ chắc chắn không thể đi, há không phải là chú đã dùng thủ đoạn để cố ép sư phụ đó sao?” Chú thưa: “Bây giờ thì con đã hiểu rồi, từ nay về sau con sẽ không làm như vậy nữa! Xin sư phụ thứ lỗi cho con!”
Lúc ấy, tôi không nói gì cả, chỉ im lặng chấp thuận; vì chú ép buộc tôi là nhằm giữ tôi ở lại dùng cơm, nên chỉ còn nước im lặng mà chấp thuận thôi, chẳng còn cách nào khác! Chú cầm đôi giầy của tôi đi rồi, không có giầy thì tôi không thể đi đường, vì ở vùng Đông Bắc có rất nhiều tuyết. Không sai! Tôi có thể không cần giày mà vẫn đi được trên tuyết, nhưng rất khó chịu.
Ở Đông Bắc, mỗi năm đến mùa đông, tuyết đóng dày lên đến ba thước[6]; tôi không mang vớ, chỉ mang đôi giày la-hán thế này mà đi khắp nơi. Vì vậy, mọi người bảo: “Ồ! Vị này là người có đạo hạnh đây!”. Kỳ thật không phải thế, chẳng qua là tôi có thể chịu đựng được, không sợ rét, không sợ đói. Sở dĩ tôi nói: “Lạnh chết, đứng nghinh gió; Đói chết, ưỡn bụng đi” (Đống tử nghênh phong trạm, ngạ tử đĩnh đỗ hành) chính là ý này. Bước đầu tập luyện không mặc đồ đệm bông, cũng bị rét ghê gớm lắm; song nếu lạnh qua mức thì sẽ không còn sợ nữa!
Ở Đông Bắc, thời tiết không giống bên Mỹ, ở Mỹ không rét cóng. Chỗ vùng của tôi, lỗ tai có thể bị đông cứng, khi bị như thế thì rất đau, nếu quý vị dùng tay cào thế này, nó sẽ bị rụng ra ngay. Thật đấy! Vậy mà tôi không đội nón, lỗ tai cũng không bị đóng băng gãy lìa ra, bởi vì tôi đã quen. Ban đầu, da thịt đau hơn là bị kim châm, đau ghê gớm lắm, nhưng sau đó thì mặc kệ, không thèm để ý đến nó nữa, vậy mà cũng vẫn qua được.
Trịnh Đức hiếu thảo như thế, vừa nhìn qua, tôi biết ngay chú là người xuất gia, vì tướng mạo đầy đặn, lỗ tai lại to. Ồ! Tướng người rất có phước báo! Đứa trẻ này rất thông minh, đệ tử nhỏ được như thế thì có thể thu nhận. Nhận nhiều thêm chút nữa cũng không sao; chú ấy rất ngoan, chú ấy rất hiểu khuôn phép! tuyệt đối nghe lời răn dạy! Vì vậy, hạng đệ tử nhỏ tuổi như vậy có thể thu nhận.
Sa-di nhỏ tuổi: nhỏ tuổi tức là đứa trẻ. Sa-di nhỏ tuổi ở đây, không phải là Sa-di lâu năm, cũng không phải là Sa-di thực thụ, mà là “Khu ô Sa-di”; Khu ô Sa-di chính là Sa-di đuổi quạ. Từ tám đến mười hai tuổi, tuổi tác vẫn còn rất nhỏ. Thời xưa, các chùa thường làm ruộng hoặc làm rẫy, những con quạ thường bay đến ăn thóc lúa hoặc mổ trộm rau, nên phân công các chú Sa-di bé này ra đuổi quạ, vì vậy mà gọi là “Khu ô Sa-di”.
Sa-di (Shramanera) là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “Cần tức”; cần nghĩa là không lười biếng; tức nghĩa là không tức giận, cũng chính là “Siêng tu giới-định-huệ, đoạn trừ tham-sân-si”. Nếu quý vị có thể siêng năng tu tập giới-định-huệ, thì tham-sân-si tự nhiên sẽ dứt trừ; nếu quý vị không dứt trừ tham-sân-si, thì cũng không thể siêng năng tu giới-định-huệ. Con người thường có tâm tham rất lớn. Người có tâm tham thì thích nhàn ghét vất vả; thích nhàn tức là thích an nhàn; ghét vất vả tức là sợ làm việc. Quý vị có tâm tham thì sẽ thích nhàn, ghét vất vả; quý vị có tâm sân thì thích nổi cáu, thích tức giận; quý vị có tâm si thì rất hay vọng tưởng, muốn chuyện này không được, lại muốn đến chuyện kia, muốn chuyện kia cũng không thành công lại muốn đến chuyện nọ. Vì vậy nói: “Tối mơ nghìn con đường, sáng ra bán đậu hũ” (Dạ vãn thiên điều lộ, tảo khởi mại đậu hủ), tối ngả lưng xuống giường thì có cả nghìn con đường có thể đi; nhưng khi sáng dậy, vẫn phải đi bán đậu hũ. Đấy chính là mơ mộng hão huyền!
Nếu quý vị không dứt trừ tham-sân-si thì giới-định-huệ không thể hiện tiền. Giới, đứng đầu chính là giới “tham”; tức là chớ tham lam không biết đủ, chớ thích nhàn, sợ vất vả. Định, nếu quý vị có định rồi, chính là chỗ: “Bạn có nghìn kế hay, tôi có một thước định” (Nễ hữu thiên điều diệu kế, ngã hữu nhất định chi quy); bất luận quý vị có phương pháp gì, song tôi có định lực, quý vị nghĩ ra biện pháp thế nào cũng không lay chuyển được tôi, quý vị không cách gì khiến tôi phải phiền lòng, vì tôi có định lực. Vì vậy, “định” là dùng để đối trị “sân”, dù quý vị có nổi cáu hơn thế nữa, tôi cũng không hề gì.
Huệ là dùng để đối trị “ngu si”. Quý vị có trí huệ, ngu si liền biến thành trí huệ; nếu quý vị có ngu si thì trí huệ cũng sẽ biến thành ngu si. Hai thứ đó chỉ là một, chính là mặt trái và mặt phải, như thế này là trí huệ, như thế kia là ngu si, một mặt âm, một mặt dương. Nếu quý vị phan duyên, chạy theo trần cảnh thì chính là ngu si; nếu quý vị không chạy theo trần cảnh thì đó chính là trí huệ. Nếu quý vị sống say chết mộng, điên điên đảo đảo, đó chính là ngu si; còn quý vị thanh tịnh, không tham không nhiễm, đó chính là trí huệ.
Quý vị nhất thời thanh tịnh thì nhất thời ở Linh sơn; còn nếu quý vị thường thường thanh tịnh, thì thường thường ở Linh sơn. Linh sơn chính là đạo tràng thuyết pháp của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni; đạo tràng thuyết pháp là Linh sơn, là tỷ dụ cho sự thanh tịnh trong tâm quý vị. Cho nên nói: “Nhất thời thanh tịnh, nhất thời Linh sơn; thời thời thanh tịnh, thời thời Linh sơn”. Tất cả đều ở trên pháp hội Linh sơn, không nên tìm cầu bên ngoài, bên trong tự thân mỗi người đều có, chỉ cần quý vị hiểu rõ, biết dụng; nếu quý vị không biết dụng thì là thứ bỏ đi. Vì vậy, tu hành cũng chính ở tại nơi này!
Cũng không thích cùng chung một thầy với chúng: Không chỉ tự mình không thu nhận trẻ con làm đệ tử, cũng lại không cùng chúng thờ một vị thầy. Thế thì: “Để chúng bái sư phụ mình, xin làm đệ tử! Tư cách của sư phụ mình hơn hẳn mình, có khả năng dạy đám trẻ nhỏ, quát mắng đám trẻ nhỏ, đại khái là có bản lĩnh hơn mình!”, như vậy cũng không thể được. Nếu quý vị có cùng một thầy với chúng, chúng kêu “sư huynh”, quý vị phải quan tâm đến chúng; nếu không quan tâm thì tình cảm huynh đệ sẽ không có. Thế rồi suốt cả ngày, chúng cứ: “Sư huynh! Đệ muốn ăn kẹo!” thì quý vị phải mua kẹo cho chúng ăn. “Sư huynh! Đệ muốn ăn bánh bích-quy”, quý vị lại phải mua bánh tây cho chúng ăn. Biết bao nhiêu là phiền phức! Nhưng chỉ là “không thích chung một thầy”, chứ không phải là “không chung một thầy”; nếu như thầy của quý vị thích đứa trẻ này, quý vị cũng không thể phản đối.
Bây giờ có vẻ đã có nhiều người hiểu đạo lý rồi, khuôn phép cũng rất tốt rồi. Trước kia, khi tôi ở đường Sutter, người đến nghe kinh, quý vị nói xem họ nghe kinh thế nào? Có người nằm sấp ra đó để nghe, có người nằm dài ra mà nghe, có người chân gác lên trên ghế, đầu kê dưới gầm ghế, giống như con rắn quấn trên ghế. Vì sao lại như thế? Vì họ cho rằng đó là luyện tập Yoga, nên tôi cũng chẳng nói gì; vì lúc bấy giờ mọi người đều không biết quy củ, nên chẳng có người nào giữ khuôn phép. Đến bây giờ, có Quả Dung (Ron Epstein) hướng dẫn sinh viên đại học, những sinh viên này dù ít dù nhiều đều biết chút ít khuôn phép; vì vậy mọi người đã dần dần đi vào khuôn khổ. Vả lại, lớp hè đầu tiên, tôi cũng rất nghiêm khắc; một phút cũng không bỏ qua, năm phút cũng không cho nghỉ; bởi vậy, có người muốn gây rối cũng không được.
Đến lớp hè thứ hai, quy củ đã được chấp hành tốt hơn một chút; trước kia, vốn chẳng có người nào biết việc xá, lạy người xuất gia. Lúc ấy, có một người ngày nào cũng lạy tôi, anh ta còn nói có thể quỳ suốt bốn giờ đồng hồ – vì anh ta nghe nói có người đã quỳ trước mặt tôi bốn giờ đồng hồ, nên nói cũng làm được việc ấy. Tôi bảo: “Được! Anh làm được!”. Thế là từ đó về sau, mỗi ngày anh ta đều lạy. Tôi vốn không thích người khác lạy mình, nhưng khi đến đây, người Mỹ không thích lạy; nên giờ đây tôi thíchquý vị lạy, vì vốn không thích cũng phải thích – tôi không thích nhận người khác lạy mình thì cũng phải thích; quý vị không thích lạy, cũng phải thích!
Ở đây có Quả Địa dẫn đầu lãnh chúng, mỗi ngày anh ta đều lạy tôi; về sau có một người tên Chu-di-lặc, thấy Quả Địa lạy, liền cho rằng tôi bảo bọn họ lạy. Kỳ thật, tôi không bảo ai phải lạy tôi cả, tôi tự biết chẳng có đức hạnh gì nên không thích người khác lạy mình. Thế thì, anh ta cũng lạy, nhưng lạy với tính cách cợt nhả, đùa bỡn. Anh ta thấy mình là một nhân vật kỳ cựu nên cảm thấy xấu hổ nếu lạy tôi một cách trịnh trọng, vì vậy đã lạy với cái dáng vẻ hài hước như thế. Sau khi làm trò hề, anh ta cảm thấy chẳng còn mặt mũi nào mà đến nữa.
Đến nay, Phật Giáo Giảng Đường đã có một số quy củ, vả lại những người Mỹ này cũng lập ra nguyên tắc: không nói chuyện; tôi rất tán đồng việc này, bởi vì tôi cũng không thích nói chuyện. Quý vị cũng không cần nói chuyện với tôi, tôi cũng không nói chuyện với quý vị, mọi người đều bớt đi sự phiền phức. Bây giờ thì tốt rồi, rất có quy củ so với trước kia! Thế còn sau này? Tôi tin rằng càng ngày sẽ càng tốt hơn, bởi vì mọi thứ ở nước Mỹ này đều rất đẹp (mỹ), vậy thì quy củ chắc chắn sẽ không xấu, thiện mỹ.
[1] 阿蘭若 Aranya: Nói tắc là Lan-nhã, dịch là núi rừng, đồng hoang. Chỉ những nơi yên tĩnh vắng vẻ, thích hợp cho những người xuất gia tu hành để cư trú. Còn dịch là “tịch tĩnh xứ”, nơi vắng lặng, nơi không tranh giành. Đến đời sau, tất cả chùa chiền, tịnh xá đều gọi là A-lan-nhã, phần nhiều cách xa nơi phồn hoa đô hội, là những chỗ yên tĩnh tiện cho người xuất gia tu hành, và người tại gia ra vào lễ bái. (Phật Quang Đại Từ Điển)
[2] LSD - Lysergic acid diethylamide: một loại ma túy có tác động gây ảo giác (hallucinogens) rất mạnh đến thân tâm, người dùng vào cảm thấy như là “khai ngộ” vậy. Rất thịnh hành đối với những người trong phong trào hippy vào thập niên 60’s.
[3] Visakha hay Vesak - ngày lễ Tam Hợp, tức là ngày kỷ niệm 3 sự kiện lớn của Phật Giáo: ngày Đức Phật đản sanh, Đức Phật thành đạo và Đức Phật nhập Niết-bàn.
[4] Đơn vị đo lường của Anh, Mỹ. 1 pound=454 gram
[5] Nhóm Hare Krishna
[6] Ở đây hoàn toàn dùng thước Trung Hoa. 1 thước TH=1/3 mét.
K2. ƯỚC GẦN LUẬN GẦN
Thường thích ngồi thiền, ở chỗ thanh vắng, tu nhiếp tâm mình. Văn-Thù-Sư-Lợi! Đó gọi là “chỗ thân-cận” (thân cận xứ) đầu tiên.
Thường hiếu tọa thiền, tại ư nhàn xứ, tu nhiếp kỳ tâm. Văn Thù Sư Lợi, thị danh sơ thân cận xứ.
“Thường thích ngồi thiền”: Việc ngồi thiền này, nếu như quý vị ưa thích thì mới có thể ngồi được; bằng không thì dù có ngồi thiền cũng chẳng ích gì. Nhóm người trong lớp hè hiện nay của chúng ta có thể nói đều là những người thường thích ngồi thiền; thường thích ngồi thiền chính là điều kiện quan trọng nhất của người tu tập Bồ-tát đạo. Còn không thích ngồi thiền thì sao? Không thích ngồi thiền thì chắc chắn là thích tán loạn.
Tọa thiền sẽ đạt được định lực; thế thiền là chỉ ngồi chăng? Là ngồi mà không phải ngồi. Trước khi quý vị ngồi, không phải là ngồi; sau khi quý vị ngồi, cũng không phải là ngồi; khi đang ngồi thiền, đó chính là ngồi. Trên thực tế, luận về thiền thì quý vị đứng cũng là thiền, ngồi cũng là thiền, đi cũng là thiền, ngủ cũng là thiền. Nếu quý vị hiểu rõ về “thiền” thì đi, đứng, nằm, ngồi cũng đều là thiền; có điều, trước khi hiểu rõ về “thiền”, quý vị cần phải ngồi thiền trước đã. Khi đã đạt được thiền rồi thì dù quý vị đi, đứng, nằm, ngồi gì cũng đều không xa rời thiền; thiền chính là quý vị, quý vị cũng chính là thiền; thiền luôn theo quý vị, quý vị cũng luôn theo sát thiền như hình với bóng, muốn lìa xa cũng không thể được. Đó chính là định lực, là ngồi thiền.
Giảng đi giảng lại, rốt cuộc “Thiền” là gì? Gì cũng không phải. Nếu quý vị cho Thiền là một cái gì đó thì ngay đó đã có chỗ chấp trước rồi. Gì cũng không phải là không có chỗ bám chấp, nên nói: “Đây là cách nói không vướng vào một hạn định nào cả” là rất đúng! Nếu như có hạn định thì không phải là Thiền. Thiền là vô hạn định, cũng chính là không. Không ấy làm cho quý vị phát sinh định lực, phát sinh tam-muội.
Thiền là một nửa âm tiếng Phạn, gọi đủ là “Thiền-na”. Thiền-na là âm tiếng Phạn (Dhyana), Trung Hoa dịch là “Tư duy tu” hay “Tĩnh lự”, tức ngồi yên một chỗ mà tu tư duy, mà tĩnh lự (tĩnh tâm suy xét). Nếu quý vị không biết dụng công thì chỉ ngồi đó mà khởi vọng tưởng. Quý vị chớ khởi vọng tưởng mà nên đánh vọng tưởng (khởi vọng tưởng và đánh vọng tưởng, tiếng Hoa đều là “đả” vọng tưởng); đánh cho vọng tưởng tháo chạy thì sẽ không còn vọng tưởng nữa.
Quý vị không nên cho rằng “đánh vọng tưởng” là một từ ngữ mang nghĩa xấu, đánh “vọng tưởng” là một từ rất có ý nghĩa. Quý vị có thể đánh đuổi vọng tưởng, đấu tranh với nó; vọng tưởng vừa xuất hiện, quý vị liền dùng chày hàng ma đánh nó một chày chết ngắt. Bị đánh chết rồi, vọng tưởng lại đợi có cơ hội liền phục sinh; quý vị lại dùng chày hàng ma đánh chết nó; lại một vọng tưởng sinh khởi, quý vị lại tiếp tục dùng chày hàng ma đánh chết. Thế khi dùng chày hàng ma đánh chết vọng tưởng, có lúc nó sống trở lại, vậy phải làm sao đây? Lúc ấy dùng đến kiếm trảm ma. Vừa thấy vọng tưởng xuất hiện, quý vị liền chém nó một nhát, nó sẽ không thể sống lại được! Bởi vì kiếm trảm ma rất lợi hại. Quý vị chém chết vọng tưởng, trí huệ của quý vị liền sanh khởi, vì trí huệ chính là kiếm trảm ma. Quý vị có trí huệ, tức có kiếm trảm ma; quý vị không có trí huệthì cũng giống như không có kiếm trảm ma vậy.
Có người bảo: “Tôi nghe kinh đã lâu rồi, nhưng chưa từng nghe vị nào giảng như vậy!” Vì sao cứ nhất định phải giống như quý vị đã từng nghe? Kinh thích giảng thế nào thì giảng thế nấy, miễn là như Pháp, phù hợp với đạo lý là được, thăng thiên độn thổ giống như rồng vậy. Vậy chày hàng ma là gì? Chính là định lực của quý vị. Quý vị có định lực chính là có chày hàng ma; không có định lực tức không có chày hàng ma. Giờ quý vị đã rõ cả rồi chứ? Quý vị ngồi thiền sẽ phát sanh định lực; có định lực rồi thì vọng tưởng sẽ bị đánh chết. Quý vị càng dụng công ngồi thiền thì sẽ phát sanh huệ lực. Huệ lực chính là sức mạnh của trí huệ; có huệ lực rồi thì vọng tưởng sẽ bị giết chết.
Vì vậy câu: “Thường thích ngồi thiền”, tức luôn sẵn lòng tu tập định lực, đây là chỗ Bồ-tát nên tu hành. Vậy phải ngồi thiền ở đâu? Nếu vào trong rạp hát, vừa xem kịch vừa ngồi thiền được không? Đến rạp chiếu phim, vừa xem phim vừa ngồi thiền được không? Nếu quý vị biết ngồi thiền thì đến chỗ nào cũng đều thiền được cả; còn như không biết thì không thể được. Biết ngồi thiền thì “Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền; nói năng yên lặng, động tĩnh thể vẫn an nhiên”[1]; “Trong mộng rành rành có sáu nẻo; tỉnh ra rỗng lặng chẳng ba nghìn”[2]. Nếu như quý vị đã giác ngộ, thì ba nghìn đại thiên thế giới đều không hiện hữu, huống chi những thứ khác? Khi quý vị nằm mộng mới có sáu nẻo luân hồi, sanh sanh tử tử, tử tử sanh sanh; cái này quý vị không buông bỏ được, cái kia cũng xả không xong, “Ồ! Đây là chồng tôi!”, “kia là vợ tôi!”, “nọ là cha, mẹ tôi!”, một đống bên này lôi, bên kia kéo, thật là vô vị.
Hai là phải nên thế nào? Nếu quý vị chưa có định lực, nên ngồi thiền “ở nơi thanh vắng (tại ư nhàn xứ)”. Có vị lại bảo: “Gì chứ nói đến việc đó tôi hiểu rõ, tức làkhông cần phải làm việc, từ sáng đến tối nhàn nhã, thảnh thơi, như vậy rất hợp với bản chất của tôi! Tôi vốn không thích làm việc, thế thì tôi sẽ đi ngồi thiền!”. “Nhàn” ở đây có nghĩa là nơi không ồn náo, tức là nơi thanh vắng, là chốn A-lan-nhã. A-lan-nhã là nơi yên tĩnh, không huyên náo. Trường hợp chữ “nhàn” này, quý vị đừng nên hiểu giống nhưQuả Tiên: “ ‘môn ngoại hán’ có phải là ‘La-hán’ không?’ ”, khiến tôi tức cười quá! “Môn ngoại hán” làm sao có thể là “La-hán” được? “Môn ngoại hán” nghĩa là người chẳng hiểu biết gì cả. Tôi nghe câu này cảm thấy thật là – Ồ! Thì ra người Mỹ học tiếng Hoa cũng có chỗ rất hay của họ! “Môn ngoại hán” lại có thể biến thành “A-la-hán”? Có thể tương lai sẽ trở thành A-la-hán, chứ hiện tại thì chưa!
“Tu nhiếp tâm mình”: tu là tu hành, nhiếp là giống như dùng đá nam châm hít lấy tất cả các thỏi sắt. Vậy chúng ta phải nhiếp cái gì? Nhiếp tâm, nghĩa là quý vị không để cho tâm mình chạy lung tung. Quý vị hỏi: “Tâm tôi cũng biết chạy sao?” Tâm quý vị không biết chạy ư? Nó không những chạy mà còn chạy xa đến mười vạn tám ngàn dặm, không biết chạy về hướng nào! Niệm trước chạy đến Âu châu, niệm sau chạy đến Úc châu, niệm tiếp sau nữa chạy đến tận Á châu, biết cả việc đại bác ở Việt Nam đang nhả đạn “đoàng, đoành, đoành” giết chết rất nhiều người. Cứ như vậy, không cần dùng tiền, cũng không cần mua vé mà quý vị có thể dạo chơi khắp năm châu bốn biển. Quý vị cho như thế là quá rẻ, kỳ thật, quý vị đã sử dụng rất nhiều năng lượng(“xăng dầu”) tự tánh của mình, chỉ là quý vị không cảm biết được mà thôi. Xăng dầu dùng để làm gì? Nó có thể dùng để thắp sáng, nếu quý vị dùng hết dầu rồi thì ánh sáng sẽ không còn, chung quanh sẽ trở nên tối tăm. Điều tôi giảng đây là có đạo lý đích thực của nó, nếu quý vị hiểu rõ, không dùng nhiều dầu như thế nữa thì rất có lợi ích cho việc tu hành; còn nếu quý vị không thấu hiểu, sau này dùng hết dầu rồi, tâm quý vị sẽ trở nên tối tăm và sẽ đi vào đường ngạ quỷ.
Vì vậy, Mạnh Tử nói: “Người ta để xổng gà chó thì biết đi tìm; như thả rong tâm thì lại không biết đi tìm, than ôi!” Người ta nuôi gà chó, nếu nó chạy mất thì còn biết đikhắp nơi tìm. Ô! Gà của tôi mất tiêu rồi, chó của tôi không biết chạy đến nơi nào, thế là vội vã đăng báo tìm: “Chó của tôi đi mất, nếu người nào nhìn thấy, xin gọi điện thoại đến địa chỉ…sẽ gặp được tôi!”; trái lại tâm của quý vị chạy mất thì lại không biết đi tìm. Như tôi vừa mới nói, không cần mua vé mà nó vẫn có thể dạo khắp năm châu; thậm chí phi thiên độn thổ, chạy lên trời, xuống lòng đất cũng không cần phải mua vé. Quý vị cho như vậy là rất lời mà không biết rằng mình đã lạm dụng xăng dầu tự tánh quá nhiều và ánh sáng trí tuệ của quý vị cũng sẽ theo đó lụi tàn dần!
Giảng đến đây, quý vị cần phải thật sự biết rõ sự tác hại của vọng tưởng, từ đó không được tùy tiện khởi vọng tưởng. Quý vị nghĩ: “đứa con nhỏ của mình không biết hiện giờ thế nào rồi?” Rồi lại nghĩ: “chị tôi, em gái tôi hiện giờ ra sao nhỉ?” Hoặc là: “anh tôi, em trai tôi, ba mẹ tôi…”, quý vị cứ vọng nghĩ đến những vấn đề này thật chẳng có chút lợi ích gì! Đó là chưa tu nhiếp được tâm mình. Quý vị tu nhiếp tâm là sẽ không phóng tâm; nếu quý vị còn phóng tâm thì tức là chưa tu nhiếp được tâm. Giờ quý vị đã hiểu rõ đạo lý này rồi chứ? Luận về đạo lý “tu nhiếp tâm mình” có rất nhiều, không thể nào giảng nói hết được, tôi chỉ có thể giảng một phần nhỏ mà thôi.
Thứ nhất, phải “A ngũ dục (trách ngũ dục)”; a là quở trách, là làm náo loạn ngũ dục. Sao gọi là ngũ dục? Rất đơn giản, tất cả quý vị đều biết, chẳng qua chỉ biết người mà không biết tên đó thôi – quen biết người này, “ồ! Thì ra là anh ta!” Thế anh ta tên gì? “Tôi không biết, quên mất rồi!”, đây gọi là không biết tên.
Thế ngũ dục là gì? Chính là sắc, thanh, hương vị, xúc; cũng chính là tài, sắc, danh, thực, thùy. Sắc là sắc trần, chạy theo sắc trần; thanh là chạy theo thanh trần; hương là tâm quý vị chạy theo hương trần; vị là chạy theo vị trần; xúc là chạy theo xúc trần. Tóm lại, quý vị luôn bị các thứ giả tạm ấy mê hoặc, vì mê nên tự tánh quý vị không phát sáng được. Các thứ giả tạm ấy là gì? Chính là “ngũ dục”.
Quý vị trách ngũ dục, tức là náo loạn nó, mắng nó, quở trách nó: “Này! Tâm ngươi không nên chạy theo sắc trần!” Quý vị vừa quở trách, tâm này liền bảo: “Ồ! Không nên chạy theo nó!”. Giống như đệ tử không vâng lời, không nghe kinh, quý vị quở trách nó: “Không được ngủ! Chớ có lười biếng!”, nó liền tự nhủ: “À! Lần này phải siêng năng lên chút nữa mới được!”; dục cũng như thế, nếu tâm quý vị chạy theo sắc trần, quý vị quở trách nó: “Quay lại!” nó liền quay lại. Nếu quý vị muốn nghe đàn piano, muốn nghe tiếng vang ‘ù ù’ của máy bay đang bay trên trời, quý vị lập tức ngăn cản tâm mình: “Ô! Không nên nghe âm thanh này! Âm thanh này không giúp ích cho việc tu tập!” thì tâm liền quay lại. Hương, vị, xúc cũng vậy. Người tu đạo không nên dính mắc nơi hương, nơi vị, cũng không nên dính mắc nơi xúc; quý vị chớ cho rằng không dính mắc vị, nhưng dính mắc xúc chắc chẳng có việc gì? Không thể được. Do vậy, cần nên quở trách nó; đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, quý vị phải dạy chúng một cách nghiêm túc, đây gọi là “quở trách ngũ dục”.
Kế đến, phải “Vứt bỏ ngũ cái”. “Khí” tức là quẳng bỏ đi, không cần đến nữa; “cái” là che đậy. Sao gọi là ngũ cái? Ai biết thì nói tôi nghe thử nào! Tôi cũng muốn học hỏi thêm. Không ai biết à? Ngũ cái rất đơn giản, e tôi vừa nói ra, quý vị lập tức hiểu ra ngay và bảo: “Ồ! Hóa ra là cái này!”; nhân lúc tôi chưa giảng, quý vị thử nghĩ xem: “Ngũ cái là gì? Che đậy chỗ nào?” Nó che đậy “định” của quý vị, che đậy “huệ” của quý vị; vì bị nó che đậy nên định của quý vị không sanh ra được, huệ cũng chẳng xuất hiện. Vì sao vậy? Vì bị nó che kín. Nếu quý vị không muốn bị ngũ cái che đậy, thì phải quẳng nó đi, không cần nó nữa!
Sao gọi là “ngũ cái”? (một vị đệ tử đáp: “Cái”, có hai cách dịch: nghĩa thứ nhất là che đậy, tức nó giống cái đồ để đậy; nghĩa thứ hai là cái nắp vung. Nghĩa thứ hai này không hợp với nghĩa trong đây nên thường thì ít khi giảng đến). Tôi cho rằng đó là câu trả lời hay, nghĩa chữ “cái” ở đây chính là che đậy. Ngũ cái gồm:
(1). Tham dục. Tham gì? Tham, không chỉ đơn thuần có “tham” mà là tham dục. “Dục” này là thứ tệ hại nhất, cũng là thứ tốt nhất. Phàm việc gì cũng đều có hai mặt, quý vị không nên chỉ nhìn phiến diện một mặt. Thế nào là thứ tệ hại nhất? Quý vị có tham dục: tham tài, sắc, danh, thực, thùy; tham sắc, thanh, hương, vị, xúc, đây là tham dục. Tuy nhiên, có loại tham dục rất tốt là tham giới, tham định, tham huệ, đấy đều thuộc về tham. Quý vị thường thích ngồi thiền, đây là do tâm tham mà có, nhưng tâm tham này không có gì phải ngại. Quý vị tham thành Phật, tham thành Bồ-tát, tham làm người tốt, tham làm một đệ tử hiếu thuận, đó đều là những tâm tham tốt. Đối với tôi mà nói, tôi thích nhất là đệ tử hiếu thuận; còn quý vị thì sao? “Ồ! Tôi thích có một sư phụ tốt nhất để tôi có thể nương theo học Phật pháp.”, đây là tâm tham của quý vị! Những kiểu tham này đều có thể chấp nhận được. Phật pháp mà tôi giảng là viên dung vô ngại, quý vị bảo nó không tốt, tôi lại cho là tốt; quý vị cho là tốt, tôi lại bảo nó không tốt. Loại “cái” đầu tiên là “tham dục”, quý vị đều rõ cả rồi chứ? Lớp che đậy thứ nhất này có thể che đậy lên định của quý vị, che đậy lên huệ của quý vị.
(2). Sân nhuế là tính nóng giận. Tính nóng này là cái mà mọi người gọi là: “Gom củi ngàn ngày, một mồi thiêu rụi”, quý vị gom củi suốt một ngàn ngày, chỉ cần một que diêm là thiêu rụi hết cả. Quý vị xem! Que diêm chính là sự nóng giận. Quý vị tạo công đức trong ngàn ngày, chỉ cần khởi lên một niệm nóng giận thì tất cả công đức kia đều bị thiêu rụi. Đấy chính là: “Một đốm lửa nhỏ thiêu sạch cả rừng công đức”. Tôi thường nhắc nhở quý vị đây là chỗ tai hại của sân. Sân hận như thế nào thì tai hại như thế ấy; tuy nhiên, nó cũng có chỗ tốt. Tốt thế nào? Là khi quý vị tự trách: “Hừm! Vì sao mình không tu hành? Vì sao mình không thể chế phục được tánh nóng giận của mình? Vì sao mình không thể giết chết con rồng độc trong chính mình?”. Quý vị nói cái sân này không tốt sao? Kiểu giận mình như vậy là tốt, đó chính là: “khắc kỷ phục lễ”, tức có bản lĩnh tự khắc phục, tự điều chế. Nếu quý vị có được loại sân phản tỉnh này là tốt đấy!
(3). Thùy miên (ngủ). Ngủ cũng là một tật rất xấu, nhưng cũng là một tính rất tốt. Nếu quý vị ngủ quá nhiều cũng thật không tốt, nó sẽ khiến cho quý vị trở nên ngu si giống như lợn, không một chút thông minh. Nói vậy thì: “Không ngủ được chăng?”. Không được, cũng cần phải ngủ! Quý vị ngủ được thì tất cả mỏi mệt sẽ không còn, đó cũng là điều tốt; nhưng không nên ngủ nhiều quá, không được tham ngủ quá. Quý vị ham ngủ nhiều là một tật xấu, nếu ngủ vừa đủ thì nó là liều thuốc tốt. Giống như chúng ta, nếu không ăn cơm thì bụng chắc chắn sẽ đói và nó sẽ kiếm chuyện với quý vị, chiến đấu với quý vị, nó sẽ kêu lên “rột, rẹt, rột” như muốn bảo: “Ái da! Sao không cho tôi ăn cơm đi?” Khi đói bụng sẽ kêu vang như sấm – sấm dậy trong bụng, nên đói quá cũng không được, bụng sẽ réo ầm ĩ. Nhưng quý vị ăn quá no cũng không xong, trong bụng sẽ lại nổi lên bão táp; lại phải chạy ra nhà vệ sinh không biết đến mấy mươi lần, tình trạng giống như núi đổ đất nứt, nước biển chảy mãi không dừng, đó là hậu quả của việc ăn quá no! Ăn vốn là việc tốt, nhưng nếu ăn quá no thì lại trở thành xấu, còn như không ăn thì cũng không được. Ngủ cũng vậy, quý vị cần phải ngủ, nhưng không nên ngủ quá nhiều. Do vậy, ngủ cũng là một thứ che đậy, nếu quý vị không điều tiết tốt thì nó sẽ trở thành một thứ che đậy; bằng như làm tốt thì sẽ vén mở được bức màn che đậy. Quý vị vất bỏ ngũ cái, tức vén mở bức màn che đậy thì sẽ không còn bị che đậy nữa.
(4). Trạo hối. Ví như có người này ngồi ở đó, nhưng dáng vẻ cứ làm sao ấy, ngồi không vững, đứng cũng không yên, cứ hết ngẩng lên rồi lại cúi xuống, đó gọi là “trạo hối”.
(5). Nghi hoặc: “Nghi” là hoài nghi; “hoặc” có “thô hoặc, tế hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc”. Cho nên người tu đạo một khi khởi lên nghi hoặc thì đó cũng là một loại che đậy. Giống như đối với những pháp mà Pháp sư giảng, quí vị cho rằng: “Những pháp mà Pháp sư giảng đều là pháp phương tiện, không có căn cứ chi cả, thuyết pháp như thế không đáng tin cậy” và thế là sanh tâm hoài nghi. Pháp sư bảo quý vị “quở trách ngũ dục”, quý vị lại nói: “Tôi thấy ông ta cũng đâu có quở trách nó đâu!”. Pháp sư bảo “quăng bỏ ngũ cái”, quý vị lại nói “Pháp sư còn tâm tham lớn như vậy, ông ta cũng chưa quăng bỏ ngũ cái được! Vì vậy ông ta bảo tôi bỏ, tôi không bỏ!”. Quý vị xem, người này đã khởi tâm hoài nghi rồi đấy!
Đã “quở trách ngũ dục”, “quăng bỏ ngũ cái” lại còn phải “điều ngũ sự”. Điều là điều hòa. Còn năm việc là gì? Đó là những việc chúng ta nên làm mỗi ngày. Bao gồm:
(a). Điều hòa ăn. Quý vị nói xem! Có ngày nào quý vị không ăn cơm không? “Có một lần, tôi không ăn đến mấy ngày liền, đó là lúc chạy nạn, bị người Nhật càn quét đến nỗi không còn chỗ để chạy, cũng không có cơm để ăn!”. Thời gian ở Hương Cảng, vì tránh cảnh người Nhật truy đuổi, mọi người phải chịu cảnh không có cơm ăn trong nhiều ngày, nên rất nhiều người bị chết đói. Ăn điều độ ở đây là không nên ăn nhiều, cũng đừng nên ăn ít. “Ồ! Tôi sẽ tuyệt thực rồi, tuyệt thực trong một tuần.” Đến ngày thứ sáu thì không chịu nổi nữa, rồi ăn dồn ăn dập khiến bụng không còn chỗ nào để chứa, phải dọn đến khu nhà mới (tỷ trí khu) (ý Hòa thượng dạy ở đây là đi vệ sinh) (tỷ trí khu là tiếng Quảng Đông, chỉ cho khu nhà gỗ, khu tái định cư – từ dùng trong những thập niên 50 – 60; về sau bãi bỏ hình thức này, thành lập “chính phủ liêm tô ốc” (nhà chính phủ cho mướn với giá rẻ)]. Hương Cảng có khu tái định cư, cán bộ quản lý ở đây rất bận. “Tỷ trí” tức là dời nhà, chính phủ giao trách nhiệm dời nhà cho những cán bộ này. Quý vị ăn quá no sẽ phải làm công việc “dời nhà”; cũng như cán bộ quản lý của khu tái định cư bận rộn suốt cả ngày, ban đêm còn phải tiếp tục làm việc; ăn uống không điều độ cũng giống như thế. Do vậy, quý vị đừng nên quá tiết chế việc ăn uống; cũng không nên tùy tiện, ăn uống quá nhiều.
(b). Điều hòa ngủ. Trong cuộc sống hằng ngày của con người chỉ có hai vấn đề là ăn và ngủ. Quý vị phải biết điều độ, nếu không sẽ dễ sanh bệnh. Vì vậy, ăn uống cần phải “không đói, không no” (bất cơ, bất bão), quý vị không nên để quá đói, cũng đừng để quá no. Nếu đói quá, thì không thể tu nhẫn; bằng như no quá, cũng không thể tu nhẫn, cái bụng nhẫn không nổi. Còn về ngủ, cần phải “không tiết chế, không phóng túng” (bất tiết, bất tứ); không nên ngủ quá nhiều, cũng không nên ngủ quá ít. Quá ít là nghỉ ngơi không đủ; quá nhiều là nghỉ ngơi vượt quá mức cần thiết, cả hai đều không được.
(c). Điều hòa thân. Thân này, không nên để nó quá nhàn rỗi, cũng không nên bắt nó làm việc quá sức, nên “không thả lỏng, không thúc ép” (bất khoan, bất cấp). Tinh thần của chúng ta có thể ứng phó được bao nhiêu thì làm bấy nhiêu công việc; bởi vì bản thân của quý vị cần phải có một chút cống hiến cho cuộc đời này, tức là phải làm một chút công việc gì đó.
(d). Điều hòa hơi thở. Hơi thở tức thở ra hít vào; hơi thở cần phải “không rít, không trơn” (bất sáp, bất hoạt). Rít, tức thở quá chậm; trơn, tức thở quá nhanh. Hít thở quá nhanh hoặc quá chậm đều không phù hợp với phương pháp dưỡng sinh.
(e). Điều hòa tâm. Quý vị có thể “điều hòa ăn, điều hòa ngủ, điều hòa thân, điều hòa thở” được đều do tâm niệm điều hòa mà ra. Điều hòa tâm phải thế nào? Phải “không trầm, không phù” (bất trùm, bất phù). Trầm là chìm xuống; phù là nổi lên. Điều hòa tâm là phải làm cho tâm không quá hôn trầm, cũng không quá xốc nổi, giữ tâm luôn ở trạng thái an tịnh.
Đó gọi là “điều ngũ sự”. Tu nhiếp tâm mình chính là phải “quở ngũ dục, bỏ ngũ cái, điều ngũ sự”, đây là phương pháp tu nhiếp tâm.
“Này Văn-thù-sư-lợi! Đó gọi là “chỗ thân cận” đầu tiên”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni gọi một tiếng “Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi!” Và bảo, ông nên làm được điều đó, vì đấy là chỗ thân cận đầu tiên của Bồ-tát.
[1] “Hành diệc thiền, tọa diệc thiền, ngữ mặc động tĩnh thể an nhiên” (“Chứng Đạo Ca” ).
[2] “Mộng lý minh minh hữu lục thú
Giác hậu không không vô đại thiên”
“Chứng Đạo Ca” của Đại sư Vĩnh Gia Huyền Giác.
K3. THÂN CẬN XỨ LÀ KHÔNG LÌA XA KHÔNG GẦN GŨI (phi viễn phi cận)
Lại nữa, Đại Bồ-tát quán tất cả pháp là “không”, như thật tướng, chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thoái, chẳng chuyển, như hư không, tánh vô sở hữu. Tất cả ngôn ngữ đều dứt bặt, chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh, không tướng, không thật có, vô lượng, vô biên, không ngại, không chướng, chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sanh. Nên nói: Thường ưa quán pháp tướng như thế, đó gọi là “chỗ thân cận” thứ hai của Đại Bồ-tát.
Phục thứ, Bồ-tát Ma-ha-tát quán nhất thiết pháp không, như thực tướng, bất điên đảo, bất động, bất thối, bất chuyển, như hư không, vô sở hữu tính. Nhất thiết ngữ ngôn đạo đoạn, bất sanh, bất xuất, bất khởi, vô danh, vô tướng, thực vô sở hữu, vô lượng, vô biên, vô ngại, vô chướng, đãn dĩ nhân duyên hữu, tùng điên đảo sinh. Cố thuyết: thường lạc quán như thị pháp tướng, thị danh Bồ-tát Ma-ha-tát đệ nhị thân cận xứ.
Lại nữa: tức nói lại lần nữa. Lặp lại một lần nữa ý ở trên, Đại Bồ-tát quán tất cả pháp là “không”: Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo, quán tất cả các pháp là “không”. Quán, tức trí huệ năng quán (chủ thể quán); tất cả pháp “không”: đây là cảnh sở quán (đối tượng bị quán). Quán cảnh giới gì? Sao lại gọi “tất cả”? Ý nói Đại Bồ-tát này phải quán tất cả cảnh giới của mười pháp giới – mười pháp giới này, không ngoài một ý niệm hiện tiền của tâm (thập pháp giới bất xuất hiện tiền nhất niệm tâm); từ một niệm của tâm sanh ra mười pháp giới. Trong mười pháp giới, có “pháp giới tứ thánh”, và “pháp giới lục phàm”.
(1). Trước tiên, chúng ta nói đến pháp giới cao nhất, “pháp giới Phật”. Làm thế nào để được thành Phật? Chính là vì quý vị tự giác, giác tha, hạnh giác viên mãn mà được thành Phật. Sao gọi là “tự giác”? Tự giác tức là tự mình khai ngộ, hiểu rõ tất cả pháp. Tự mình đã hiểu rõ tất cả pháp, nhận thấy lý ấy vi diệu, không thể nghĩ bàn, vì vậy sẵn lòng nói cho người khác biết về đạo lý vi diệu, không thể nghĩ bàn này, đây gọi là “giác tha”. Tự giác đã viên mãn, giác tha cũng viên mãn, đây gọi là “hạnh giác viên mãn”; hạnh giác viên mãn chính là Phật. Phật chính là bậc Đại giác, không việc gì mà không rõ; nên nói: “Biết những gì người khác không biết, Ngộ những gì người khác không ngộ”, nên được tôn xưng là “Đại Giác Thế Tôn”. Mọi người trong thế gian và vượt ngoài thế gian đều sùng bái Phật, đây là pháp giới Phật; “pháp giới Phật” cũng không nằm ngoài một niệm hiện tiền trong tâm quý vị.
(2). Pháp giới Bồ-tát. Bồ-tát không dễ làm, việc các Ngài làm đều tự lợi, lợi tha, tự giác, giác tha; nhưng các vị ấy chưa viên mãn hạnh giác, chỉ có Phật mới viên mãn hạnh giác. Bồ-tát hành Lục độ vạn hạnh, tu hành bố thí, xả đầu mắt tủy não, đất nước vợ con, nội tài, ngoại tài. Sao gọi là “ngoại tài”? Tức tất cả những vật chất quý báu ngoài thân; sao gọi là “nội tài”? Tức đầu mắt tủy não, những thứ nằm bên trong cơ thể. Tất cả những thứ ấy đều xả bỏ.
Bố thí chia làm ba loại: thí tài sản, thí pháp và thí vô úy. Nội tài và ngoại tài nói ở trên chính là thí tài sản. Thí pháp, tức các vị đã học hiểu Phật pháp, gặp người khác bèn thuyết giảng Phật pháp cho họ nghe, đây là bố thí pháp. Thí tài là cứu giúp thân mạng của người, thí pháp là cứu giúp huệ mạng của người. Thí vô úy, tức khi người này đang khốn khổ, gian nan, sợ hãi thì các vị có thể an ủi họ, khiến cho tâm họ không còn sợ hãi.
Đã thế, còn phải trì giới, các vị ấy nghiêm trì giới luật, không làm các điều ác, vâng làm các điều lành; lại tu nhẫn nhục, tu tinh tấn, ngày đêm sáu thời luôn tinh tấn; các vị ấy cũng tu thiền định, lại tu trí huệ. Bởi vì các vị Bồ-tát tu Lục độ vạn hạnh, tự lợi lợi tha – lợi mình, lợi người, đây gọi là “pháp giới của Bồ-tát”. Pháp giới của Bồ-tát cũng không ra khỏi một niệm hiện tiền của tâm, cũng đều ở trong tâm cả; khi tâm quý vị có ý muốn hành đạo Bồ-tát thì thân quý vị liền hành đạo Bồ-tát, tương lai quý vị sẽ là Bồ-tát.
(3). Pháp giới Duyên giác. Duyên giác, là những vị do tu “Mười hai nhân duyên” mà ngộ đạo. Mười hai nhân duyên gồm: vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử. Duyên giác lại chia thành hai loại: người ra đời gặp Phật, tu mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, gọi là “Duyên giác”; người ra đời không gặp Phật, tự tu mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, gọi là “Độc giác”.
Độc giác là bậc chỉ làm lợi cho bản thân, không sẵn lòng làm lợi cho thiên hạ. Sao gọi là chỉ làm điều tốt cho bản thân? Các vị ấy cho rằng thế giới này là xấu xa, mọi người đều xấu xa, vì không muốn nhiễm sự xấu xa, muốn tu hành, nên đã xa lánh cuộc đời, tách rời hẳn những người ở thế gian. Họ một mình chạy đến núi sâu hang thẳm, ở chốn A-lan-nhã tu hành, trong suốt nhiều năm không hề gặp một bóng người lai vãng, chỉ “xuân nhìn trăm hoa nở, thu thấy lá vàng rơi”. Vào mùa xuân, nhìn thấy trăm hoa đua nở, những vị này cảm ngộ nói: “Ồ! Đây mới thật là diệu, không thể diễn tả bằng lời, hoa cũng đã nở rồi!”. Mùa thu đến, họ nhìn thấy lá trên cây rơi xuống mặt đất, nhìn lại cây, mùa xuân thì cành lá xanh tươi, nở hoa kết trái; khi mùa thu về, lá rụng tả tơi, họ cũng cho đấy là lý rất vi diệu. Nó tự sanh, tự diệt, đó là hình ảnh của vô thường; vì cảm nhận được sự vô thường của vạn vật, họ bèn tìm đến cái thường hằng.
Vậy cái gì là “thường hằng”? Họ liền nghĩ đến mười hai nhân duyên. Bước đầu, họ nghiên cứu “vô minh”; vô minh cũng chính là tên khác của phiền não. Quý vị không thấu hiểu (minh bạch), thì sẽ sanh phiền não; khi phiền não sanh, quý vị liền muốn làm, muốn thực hành; thực hành rồi, sau đó liền có thức – có hành vi, thì sẽ có ra một cái bóng, bóng này chính là “thức”, cũng chính là “chủng tử”. “Vô minh” này cũng chính là thứ “tình” không trong sáng (thanh tịnh) giữa nam nữ; đã có thứ tình không trong sáng này, liền có hành vi – dẫn đến có hành vi tình dục. Khi có hành vi tình dục, sau đó liền có thức, có chủng tử; sau khi có chủng tử, liền có danh sắc, tức có tên gọi là “(bào) thai”. Đã có danh sắc, tiếp theo sau sẽ có lục nhập; lục nhập chính là sanh ra mắt tai mũi lưỡi thân ý. Đã có lục nhập, liền có xúc – có cảm giác, có tiếp xúc. Khi tiếp xúc, sẽ có cảmthọ (feeling), từ đó sẽ sanh ra một thứ tâm ái; khi tâm ái sanh, liền muốn chiếm đoạt để sở hữu riêng (thủ). Vì có tâm sở hữu, nên lại có quá trình tái sanh ở kiếp sau; có sanh thì phải có tử. Đây là mười hai nhân duyên.
Các vị Duyên Giác tu mười hai nhân duyên này, nghiên cứu vấn đề này, vỡ lẽ ra: A! Vô minh diệt thì hành cũng sẽ diệt; hành diệt, thức cũng sẽ không có; không có thức, danh sắc cũng sẽ không; danh sắc không, tự nhiên lục nhập cũng không; mà không có lục nhập, tức quý vị không có thân; thân không có thì làm gì có xúc; mà đã không có xúc thì sẽ không có thọ; không có cảm thọ thì không sanh ra ái; ái không sanh, thì không muốn chiếm đoạt, không chiếm đoạt thì không có sở hữu; không sở hữu, thì sẽ không có sanh; đã không sanh, thì làm gì có già chết! Các ngài nghiềm ngẫm đi, rồi nghiền ngẫm lại mười hai nhân duyên, cuối cùng được khai ngộ; vì vậy gọi đó là hàng Duyên giác, còn gọi là Bồ-tát Duyên giác, tức Bồ-tát mới phát tâm.
(4). Pháp giới Thanh văn. Thanh văn, là những vị tu “Tứ đế” mà ngộ đạo; Tứ đế chính là “Khổ, Tập, Diệt, Đạo”. Về khổ, có ba khổ, tám khổ cho đến vô lượng các khổ.
Ba khổ, là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Khổ khổ, tức khổ trong cái khổ, nghĩa là đã nghèo cùng lại còn khốn khổ; nghèo cùng là không có cơm ăn, không có quần áo mặc, cũng không có nhà để ở. Có một căn nhà nhỏ, lại bị lửa thiêu rụi; vừa mới dựng lại, thì lại bị nước lũ cuốn phăng, đấy gọi là khổ khổ. Hoại khổ, tức người giàu sang, không có cái khổ của hạng nghèo cùng, nhưng sự giàu sang của họ không lâu dài, hoặc có khi bị hỏa hoạn khiến phải trắng tay, hoặc bị trộm cướp lấy sạch tiền của. Hành khổ, tức từ nhỏ đến tráng niên, từ tráng niên đến già, từ già đến chết, niệm niệm biến đổi, niệm niệm không dừng, từ trẻ con thay đổi thành người lớn, từ người lớn biến đổi thành người già, từ người già biến đổi thành người chết; sự biến đổi không dừng như thế cũng là một cái khổ.
Tám khổ, tức sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Khi sanh ra đời, chúng ta rất đau đớn; khi già đi, cũng rất đau khổ; bị bệnh lại càng khổ hơn, đến khi chết thì càng khổ hơn nữa.
Xưa kia, có ba người bạn già cùng ngồi uống rượu với nhau rất hào hứng; trong đó, một người tuổi ngoài sáu mươi, một người ngoài bảy mươi, và người còn lại đã ngoài tám mươi tuổi. Người nhỏ tuổi nhất trong số họ, nhìn hai người bạn già và ước chừng: “Hai người họ đã già thế này, chắc sắp chết rồi đây!”, vì vậy ông ta liền ngâm nga: “Năm nay tiệc rượu tưng bừng uống, chẳng biết sang năm thiếu những ai?”, ý là năm nay ba người chúng ta cùng uống rượu ở đây, nhưng qua năm sau, không biết người nào trong số chúng ta sẽ chết đây? Nghe thế, người ngoài bảy mươi tuổi đáp: “Chao ôi! Ông bạn nói chi mà xa xôi thế!”, “Vậy ông cho là thế nào?”, “Tôi cho là, hôm nay còn cởi giày cùng vớ, chẳng biết ngày mai còn cởi không!” tức không biết ngày mai có còn được mang giày và vớ nữa không. Ông lão ngoài tám mươi tuổi liền nói: “Ồ! Ông anh vẫn còn nói chuyện quá xa!”, nghe vậy, cả hai người kia đồng loạt hỏi:
“Ông cho rằng nói thế vẫn còn xa, vậy ông anh nói thế nào?”. Ông lão ngoài tám mươi liền nói: “Ôi chao! Tôi nói thế nào à? Hơi tôi vừa thở ra, không biết có còn hít vào nữa không!”, tức sanh tử không nói đến tình nghĩa, nó chẳng một chút khách sáo với quý vị, khi hơi thở quý vị đưa ra, không biết rồi có còn hít vào được nữa không! Đây là “chết khổ”.
Người xưa từng bảo: “Lão tăng tự có pháp an tâm, tám khổ khởi lên cũng chẳng nhằm” (Lão tăng tự hữu an tâm pháp, bát khổ giao tiên diệc bất phương), lão tăng này nói, ta có một phương pháp an tâm, dù cho tám khổ tiếp nối nhau ta cũng không sợ, chẳng hề gì, không có gì quan trọng cả. Vì vậy, đối với khổ, nếu quý vị có định lực thì khổ cũng biến thành vui; bằng không có định lực, thì vui cũng sẽ biến thành khổ.
Thanh văn tu pháp Tứ đế, đầu tiên là biết Khổ. Thứ hai là đoạn Tập, tập là phiền não; phiền não có rất nhiều loại, được chia thành ba nhóm: đại, trung và tiểu phiền não, nếu nói chi tiết thì rất dài. Thứ ba là ngưỡng mộ Diệt, diệt tức tịch diệt, tức chứng đắc Niết-bàn. Thứ tư là tu Đạo[1]. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni khi vừa thành đạo, Ngài đã nói pháp Tứ đế – ba lần chuyển pháp luân Tứ đế, độ năm Tỳ-kheo; năm vị này vừa nghe pháp Tứ đế xong liền khai ngộ.
Thanh văn và Duyên giác là hai bậc thánh của hàng Nhị thừa, hợp chung với “Phật, Bồ-tát”, gọi là “pháp giới Tứ thánh”. Còn có “pháp giới lục phàm”, chính là: trời, a-tu-la, người, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục.
(5). Pháp giới Trời. Trong pháp giới lục phàm, hàng cao nhất là “trời”, người không hiểu Phật pháp, cho rằng sanh về thiên đường ở nước trời là tuyệt nhất, sung sướng nhất; thật ra, cõi trời này còn nằm trong phạm vi của pháp giới lục phàm, chưa thoát khỏi luân hồi, vẫn còn trong vòng luân hồi nơi sáu nẻo. Người cõi trời tuổi thọ rất dài, người ở cõi “trời Phi phi tưởng xứ” thọ đến tám mươi nghìn đại kiếp; sau khi tuổi thọ hết, họ vẫn phải bị đọa lạc, vẫn phải trở lại nhân gian. Khi nghiệp thiện chín mùi, thì chuyển sanh vào đường lành; khi nghiệp ác chín mùi, thì phải chuyển sanh vào đường ác. Trời cũng có nhiều cõi.
(6). Pháp giới A-tu-la. A-tu-la là âm Phạn (Asura), Trung Hoa dịch là “Vô đoan chánh”, tức dung mạo của loài này vốn rất xấu xí; còn gọi là “Vô tửu”. Tuy dung mạo của a-tu-la vốn dĩ xấu xí, thế nhưng dung mạo của a-tu-la nữ thì lại rất đẹp. A-tu-la chính là “đấu tranh kiên cố”[2], thích đấu tranh, thích chiến đấu; vì vậy, trong các cõi: trời, người, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục đều có mặt của a-tu-la. Hạng a-tu-la này, ở đâu cũng đều có mặt, vì vậy có khi kể hạng này trong “ba đường lành”, cũng có khi liệt chúng vào trong “bốn nẻo ác”. Cõi trời, người, a-tu-la thuộc ba đường lành; cảnh giới súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục thuộc về “ba đường ác”; hoặc cảnh giới a-tu-la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, gọi chung là bốn nẻo ác.
(7). Pháp giới người. Chỉ nghiên cứu ngay nơi chúng ta mà nói, quý vị cho rằng con người có bao nhiêu chủng loại? Ngoài các nhân vật chính trị như Tổng thống, Quốc vụ khanh, Bộ trưởng ngoại giao, còn có những nhân vật rất giàu có, xem như đại phú ông bậc nhất bậc nhì trên thế giới; thế còn những người nghèo? Ngay cả một mảnh đất cắm dùi cũng không có. Có người thì quá xấu xí, ai nhìn thấy cũng phải ghét bỏ; nhưng cũng có người lại quá đẹp, vừa nhìn thấy là mọi người đều yêu thích ngay. Có người rất kỳ quái, lại có người quá mập, nặng đến một-hai nghìn pounds, đến nỗi qua không lọt khung cửa nhà, thậm chí ngay cả cửa lên xuống trên xe bus, anh ta cũng không vào lọt; nếu như anh ta muốn đi du lịch ở nơi nào đó, thì phải chế tạo riêng một chiếc xe bus đặc biệt, hoặc một chiếc máy bay đặc biệt để phù hợp với vóc dáng to lớn như thế của anh ta. Cũng lại có người quá gầy, gầy đét không có đến một chút thịt, giống như que củi vậy.
Quý vị hỏi: vì nhân duyên gì mà có ra những tình trạng phú quý, nghèo hèn, ốm mập, cao thấp, đẹp xấu sai biệt như vậy? Bây giờ tôi chỉ nói bao quát: người gieo nhân phú thì được hưởng quả báo phú; gieo nhân quý thì được hưởng quả báo quý; quý vị gieo nhân bần thì nhận lãnh quả báo bần. Tất cả đều do trồng nhân mà ra quả, giống như người mập, đại khái họ nghĩ: “Ồ! Tôi rất thích mập!” chính là họ đã trồng nhân mập, thì nay phải nhận lãnh quả mập, còn ú hơn cả chú lợn ú. Chỉ trong cõi người, đã có vô số hình dáng, không ai giống ai cả.
(8). Pháp giới súc sanh. Thế quý vị bảo súc sanh có bao nhiêu chủng loại? Quả là đếm không hết.
(9). Pháp giới ngạ quỷ. Ngạ quỷ cũng vậy, cũng có rất nhiều chủng loại, chứ không phải chỉ có một hay hai loại quỷ mà thôi.
(10). Pháp giới địa ngục. Địa ngục cũng có rất nhiều loại.
“Pháp giới lục phàm” cộng thêm “pháp giới tứ thánh”, được gọi là “mười pháp giới”. Thế mười pháp giới từ đâu mà có? Đều từ một niệm hiện tiền trong tâm của chúng ta. Hàng ngày, nếu quý vị cáu giận, đấy gọi là “lửa vô minh, thần khí cọp, đây là gốc tội chướng của đời trước” (vô minh hỏa, lão hổ thần, giá thị tiền sanh tội nghiệt căn). Khi quý vị giận dữ thì chẳng khác nào cọp; quý vị phát ra lửa giận dữ thì sẽ đến cảnh giới của a-tu-la. Nếu tâm quý vị đầy dẫy tham, sân, si thì sẽ bị đọa vào trong ba đường ác “địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh”. Nếu quý vị mong muốn tu Tứ đế – Khổ, Tập, Diệt, Đạo thì sẽ đến pháp giới của hàng Nhị thừa. Nếu quý vị mong muốn tu Bồ-tát đạo, thành Phật thì quý vị phát tâm Bồ-đề, tu Lục độ vạn hạnh, tương lai quý vị sẽ thành Phật. Vì vậy nói:
“Nếu ai muốn hiểu rõ
Chư Phật trong ba đời
Nên quán pháp giới tánh
Tất cả do tâm tạo”
Nhược nhân dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhất thiết duy tâm tạo.
Người nào muốn hiểu rõ tất cả chư Phật trong ba đời, tức tất cả các Đức Phật ở đời quá khứ, đời hiện tại và đời vị lai, thì nên quán xét nhân duyên của “mười pháp giới”, tánh của các pháp giới này đều được tạo thành từ trong tâm của quý vị. Vì vậy, tôi thường thích giảng về chữ “tâm” này:
Ba chấm tợ sao giăng
Uốn cong như trăng liềm
Mang lông từ đây có
Thành Phật cũng do đây
Tam điểm như tinh bố
Loan câu tự nguyệt nha
Bì mao tùng thử khởi
Tác Phật diệc do tha.
Ba chấm giống như các ngôi sao bày bố, quý vị viết chữ “tâm” (心) có hình dạng uốn cong hình lưỡi câu, giống y như trăng lưỡi liềm. Mang lông, tức là làm súc sanh; làm súc sanh cũng khởi đầu từ nơi tâm này mà ra; quý vị muốn tu hành thành Phật, cũng không ngoài nơi tâm này. Vì vậy, nói mười pháp giới không lìa một niệm hiện tiền trong tâm của tôi và của quý vị. Tâm của quý vị ở nước Phật, tương lai quý vị sẽ đến được nước Phật; nếu tâm quý vị duyên nơi địa ngục, tương lai quý vị sẽ đọa địa ngục; tất cả đều do tâm tạo, không sai chạy mảy may.
Như thật tướng: thật tướng, chính là cội gốc của tất cả tướng; cội gốc của tất cả tướng chính là vô tướng. Nếu từ nơi hữu tướng mà tìm, thì quý vị sẽ không tìm ra được cội gốc của “tướng”; nếu từ trên vô tướng mà tìm, thì quý vị sẽ tìm được cội gốc của “tướng”.
Bồ-tát quán thấy tất cả pháp đều là không, như thật tướng. Quán thấy mười pháp giới đều là “không”, cảnh giới đều là “không” thì giống như gì nào? Tức giống“như thật tướng”. Không tuy là “rỗng không”, nhưng trong cái không lại có cái “hữu” – trong “Chơn Không” sanh xuất “Diệu Hữu”. Vì vậy mới nói: “Chơn Không bất không, chẳng ngại Diệu Hữu; Diệu Hữu phi hữu, chẳng ngại Chơn Không”, Chơn Không chẳng phải không ngơ, mà từ đó sanh ra Diệu Hữu; Diệu Hữu cũng chẳng phải thật hữu, vì nó cũng chính là Chơn Không.
“Chơn Không” cũng chính là tên khác của “thật tướng”. Thật tướng chính là cội rễ của tất cả tướng; cội rễ của tất cả tướng chính là vô tướng. Nếu từ nơi “hữu tướng”, quý vị sẽ không thể tìm ra cội rễ của “tướng”; nếu từ trên vô tướng, quý vị sẽ tìm được cội rễ của “tướng”. Vì vậy, khi quý vị quán tất cả pháp “như thật tướng”, thì trong không tham, ngoài không cầu; quý vị không tìm kiếm ở bên ngoài, cũng không tìm cầu ở bên trong, trong ngoài đều không! Nội không, tức sáu căn “mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý”; ngoại không, tức sáu trần “sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp”, khoảng giữa không, tức sáu thức, “nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức”. Quán sáu căn cũng không, sau đó lại không cả sáu trần, và không cả sáu thức. Quán “mười hai xứ” đều không, “mười tám giới” cũng đều không. “Quán tất cả các pháp không tướng(Tâm Kinh, Kinh Kim Cang)” tất cả pháp đều không, nhưng không là không cái gì? Chẳng phải là không có, mà là “như thật tướng”; vì vậy, sự vi diệu không thể nghĩ bàn là chính tại chỗ này.
Thế thì mỗi ngày tham thiền, tĩnh tọa để làm gì? Đây là “như thật tướng”. Vì quý vị không hiểu ý nghĩa của “thật tướng” nên không hiểu (bất giác), không biết (bất tri); bây giờ tôi nói cho quý vị biết: tham thiền, tĩnh tọa chính là “như thật tướng”! Khi quý vị tham thiền, bên trong sáu căn rỗng không, bên ngoài sáu trần rỗng không, khoảng giữa sáu thức rỗng không; sáu căn, sáu trần, sáu thức đều rỗng không, mười tám giới đều rỗng không, tức đến được Vô sở hữu xứ[3], đến tầng trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ - không phải nói linh hồn của chúng ta xuất ra, lên trên trời, đến tầng trời Phi phi tưởng xứ; mà ngay khi quý vị vô sở hữu (“không có gì cả”), đó chính là cõi trời Phi phi tưởng xứ[4]. Không cần phải lên trên mới là tầng trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ, mà ngay nơi này, nếu quý vị có thể “như thật tướng”, tức là đã ở cảnh giới Phi phi tưởng xứ thiên rồi.
Tu đạo, phải có sự bền lòng (hằng tâm), phải có tâm thành (thành tâm), lại phải có tâm kiên cố (kiên cố tâm). Tâm kiên cố giống như gì nào? Giống mũi khoan kim cương; quý vị không cách nào phá vỡ nó được, nhưng nó có thể phá vỡ được tất cả mọi vật. Tôi học Phật pháp, bất luận gặp cảnh giới gì, tôi cũng nhất định học Phật pháp, không gì có thể thay đổi được tư tưởng của tôi, nhất định phải vững chắc. Lập chí phải vững chắc, ở trong bất cứ cảnh ngộ nào, tôi cũng nhất định phải học Phật pháp; bất luận gặp ma chướng gì, tôi cũng phải học Phật pháp. Tôi tuyệt đối phải có tâm kiên cố, tâm chân thật để học Phật pháp! Bởi vì trong nhiều đời nhiều kiếp, nếu chúng ta không từng làm ngựa thì làm trâu, không làm trâu thì làm chó, cũng có khi làm cả chuột; thậm chí nói đến những thứ nhơ uế, chúng ta có thể đã từng làm con giòi trong bãi phân. Đừng nói chi đến giòi trong bãi phân, mỗi người chúng ta nếu quay lại quán sát tự thân, xem bãi phân trong bụng mình, mỗi người đều không biết là có bao nhiêu côn trùng trong người? Giống như chim Bồ câu, quý vị thấy nó là chim Bồ câu, nhưng trên thân nó có rất nhiều côn trùng đang cắn rút; bản thân nó có lúc biết, có lúc không biết. Chúng ta cũng vậy, bên trong lớp da của chúng ta, không biết có bao nhiêu vi khuẩn, bao nhiêu vi trùng? Tức không biết có bao nhiêu chúng sanh ở trong cơ thể chúng ta?
Vì vậy nói “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, chưa nói đến chúng sanh vô biên ở bên ngoài, chỉ tính bên trong cơ thể chúng ta, quý vị nói xem có bao nhiêu chúng sanh? Quý vị có thể đếm hết không? Những chúng sanh này, nếu quý vị độ chúng không được, chúng sẽ độ ngược lại quý vị! Độ thế nào? Quý vị đi theo chúng, quý vị từ một con trùng lớn lại biến thành một con trùng nhỏ. Tính linh của loài trùng nhỏ rất kém, vì vậy chúng rất ngu xuẩn, đần độn, chỉ biết ăn đồ của người ta, chỉ biết xin của người ta chứ không biết bố thí. Quý vị cũng biến ra như nó, vì vậy mà uống máu người, ăn thịt người; ở trong bụng, người ta ăn vào chút thức ăn ngon, thì chúng chiếm đoạt trước, và cho vậy là ưu thế; trên thực tế, đấy chính là do tâm san tham tạo thành.
Vậy thì muốn độ chúng, quý vị phải làm thế nào đây? Phải làm cho tự tánh của quý vị ngày một nhiều ánh nắng, đầy dương khí; đây cũng có thể nói là ánh nắng mặt trời, ánh nắng mặt trời chứa tia tử ngoại, có thể giết phần lớn vi khuẩn. Hiện nay nói đến việc dùng quang học để diệt vi khuẩn, các bác sĩ đều mượn tia tử ngoại để diệt vi khuẩn; nếu quý vị có thể dùng ánh nắng của chính mình làm lợi khí, thì có thể diệt hết những vi khuẩn trong cơ thể. Như thế có phạm giới không? Quý vị nghĩ như vậy là quá thông minh rồi! Giống như có người muốn thọ giới Bồ-tát, đến hỏi tôi: “Ồ! Nếu thọ giới Bồ-tát, khi chạy xe trên đường, tôi cán chết rất nhiều côn trùng, vậy có phạm giới không?”. Vị này nghĩ rất chu đáo, nhưng anh ta không nghĩ một khi mình nổi cơn tức giận, còn nguy hại hơn cả việc giết chết chúng sanh! Anh ta quên việc này lại nhớ đến việc kia. Tôi đã bảo anh ta: “Đây là lỗi vô tâm, anh đâu muốn giết chúng. Trong hoàn cảnh như vậy, gặp nhân duyên như vậy, chứ không phải anh cố tình giết chết chúng. Anh có thể vừa chạy xe, vừa niệm: ‘ Nam mô A-di-đà Phật’, để hồi hướng cho những chúng sanh bị anh giết, bởi vì không phải anh thích giết chúng. Nhưng nếu như anh biết rõ mà cố phạm, hay anh thích giết chúng, thì là có lỗi rồi.”
Giống như trước kia, tôi biết có một người làm quân nhân, về sau học Phật pháp, rồi quy y Tam Bảo; sau đó; thấy người khác xuất gia rất tốt, anh ta cũng xuất gia. Sau khi xuất gia, anh ta chuyên niệm Phật – trước kia khi chưa xuất gia, anh ta cũng niệm Phật, lại còn ăn chay, không sát sanh. Sau khi xuất gia, anh ta thọ giới tại chùa Nam Hoa, là đệ tử thế hệ thứ hai của Hòa Thượng Hư Vân, với pháp danh là Hoằng Huy, rất có tài ăn nói. Về sau, khi đảng cộng sản kéo đến, anh ta không ở Giang Tây được nữa, nên đã chạy đến Hương Cảng. Tình hình ở Hương Cảng rất phức tạp; khi ấy, tại Hương Cảng có rất nhiều tu sĩ xuất gia không có nơi cư trú; không như hiện nay, mỗi một tu sĩ ở Hương Cảng đều ở cao ốc. Lúc bấy giờ, đừng nói chi đến cao ốc, mà ngay cả một căn lều tranh lụp xụp còn không có; tại Đông Phổ Đà, chúng Tăng phải ở những căn phòng trên gác xép gỗ. Vị này cũng được ở một căn phòng như vậy, nhưng vì không có tiền nên sống không quen; có lẽ vì trước kia, anh ta đã quen tiêu rất nhiều tiền trong một khoảng thời gian rất dài, nay trong tay không có tiền nên cảm thấy gay go.
Lúc đó, Hương Cảng có Trung tâm Đạo Phong Sơn (ở Sa Điền, Tân Giới); thế nơi này sẵn sàng làm gì? Nơi đây chuyên giúp chư Tăng Ni hoàn tục. Nếu vị nào không muốn ở trong Phật giáo nữa thì có thể đến đó, mỗi tháng sẽ được cấp cho ba mươi hoặc năm mươi đồng, hoặc có thể đến hai trăm đồng. Ở đó, nếu quý vị sẵn lòng làm tu sĩ cũng tốt, sẵn lòng ăn chay cũng tốt; nếu không muốn ăn chay, thì cũng có thịt cho quý vị dùng. Quý vị muốn làm Tăng thì làm, bằng như không muốn thì họ sẽ cưới cho quý vị một cô vợ. Thế còn Tỳ-kheo-ni? Cũng vậy thôi. Quý vị muốn làm Tỳ-kheo-ni thì sống ở đó, làm Tỳ-kheo-ni; còn như không thích thì làm người tại gia; nếu muốn kết hôn, thì họ sẽ tìm cho quý vị một ông chồng, có thể ông chồng là một trong những ông tăng hoàn tục. Như thế đấy, nơi đó rất phương tiện – pháp môn phương tiện; nói là thời thế bây giờ thì phải như thế, nên tin Thiên chúa, chớ nên tin Phật. Người ở đó bảo: “Chúng tôi ở đây cũng đọc kinh Phật, cũng công phu sáng chiều.” Quý vị xem! Kỳ thật chính là “Treo đầu dê bán thịt chó”, làm như vậy để phá hoại Phật giáo – treo đầu con dê thì đáng lý phải bán thịt dê, thế nhưng họ không bán thịt dê mà lại bán thịt chó.
Khi ấy, Hoằng Huy không có tiền tiêu, nghe nói nơi đó có thể kiếm được ba trăm đồng mỗi tháng, làm việc gì à? Làm đầu bếp nấu ăn. Thế nhưng không phải nấu thức ăn chay mà là nấu thịt; mỗi ngày đều phải giết gà, giết vịt, giết cá. Anh ta bảo như vậy cũng không sao, khi dùng dao cắt cổ gà, anh ta sẽ niệm: “ Nam mô A-di-đà Phật, vãng sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây! Nam mô A-di-đà Phật, vãng sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây!”. Cứ thế, một ngày anh ta giết rất nhiều gà. Anh ta nhắm tịt mắt không dám nhìn; “Ta niệm Phật cho ngươi!” cho là làm như vậy, ta sẽ giúp ngươi vãng sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây; và cứ niệm Phật một câu, giết một con gà; tôi nghĩ rằng có thể anh ta đã giết khoảng ba trăm sáu mươi con gà.
Vậy thì thế nào? Thì anh ta phải lãnh chịu quả báo thôi! Bỗng dưng anh ta phát bệnh tâm thần, không thể ở nơi đó được nữa, anh ta lại quay về Đông Phổ Đà, nơi “không có tiền” mà ở – từ sáng đến tối, anh ta cứ lảm nhảm: “Các vị xem coi gà tôi giết đã đến thế giới Cực Lạc chưa?”, “Các vị xem coi con vịt có phải đến thế giới Cực Lạc không? Hay lại đầu thai làm gà? Không biết sau này chúng có giết tôi không?...”, cứ như vậy mà lảm nhảm suốt cả ngày.
Anh ta muốn gặp tôi, vì sao? Vì anh ta biết bệnh của mình, nếu gặp được tôi thì sẽ khỏi, nhưng lại không cách nào có cơ hội để gặp tôi. Tại sao anh ta biết gặp được tôi thì sẽ khỏi bệnh? Vì trước đó, cũng có mấy người bị bệnh y như vậy, anh ta đã dẫn đến gặp tôi, và họ đều khỏi hẳn; bây giờ đến lượt mình, mỗi khi tỉnh táo, anh ta nói: “Tôi muốn đến gặp Pháp sư An Từ, quý vị có ai giúp dùm, cùng đi với tôi đến gặp Ngài không?”. Nhưng anh ta vừa muốn gặp tôi, thì lại bị những con gà, con vịt do anh giết trước kia ngăn: “Không được! Nếu ông gặp được Ngài thì chúng tôi phải làm thế nào đây? Ông đã giết nhiều mạng sống đến như vậy, ông biết rõ mà vẫn cố phạm! Ông làm Tăng sĩ mà lại giết nhiều gà như vậy, giết nhiều vịt như vậy mà được à!”, vậy là anh ta không đến tìm tôi; kết quả là khoảng hơn nửa năm sau, anh ta dùng dao tự vẫn.
Vì vậy, tu hành không phải dễ. Tại sao anh ta phải chịu quả báo như vậy? Tôi bảo cho quý vị biết, đấy chính là đại Bồ-tát thị hiện ra như vậy để cho chúng sanh thấy – các vị xem đây này! Đã xuất gia thì không được sát sanh! Người xuất gia một khi sát sanh thì sẽ phải lãnh chịu quả báo như vậy đấy! Ngài bản thân không ngại xấu xa, xấu hổ, không sợ mà từ chối “Như vậy chẳng hay chút nào, tôi không thị hiện kiểu như vậy đâu!”. Vị ấy đã thị hiện mẫu người như vậy, giống như Đề-bà-đạt-đa; để bảo cho tất cả người tu hành biết: làm người xuất gia không được sát sanh nữa! Đây là ý thứ nhất. Đó là tôi nói theo chiều hướng tích cực, riêng tôi thì tôi không thể nói anh ta là vị Tăng xấu xa được, bởi vì tôi còn xấu hơn cả anh ta. Ý thứ hai, chính là vị ấy không có tâm kiên cố, sau khi xuất gia lại thay đổi, không biết tu hành. Vì vậy, yếu tố quan trọng hàng đầu là phải có “tâm kiên cố”.
Thứ hai, phải có sự “bền lòng” (hằng tâm). Học Phật pháp, không phải như hút thuốc phiện; không có thuốc thì lên cơn nghiện vật vờ, sau khi hút xong thì tinh thần sảng khoái, không phải như thế! Ở đây phải là “thường hằng” – hôm nay học Phật pháp, ngày mai học Phật pháp, ngày mốt cũng học Phật pháp, mỗi ngày đều phải học Phật pháp; tháng này học Phật pháp, tháng sau cũng phải học Phật pháp, mỗi tháng đều học Phật pháp; năm nay học Phật pháp, năm tới học Phật pháp, mỗi năm đều phải học Phật pháp. Phải như thế! Nếu bảo: “Vậy tôi không phải làm những việc khác à?”, thế nếu lúc cái chết đến, quý vị có thể làm được những việc khác không? Quý vị đã nghĩ đến tình huống này chưa? Quý vị có nghĩ sau này, một lúc nào đó mình phải chết không? Quý vị không học Phật pháp, một mai vô thường đến, sẽ không nắm được chút gì trong tay; khi đã học Phật pháp, đến lúc lâm chung, quý vị sẽ không gặp phải những điều không may, không có bệnh đau.
Vào khoảng tối mai, Lý Dụ Siêu sẽ đến. Ông ta đã quy y với tôi. Quý vị có biết vì sao ông ta quy y tôi không? Vì ông ta mong muốn sau khi quy y với tôi rồi sẽ được phát tài. Ông ta bảo: “Nếu phát tài, con nhất định sẽ xây một bệnh viện Phật giáo!”; sau khi quy y, ông ta lại nhờ tôi xem tướng giúp cho, lại còn muốn nhờ tôi chấm “Bát tự” dùm. Tôi bảo: “Giả như ông có tướng phát tài, thế nhưng nếu tâm ông không tốt, cũng không thể phát tài; bằng như ông không có tướng phát tài, nhưng nếu tâm ông tốt, cũng sẽ phát tài. Vì vậy, tướng này chỉ là giả, ông không nên tin vào nó!”
Sau đó, ông ta lại nhờ tôi chấm Bát tự (Bát tự hay Bát tự Hà Lạc: bói toán, tiên đoán vận mệnh dựa trên Kinh Dịch). Ông ta trông thấy sách vở của tôi, nên cho là “y thuật, bốc quẻ, chiêm tinh, tử vi, xem tướng” (y, bốc, tinh, tướng) cái gì tôi cũng biết – thật ra sách y học tôi cũng đã đọc qua; bốc quẻ, xem tướng tôi cũng đều biết; vì vậy ông ta biên trước, biên sau, nhờ tôi chấm bát tự giùm. Sau đó, gặp lại tôi, ông ta hỏi: Sư phụ chấm bát tự giùm con chưa?” Tôi đáp: “Ồ! Tờ giấy ông viết lạc mất rồi, không biết tôi đã để ở chỗ nào nữa!”. Ông ta nhanh nhẹn nói: “Không sao! Con sẽ viết lại tờ khác”, và ông ta viết lại một tờ khác. Nhưng tôi bảo: “Hiện giờ tôi rất bận, không có thời gian để làm việc này”. “Không sao, từ từ cũng được!”.
Một tháng sau, ông ta lại hỏi tôi: “Sư phụ! Ngài đã chấm bát tự cho con chưa?”. Tôi vờ hỏi lại: “Cái gì? Chấm cái gì?”. “Bát tự của con đó!”. “À! Hình như mấy vị quét dọn phòng của tôi, gom nhầm với mớ rác vụn đốt hết rồi thì phải.”. Ông ta vẫn chưa hiểu ra, lại viết thêm một tờ khác và bảo tôi chấm giúp; viết đi viết lại đến năm sáu lần mà tôi vẫn không chấm. Vì người xuất gia không thể làm những việc ấy, không được xem tướng, cũng không được chấm bát tự cho người khác; đấy đều là những việc làm của hạng giang hồ thuật sĩ, người tu hành chân chánh không nên thế.
Gần đây, ông ta bảo muốn đi New York , nên lại muốn nhờ tôi chấm bát tự giúp; đến lúc này, tôi không còn khách sáo nữa, liền bảo: “Ông đã quy y tôi, bây giờ tôi phải giáo huấn ông đây! Ông đến New York , nơi đó có rất nhiều người xuất gia, dù gặp bất cứ người xuất gia nào, ông cũng không được nhờ họ xem tướng, hay chấm bát tự. Nếu ông tướng chó, không cách gì có thể biến thành tướng cọp được; nếu tướng ông là cọp, cũng sẽ không bao giờ biến thành tướng chó. Ông xem nó làm gì! Chấm nó làm gì! Nếu như ông nghèo, tôi chấm nói ông sẽ phát tài, ông cũng không thể phát tài được; còn nếu như ông sẽ phát tài, tôi không nói, ông cũng vẫn phát tài như thường. Điều đáng nói ở đây là tại sao ông lại có thái độ như thế đối với người xuất gia? Ông làm vậy, chẳng khác nào sỉ nhục người xuất gia, không tôn trọng người xuất gia, quả là chẳng có lễ độ gì cả.”. Nghe thế, ông ta vội nói: “Ồ! Thế mà một số người trong nhóm bạn con đã nhờ những vị xuất gia xem tướng, chấm bát tự rồi đấy!” Tôi bảo: “Đấy đều là những hạng người đi đây đi đó, dùng việc bói toán kiếm sống. Người tu hành chân chính, không đề cập đến những vấn đề này.” Từ lần đó, ông ta không còn dám mở miệng nhờ tôi chấm bát tự nữa!
Ông ta nói: “Con phát nguyện muốn xây bệnh viện Phật giáo, nhưng đã mấy năm rồi, vẫn kiếm chẳng được bao nhiêu tiền, cứ đà này thì vĩnh viễn không được toại nguyện rồi!” Tôi bảo: “Nếu ông phát nguyện được thành công, thì người kia phát nguyện cũng thành công, người nọ phát nguyện cũng phải thành công, thế thì Đức Phật bận rộn ghê lắm, không có thời gian để lo đến nhiều việc không đâu như thế! Khi ông đi học, từ tiểu học mới lên đến trung học, rồi đến đại học, sau đó mới có thể đạt được học vị tiến sĩ, thế thì phải mất bao nhiêu năm? Ông muốn phát tài, chỉ mong đợi đôi ba ngày liền được toại ý chăng? Trên đời nếu có việc dễ dàng như vậy, thì mọi người đều đã phát nguyện, cũng không đến lượt ông!”. Ông ta nói: “À! Bây giờ thì con đã hơi hiểu ra rồi!”. Vâng! Đúng là đã hiểu ra một chút rồi!
Quý vị xem! Phát nguyện thì cũng phải chờ một thời gian, đâu thể hôm nay tôi phát nguyện, ngày mai liền được mãn nguyện. Không phải thế. Tôi bảo ông ta: “Nếu như ông phát nguyện thế này: Con nguyện đời này sẽ xây bệnh viện Phật giáo; nếu không có tiền, con sẽ đợi đến đời sau; nếu như đời sau cũng không có tiền, con sẽ đợi đến đời sau nữa! Bất luận thế nào con cũng phải tu phước, tu huệ, có tiền rồi, con sẽ xây bệnh viện Phật giáo. Đời đời kiếp kiếp ông đều phát nguyện như vậy thì mới được!”. Ông ta nói: “Ồ, được rồi! Sau này con sẽ làm thế!” Có vậy mới được xem là tạm hiểu đôi chút. Phải có tâm bền bỉ như vậy, chớ nên lúc thì dốc sức ra học Phật pháp, lúc lại không thèm học nữa, đó là tùy tiện. Phải có thành tâm, lại phải có hằng tâm; hằng tâm chính là tâm bền bỉ lâu dài.
Thành tâm, tức bất luận gặp phải đả kích gì, chẳng hạn như quý vị học Phật pháp, lại có người bạn muốn phá nên nói: “Anh học Phật pháp làm gì! Những người học Phật pháp đều là kẻ ngốc! Đầu óc cổ hủ! Rất mê tín! Còn anh là người trí thức, không nên học thứ đó!”; hoặc bảo: “Ối chào! Anh theo học Phật pháp với vị pháp sư đó à? Ông ta chẳng hiểu Phật pháp gì cả, anh không nên học với ông ấy!”. Họ tìm mọi cách để khiêu khích, chia rẽ, phá hoại, nhưng quý vị không dao động: “Tôi có mắt, tôi nhận biết Phật pháp, tôi cầu pháp Phật chơn chánh, không dễ gì bị người khác phá hoại đâu!” phải có tâm chân thành này. Thành tâm đến cực điểm, thậm chí có người giết chết tôi, bảo tôi không được học Phật pháp, tôi cũng không dao động; thành tâm đến cực độ, tức thậm chí mất cả mạng sống! Dầu có mất mạng đi nữa, quý vị cũng muốn học Phật pháp, đấy mới đích thực là tâm thành.
Trong kiếp quá khứ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã từng bố thí một ngàn thân. Thực trạng bố thí thực ra không hẳn ai cũng đều hoan hỷ, cũng có những trường hợp bất đắc dĩ. Nhưng cũng có trường hợp vì thương xót chúng sanh, rằng: “chúng không có gì để ăn, nên bố thí thân để chúng giữ được mạng sống”; vì vậy đã xả thân cho cọp ăn, cắt thịt cho diều hâu ăn. Lần nọ, có một con diều hâu đói, không còn đủ sức để bay, nên muốn ăn thịt bồ câu. Bồ câu liền bay sà vào lòng Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Thấy thế, diều dâu nói: “Ngài cứu bồ câu cũng được, nhưng nó sống thì tôi chết, vậy Ngài tính sao đây?”
Khi ấy Đức Phật đang ở thời điểm tu hành “gieo nhân” (nhân địa[1]), Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nghe thế liền nghĩ: “Cũng đúng! Ta cứu bồ câu thì diều hâu không có gì để ăn”, liền bảo: “Được lắm! Hiện giờ ngươi nhất định muốn ăn thịt bồ câu phải không? Vậy ta sẽ cắt thịt của ta cho ngươi ăn nhé!”. Thế là Ngài cắt một miếng thịt cho nó, nhưng diều hâu bảo ăn chưa no; Ngài lại cắt thêm một miếng nữa, diều hâu ăn xong bảo vẫn chưa no. Cho đến cắt hết thịt trên thân, diều hâu vẫn ăn chưa no. Ngài nói: “Được rồi! Ngươi thấy trên người Ta chỗ nào có thịt thì cứ đến mà rỉa! Ta khỏi phải cắt nữa!”. Nghe thế, diều hâu liền bay đi, bồ câu cũng bay đi; hóa ra là chư thiên đến thử Ngài, chứ không phải là diều hâu và bồ câu thật, và những chỗ thịt bị cắt của Ngài đều tự lành lại.
Theo nghiên cứu của khoa học, việc này không thể xảy ra; tôi cũng cho rằng việc này không thể xảy ra, nhưng không hiểu vì sao nó lại được như thế. Vì vậy, nếu có tâm thành thì mới có cảm ứng, đó chính là do lòng thành chiêu cảm ra. “Xả thân cho cọp, cắt thịt cho diều hâu”, cần phải bố thí như thế. Không nên chỉ mới bố thí vài ba đồng bạc đã cảm thấy đau lòng, thì quả là thứ chẳng ra gì, còn học Phật pháp gì nữa chứ? Học Phật pháp là phải bố thí thân mạng, đầu mắt, tủy não mới đúng chứ! Có người nghe thế liền nói: “Tôi đã học Phật pháp với vị Pháp sư này, thật là hối hận quá!”. Quý vị có hối hận cũng đã muộn rồi! Quý vị nên hối hận sớm hơn một chút; bây giờ quý vị đã gặp Pháp sư này rồi thì không cách nào chạy được. Ồ! Thật là buồn!
Ý của “như thật tướng” vẫn chưa nói xong, nên tôi nói thêm một chút. “Như thật tướng” chính là nói cảnh giới “quán thập pháp giới”, gọi đó là “thật tướng”. “Như” tức không rơi vào “không” và “có”. “Không, Giả, Trung” gọi là “Tam đế”[2] (chân lý về thật tướng của tất cả các pháp). Ba đế này không khác nhau, “không” cũng chính là “giả”, “giả” cũng chính là “trung” (Tức không, Tức giả, Tức trung); một giả tất cả giả, một không tất cả không, một trung tất cả trung. Ba đế này không có gì phân biệt, không có phân biệt chính là “như”. “Thật” tức không đồng với bảy phương tiện “Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ-tát thừa của Tạng giáo, Bồ-tát thừa của Thông giáo và Bồ-tát thừa của Biệt giáo[3]”; hoặc “Ngũ đình tâm quán[4], Biệt tướng niệm trụ[5], Tổng tướng niệm trụ[6], Noãn, Đảnh, Nhẫn và Thế đệ nhất[7]”, đó gọi là “quả vị của bảy phương tiện”[8]. Vì vượt khỏi bảy phương tiện này, nên gọi là “thật”; lấy thật làm tướng, tức lấy “thật” làm bản thể của nó, nên mới nói “như thật tướng”.
“Chẳng điên đảo” tức “trí huệ quán trung đạo”. Cái gì là “điên đảo”, cái gì là “chẳng điên đảo”? Nếu quý vị muốn không điên đảo thì trước nhất phải biết cái gì là điên đảo. Điên đảo của phàm phu tức là chẳng phải thường cho là thường, chẳng phải lạc cho là lạc, chẳng phải ngã cho là ngã, chẳng phải tịnh cho là tịnh, đây là bốn thứ điên đảo của phàm phu. Nhị thừa cũng có điên đảo của họ, là gì nào? Thường cho là vô thường, lạc cho là khổ, ngã cho là vô ngã, tịnh cho là bất tịnh, đấy chính là điên đảo của hàng Nhị thừa. Bồ-tát cũng có điên đảo “xuất Giả”[9], đấy cũng là một loại điên đảo; chỉ có Phật mới không còn điên đảo.
Chúng sanh ở chín cõi đều sống trong điên đảo; trong khi điên đảo, có lúc cho là tốt, có lúc cho là không tốt. Quý vị nên hiểu rằng chẳng có gì là tốt hay không tốt cả; tất cả đều do tâm điên đảo của chúng sanh mà khởi lên vọng chấp, vọng lường; nếu quý vị không điên đảo tức là đã thể hội “Trung Đạo”, là hợp với lý Trung Đạo rồi! Nếu nói một cách cặn kẽ, quý vị muốn học Phật pháp, tức là không điên đảo; quý vị không muốn học Phật pháp, tức đã đi trên con đường điên đảo rồi.
Nếu quý vị giữ phép tắc, tức là không điên đảo; bằng không thế, thì là điên đảo. Điên đảo và không điên đảo, chính là một bên chánh, một bên tà. Tà thì điên đảo, còn chánh thì không điên đảo. Bây giờ nói đến “chẳng điên đảo”, chúng ta phải nên xem thử mình có điên đảo hay không; nếu điên đảo thì phải mau mau học không điên đảo; nếu không điên đảo, thì cần phải không điên đảo nhiều thêm chút nữa.
“Chẳng động” chính là “định”; định cũng chính là “không sợ hãi”, không sợ bất cứ điều gì. Quý vị tĩnh tọa, đang ở trong định, chợt có một con cọp xuất hiện, há to miệng muốn nuốt chửng quý vị. Lúc này, nếu quý vị khởi tâm sợ hãi, tức là đã “động”; còn như tâm quý vị không hề sợ hãi, tức là “không động”. Nhưng không động, chẳng phải chỉ đơn thuần là không sợ cọp, mà là không sợ chết, cho rằng chết và sống cũng như nhau thôi, chẳng có gì khác biệt cả.
Có người bảo rằng: “Học Phật pháp là vì muốn chấm dứt sanh tử, nhưng tôi không sợ chết nên chẳng cần phải học Phật pháp làm gì!”. Quý vị không học Phật pháp, quý vị không sợ chết, nhưng sanh tử không chấm dứt. Nói “không sợ sanh tử, không bị sanh tử động!” là dùng cho người có định lực. Còn kiểu không sợ sanh tử của quý vị ở đây là một dạng liều lĩnh, là vô minh: “Chết có hề gì? Đọa địa ngục thì đọa! Chịu khổ thì chịu! Tôi chẳng sợ!” vậy thì không thể đoạn dứt được sanh tử.
Sanh tử có hai loại, có “nhị tử”. Có người thắc mắc: “nhị tử có phải là chết hai lần? Chết một lần, sống lại, rồi chết thêm lần nữa?”. Không phải thế. “Nhị tử” này chính là “phần đoạn sanh tử” và “biến dịch sanh tử”.
“Phần đoạn sanh tử” là của hạng phàm phu; tức anh có một phần của anh, tôi có một phần của tôi; anh có một đoạn của anh, tôi có một đoạn của tôi. Anh có thân thể của anh, là anh có một phần; tôi có thân thể của tôi, là tôi có một phần, đó gọi là “một phần”. Đoạn tức có hình đoạn, anh cao năm thước tám, tôi cao năm thước chín, người kia cao sáu thước, mỗi “đoạn” khác nhau; cũng có ý là: anh sống đến 80 tuổi là một giai đoạn của anh, tôi sống đến 90 tuổi là một giai đoạn của tôi, người kia sống đến 100 tuổi là một giai đoạn của họ, đây cũng là một đoạn. Tất cả phàm phu đều có loại sanh tử này. Thế còn hàng Nhị thừa? Họ chỉ có “biến dịch sanh tử” thôi. “Biến dịch sanh tử” tức niệm niệm (thoughts) của quý vị lưu chuyển không dừng; niệm niệm trôi qua, niệm niệm thay đổi. Một niệm thay đổi thì sanh tử trong một niệm; niệm niệm thay đổi thì sanh tử trong niệm niệm. Sanh tử biến dịch này chính là vọng tưởng của quý vị vẫn chưa dừng lại, chưa đạt được định. “Chẳng động” chính là đạt được định; vì đã có định nên không bị nhị tử chi phối.
“Chẳng thoái” là do đạt trí huệ nên không lui sụt vào chỗ ngu si. Tâm quý vị đã tịch diệt, không còn vọng tưởng nữa, nên sẽ có được một loại đại trí đại huệ, đấy gọi là “chẳng thoái” (bất thối), không thoái lui lại tâm ngu si; tức quý vị đã đạt được trí huệ Bát-nhã, sẽ không làm những việc ngu si nữa.
“Chẳng chuyển” tức không còn bị xoay vần trong luân hồi. Không giống như phàm phu, lưu chuyển trong sanh tử, qua lại trong đường sanh tử; cũng không giống Nhị thừa, chuyển phàm thành thánh; tức không có những thứ “chuyển” này.
“Như hư không” tức giống như hư không. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nếu ai muốn biết cảnh giới Phật, nên thanh tịnh ý như hư không” (Nhược nhân dục thức Phật cảnh giới, đương tịnh kỳ ý như hư không). Không có gì cả, đó gọi là hư không; tuy không chứa bất cứ một vật nào, nhưng hư không lại bao trùm tất cả vạn vật. Cái gọi “như hư không” chỉ có tên gọi, không có tự tánh; Trí quán Trung đạo – trí huệ tu Trung đạo, cũng chỉ là cái tên gọi, quý vị muốn tìm cầu một thực thể sẽ không có; chẳng có gì cả, vì vậy nói “như hư không”; quý vị chớ nên chồng thêm một cái đầu ở trên đầu, nói rằng: “Hư không là gì? Tìm thử hư không xem nó ra sao!” Hư không là cái gì cũng chẳng có, còn tìm cái gì nữa? Chớ phân vân “đầu này của tôi là cái gì đây?” rồi đặt lên trên nó thêm một cái đầu nữa. Cũng chớ giống như anh chàng Diễn-nhã-đạt-đa (Yajnadatta), soi mình trước gương, thấy người trong gương có một cái đầu, liền hốt hoảng: “Ồ! Vì sao tôi không có đầu?” thế rồi liền chạy ra đường, gặp ai cũng hỏi: “Các vị xem thử tôi có đầu không?” và chạy khắp nơi tìm cái đầu của mình. Không nên thế!
“Tánh vô sở hữu”, vô sở hữu tức không có; tánh vô sở hữu tức là không có tánh, không có một cái “tự tánh”, không có “tha tánh”, cũng không có một cái “cộng tánh” – không có tánh của mình, không có tánh của người kia, cũng không có một cái tánh chung – cũng không có một cái “tánh nhân”, không có một cái “tánh quả”, vì tất cả đều rỗng không, đây chính là nói đến cái “không” này.
Lúc này, “tất cả con đường của ngôn ngữ đều dứt bặt (nhất thiết ngôn ngữ đạo đoạn)”, cũng không suy nghĩ được, có muốn nói cũng nói không ra, không có cách gì nói được, con đường của ngôn ngữ đã bị cắt đứt, chính là chỗ “Miệng muốn nói mà từ ngữ đi đâu mất, tâm muốn duyên mà suy nghĩ chẳng còn” (khẩu dục ngôn nhi từ táng, tâm dục duyên nhi lự vong). Miệng muốn nói, nhưng nói không ra lời, không có ngôn từ để nói; tư tưởng muốn phan duyên, mà ý niệm cũng không có. Đấy chính là chỗ “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt” (bặt đường ngôn ngữ, dứt lối tâm hành), con đường để tâm chạy đến cũng diệt mất. Quý vị nói xem, đây là cảnh giới gì? Đấy chính là “ly tứ cú, tuyệt bách phi”[10]; chính là như bốn câu kệ này:
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bọt nước
Như sương, cũng như điện
Nên khởi quán như thế.
(Kinh Kim Cang)
“Tuyệt bách phi” tức một trăm kiểu không đúng, cũng đều chẳng còn.
“Ly tứ cú, tuyệt bách phi” là cảnh giới không thể nghĩ bàn. “Nhất thiết ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”, đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn; cảnh giới này không cách gì diễn bày được, nói cũng nói không ra, nghĩ cũng nghĩ không thấu, vì vậy gọi “không thể nghĩ bàn”. Không thể nghĩ bàn chính là “diệu”. Nếu quý vị lãnh hội được chữ “diệu” này thì có thể cảm nhận được mùi vị của “Kinh Pháp Hoa”, có thể nói là biết được một chút; bằng không, thì không cách gì nghe nổi “Kinh Pháp Hoa”. “Kinh Pháp Hoa” nói rất diệu, nói tới nói lui đều là diệu!
Thông thường dụng công, có người dụng đúng, nhưng có người vẫn còn vọng tưởng như thường lệ. Người nào còn vọng tưởng, mong rằng sẽ bớt đi một chút; người nào dụng công tốt, mong rằng sẽ dụng công tốt hơn một chút nữa, mỗi ngày một tiến bộ. Để mỗi ngày một tiến bộ, quý vị cần phải mỗi ngày một tự chủ hơn, tự thâu nhiếp thân tâm hơn; một khi đã thâu nhiếp được thân tâm thì sẽ không vọng tưởng nữa.
Sau khi mãn khóa tu mùa hè, sẽ bắt đầu khóa thiền mùa đông. Trong khóa thiền một trăm ngày này, mỗi ngày phải ngồi hai mươi mốt tiếng, chạy hương, tọa hương, không có thời gian nghỉ ngơi; nếu vị nào không sợ cực khổ thì nên đăng ký tham gia sớm. Ngồi thiền, chính là học cảnh giới không thể nghĩ bàn này; quý vị không cách gì có thể nghĩ thấu đến được chỗ diệu của cảnh giới “không thể nghĩ bàn” này.
“Chẳng sanh”, chẳng sanh cái gì? Chẳng sanh vô minh, chẳng sanh trí huệ. Không có trí huệ, cũng không có vô minh, quý vị nói xem đây là cái gì? Đó là “lý” thể. Quý vị không có vô minh nên cũng không có trí huệ; quý vị đã không có trí huệ vì vậy cũng không có vô minh. Trí huệ và vô minh là sự chấp trước đối lập nhau; bây giờ đã không sanh vô minh, lại không sanh trí huệ, đấy cũng chính là cảnh giới “không nghĩ thiện, không nghĩ ác”.
Quý vị có thiện, tức đã sanh ra cái “có”; quý vị có ác, cũng là sanh ra cái “có”. Nay, nếu quý vị có vô minh, cũng là sanh ra cái “có”; có trí huệ, cũng là sanh ra cái “có”. Trí huệ và vô minh đều không sanh, đó chính là cảnh giới diệu. Vì không có vô minh, không có trí huệ, đấy chính là “lý” – lý thể vốn sẵn có (bổn lai lý thể), chính là Đại Quang Minh Tạng của tự tánh xưa nay; vì vậy không có một đối tượng để phá, cũng không có một chủ thể phá, không cách gì phá nó được. Vì sao? Nó chính là lý bất sanh, vì thế ở trong cảnh giới này, “hành, vị, nhân, quả” v.v… đều không sanh; hành tức tu hành, vị là quả vị. Hành, vị, nhân, quả đều không sanh, đấy là ý “chẳng sanh”.
“Chẳng xuất”, chẳng có ra, tức cũng chẳng có vào; không ra, không vào, đấy là bản thể của Như Lai. Bản thể tu hành của Đức Như Lai đã đạt đến chỗ rốt ráo, vì vậy không có ra, cũng chẳng có vào, cũng tức là không có vô minh, không có trí huệ để luận bàn.
“Chẳng khởi”, sao gọi là “chẳng khởi”? Không khởi vì đã chứng được lý thể của Như Lai; lúc này, chỉ thuần một lý, vì vậy những giáo lý phương tiện, tức quyền pháp – đều vắng lặng, không còn sanh khởi nữa.
“Không danh”, thế nói đây có tên gọi (danh) là gì? Không có tên, chỉ có cái “lý”, chỉ là nói đến cái “lý” này. Sở dĩ nói “không danh”, vì không có tên nào có thể đại diện được cho “lý” này. Từ “chẳng điên đảo” đến “chẳng khởi”, không có một danh từ nào có thể dùng để đặt tên cho nó, vì vậy nói “không có tên để đặt”.
“Không tướng”, tức chẳng có tướng nào có thể phô bày được nó. Từ “chẳng điên đảo” đến “chẳng khởi”, chẳng có bất kỳ hình tướng nào có thể dùng để hình dung ra nó, vì vậy gọi “không tướng”. “Không danh” chính là “tánh không”, “không tướng” chính là “tướng không”.
“Thật vô sở hữu”, chỗ này nhằm khen ngợi “quán Trung đạo”. Quán Trung đạo, không rơi vào nhị biên – không rơi vào bên không, không rơi vào bên có; sở dĩ nói “thật vô sở hữu” vì không có bất cứ thứ gì.
“Vô lượng”, tức không có một pháp về số lượng. Thế nào là không có pháp số lượng? Năm ấm – sắc, thọ, tưởng, hành, thức thuộc loại có số lượng, có năm thứ. Sáu căn tức có sáu thứ; sáu trần cũng có sáu thứ, hợp chung lại, gọi là “mười hai nhập”, cũng gọi “mười hai xứ”, gồm có mười hai thứ, tức có danh từ “mười hai”. Giữa “sáu căn”, “sáu trần” lại cộng thêm “sáu thức”, trở thành “mười tám giới”. Năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới đều có số lượng. Quán Trung đạo này không có số lượng để đếm nên gọi “không có lượng” (vô lượng); không có lượng mới là “toàn lượng” mới là số lượng hoàn hảo, không thiếu không dư, nên gọi “vô lượng”.
“Vô biên” tức không có một giới hạn, bờ bến. Giới hạn này chỉ cho pháp Tiểu thừa, tất cả pháp đều có chỗ nhất định, đều có hạn độ. Có nhất định tức có giới hạn; không nhất định thì không có giới hạn. Hiện tại không có giới hạn, chính là “không có pháp cố định”.
“Không ngại” tức “biến nhập tất cả pháp”. Vì trí quán Trung đạo có thể thâm nhập tất cả pháp. Tuy thâm nhập trong tất cả pháp mà không chướng ngại, không ngăn ngại.
“Không chướng”, chướng là che lấp, không có một pháp nào có thể che lấp được trí quán Trung đạo này. Đoạn Kinh văn từ “Quán tất cả pháp không” cho đến“không chướng” gồm có mười chín câu. “Quán tất cả pháp không” là trí năng quán, đây là “tổng tiêu”, nêu tổng quát. Mười tám câu tiếp theo sau là giải thích riêng, gọi là “biệt thích”. Đạo lý này nếu nói ra sẽ vô cùng vô tận, hiện tại chỉ có thể giảng sơ lược ý. Trong mười chín câu này, trừ câu “quán tất cả pháp không” ở đầu, còn lại mười tám câu; đoạn Kinh văn mười tám câu này có thể y cứ vào “Mười tám không” (Thập bát không)[1] của “Kinh Đại Bát-nhã” để giải thích, cũng có thể dùng “Tất cả pháp” (Nhất thiết pháp) (của Đại Trí Độ Luận và Kinh Đại Bát Nhã) để giải thích.
Thế nào là dùng “Tất cả pháp” để giải thích? Tất cả pháp như thật tướng, tất cả pháp không điên đảo, tất cả pháp không động, tất cả pháp không thoái, tất cả pháp không chuyển, tất cả pháp như hư không, tất cả pháp vô sở hữu, tất cả pháp dứt bặt ngôn ngữ, tất cả pháp không sanh, tất cả pháp không xuất, tất cả pháp không khởi, tất cả pháp không danh, tất cả pháp không tướng, tất cả pháp không thật có, tất cả pháp vô lượng, tất cả pháp vô biên, tất cả pháp không ngại, tất cả pháp không chướng – đây là dùng “Tất cả pháp” để giải thích mười tám câu.
Thế nào là y cứ vào “Mười tám không” để giải thích?
1. “Như thật tướng” chính là “đệ nhất nghĩa không”; đệ nhất nghĩa không gọi là “như thật tướng”.
2. “Không điên đảo” chính là “nội không”. Nội không cái gì nào? Nội không lục nhập, mắt tai mũi lưỡi thân ý đều không. Nếu mắt tai mũi lưỡi thân ý của quý vị có thể không thì sẽ không có ngã (cái tôi), cũng không có cái chấp về ngã sở (cái của tôi). Bên trong không điên đảo tức không bị lục nhập chuyển.
3. “Không động” chính là “ngoại không”; không cái gì nào? Chính là bên ngoài sáu trần rỗng không, không bị sáu trần lay động, đây là nghĩa “không động”.
4. “Không thoái” chính là “không có nội ngoại không”, tức “nội ngoại không”. Trong ngoài đều không, tức mười hai nhập (12 xứ) đều không, vì vậy không thoái lui xuống địa vị phàm phu hay Nhị thừa.
5. “Không chuyển” tức không chuyển động. Cái gì “không chuyển động”? Quý vị thử đoán xem ở đây là cái gì không? Tôi tin rằng có vị biết. Mọi người đoán thử xem, để tôi xem trí huệ của quý vị thế nào! Không cần suy nghĩ, hãy nói. “Như hư không” là cái gì không? “Đương không” là “không bên trong”. (Một đệ tử khác đáp: “Trung không”). “Trung không” cũng chính là “Nội không”. Có người bảo “bốn đại đều không”, bốn đại thế nào không? Vì “Năm uẩn đều không”, năm uẩn không thế nào? Bởi vì “Soi thấy năm uẩn đều không”, quý vị soi thế nào? “Như hư không” là cái gì không? “Tánh vô sở hữu” là cái gì không? Hãy nói! Quý vị “không nói không” (quý vị im lặng), bởi vì nếu mở lời thì đã không phải là không rồi, đúng không? Đây chính là “bất thuyết không” (không nói không). Tốt lắm! Quả Ninh nói đúng rồi, quả là đã bị chú ấy đoán ra rồi!“Không chuyển” chính là “không không”. Tôi biết, nếu là người muốn nghiên cứu Phật pháp, dù chưa từng được nghe qua nhưng cũng có thể đoán được. Quý vị xem! Ở trướcĐệ nhất nghĩa cũng không (Đệ nhất nghĩa không), rồi trong cũng không (nội không), ngoài cũng không (ngoại không), trong ngoài đều không (nội ngoại không), hiện tại là “không không”, vì vậy chú đoán đúng rồi. Tôi muốn xem thử rốt cuộc chú biết hay không biết, nên hỏi thêm một câu: “Như hư không” là cái gì không? Nghe hỏi thế, chú ấy liền phát hoảng lên, cho rằng mình đã nói sai. Kỳ thật chú ấy nói không sai, nhưng chú ấy lại cho là sai, vì vốn dĩ vẫn chưa hiểu. Chú ấy vốn đoán đúng, nhưng bị tôi hỏi một câu lại không nhận ra được, thật đáng tiếc!
“Không chuyển” tức không bị lay chuyển, đây là “không không”. “Không” này có thể phá tất cả các pháp; tất cả các pháp đều bị phá, đã không rồi thì còn có pháp nào nữa? Nếu đã không, tức còn có một cái “không pháp” tồn tại, thế là vẫn chưa phá, vẫn còn chấp vào cái “không”. “Không không”, cái “không” đó cũng không luôn, tức tất cả các pháp đều bị phá. “Các pháp” là đối tượng bị phá, “không” là chủ thể phá; có thể phá trừ các pháp, tất cả các pháp đều chẳng có. Lúc này không còn chấp ngã, cũng không có chấp pháp; không có pháp để chấp, tức không có tất cả các pháp, lúc này mới có thể bàn đến “không không”.
Nếu khi quý vị đã đạt được không, nhưng lại không khiến cho cái “không” đó cũng không, tức quý vị vẫn còn lỗi lầm; chỉ khi cái không đó cũng không tồn tại, thì mới dứt hết mọi sai quấy, không cũng chẳng phải là không, lúc này tất cả các pháp mới bị phá dẹp. Chỗ gọi là “quét sạch tất cả pháp, lìa tất cả tướng” (tảo nhất thiết pháp, ly nhất thiết tướng); khi tất cả pháp đều đã không thì tất cả tướng cũng không cần bàn đến, vì vậy gọi là “không chuyển”, tức không bị chuyển động, đây chính là “không không”.
6. “Như hư không” là cái gì không? Nếu quý vị đã xem qua “Kinh Bát-nhã” sẽ nhận thấy kinh này nói về trí huệ, nói về bát-nhã; bát-nhã chính là luận về “không”, nghiên cứu “lý không” này. Vì Tôn giả Tu-bồ-đề giỏi giảng về lý bát-nhã, nên được tôn xưng là “Giải không đệ nhất”; Ngài chuyên nghiên cứu lý “không”, nên còn gọi Ngài là “Không Sanh”. Nhưng “Không Sanh” của Ngài lại chẳng phải là không sanh; nói “chẳng phải không sanh” (thì tức là “có” sanh), vậy Ngài có cái gì? Có một “Tu-bồ-đề”!
Có thể có nhiều người không biết tại sao Ngài có tên là “Không Sanh”? Nay tôi sẽ giảng sơ lược. Không Sanh chính là “Tu-bồ-đề”. Tu-bồ-đề là Phạn ngữ (Subhuti), Trung Hoa dịch là “Không Sanh”. Sao lại đặt tên này? Vì hôm Ngài ra đời, kho chứa tất cả vàng, bạc, châu báu của gia đình bỗng nhiên trống rỗng. Vừa trông thấy, cha Ngài liền thốt lên: Ồ! Trống rỗng cả rồi, là không sanh đây! Thế là liền đặt tên cho Ngài là “Không Sanh”. Kho đã trống rỗng, vàng, bạc, châu báu không còn, thế thì từ nay phải bị nghèo khổ chăng? Thế là cha Ngài liền tìm đến một ông thầy toán số nhờ xem cho một quẻ.
Người này bảo: “Vàng, bạc, châu báu trong nhà ông đều không còn, đây là điềm rất tốt! Chẳng có chỗ nào là không tốt cả, ông chớ buồn lo. Đây là điềm rất lành! Đứa bé này chắn chắn rất giỏi, không ai sánh kịp”. Vì vậy, cha Ngài đã đặt tên cho Ngài là “Thiện Kiết”, đã tốt lại còn lành. Bảy ngày sau, tất cả vàng, bạc, châu báu bỗng nhiên xuất hiện trở lại trong kho, vì vậy, Ngài còn có tên là “Thiện Hiện”. “Tu-bồ-đề” có ba ý nghĩa như thế.
Vì sao khi Tu-bồ-đề vừa chào đời, tất cả vàng, bạc, châu báu trong kho đều không còn? Vì nhiều đời nhiều kiếp Ngài đều nghiên cứu lý “không” này; không, tức không cần bất cứ thứ gì, không có bất cứ thứ gì, vì thế khi Ngài vừa chào đời thì ngay cả vàng, bạc, châu báu cũng không có. Đây là biểu hiện của “không”, biểu hiện “bát-nhã không”, vì vậy gọi “Không Sanh”.
“Như hư không”, đây là “đại không”, không có gì lớn hơn nó nữa. Rốt cuộc thì lớn cỡ nào? Không ai biết được. Vì sao? Vì nó quá lớn; nếu có người biết thì đã không phải là lớn.
7. “Tánh vô sở hữu”, đây là cái gì không? Quý vị lại đoán thử xem, để tôi xem trí huệ của quý vị ra sao. Rốt cuộc là không hay chẳng phải không? Đây là “tất cánh không”, rốt ráo không, triệt để không, bổn lai không. Về “tất cánh (rốt ráo) không” này có mấy câu kệ như vầy:
Như Lai như trăng mát,
Thường dạo tất cánh không.
Tâm người như nước lặng,
Bóng Bồ-đề hiện trong.
Như Lai thanh lương nguyệt
Thường du tất cánh không
Chúng sanh tâm thủy tịnh
Bồ-đề ảnh hiện trung.
Ánh trăng trên bầu trời vào buổi tối, làm cho người ta cảm thấy rất mát mẻ, rất dễ chịu. Đức Như Lai cũng giống như ánh trăng mát mẻ kia, thường dạo chơi trong “rốt ráo không” (tất cánh không). Nước trí huệ của chúng sanh hiện tiền, trong tâm đã thanh tịnh, Bồ-đề liền in bóng lờ mờ, không rõ rệt lắm, phảng phất có bóng dáng hiện lên.
Sao nói “tánh vô sở hữu” là “tất cánh không”? Tánh vô sở hữu, quý vị xem! Chẳng có gì cả (vô sở hữu), nó không phải “tất cánh không” thì là cái gì? Các pháp vốn không thiếu không dư – không thiếu tức không ít đi chút nào, không dư tức cũng không nhiều hơn chút nào. Không nhiều hơn một tí, cũng không ít hơn một tí, bản thể của các pháp là thế. Bởi bản thể của các pháp là “không thiếu không dư” cho nên các pháp cứu cánh vốn là không, do vậy nên gọi là “tất cánh không”; vì các pháp rốt ráo không, nên chính là “tánh vô sở hữu”, tánh của các pháp là không (vô sở hữu).
8. “Dứt bặt mọi con đường của ngôn ngữ” là cái gì không? Không này cũng rất dễ biết, vì trong một câu Kinh văn ở trên có nói đến ý này; không chỉ có một câu như thế, mà trong mỗi một câu của Kinh văn, đã mang ý nó vốn là không. Đây chính là “nhất thiết không”, tất cả mọi ngõ ngách của ngôn ngữ đều dứt sạch, vì vậy đấy chính là tất cả không; vì nó là nhất thiết không, nên cũng chẳng có lời nào để nói, ngôn ngữ đoạn dứt, chẳng còn nữa!
9. “Không sanh” là cái gì không? Quý vị có xem mười tám không, sẽ tin nó có sự phối hợp với mười tám câu, nhưng có vị biết, có vị không biết. Nếu nói biết, thế sao ban đầu Quả Tiền không biết nói “tánh vô sở hữu” là “đệ nhất nghĩa không”, cũng không biết nói là “tánh không”. “Tánh không” đã giảng ở trên rồi. “Không danh” chính là tánh không, “không tướng” chính là tướng không, “như thật tướng” chính là đệ nhất nghĩa không. Bây giờ “không sanh” này là cái gì không? Là “hữu vi không”. Do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra pháp hữu vi. Bây giờ thì không hòa hợp nữa, vì sao không hòa hợp? Vì nó không sanh, nên không hòa hợp; không hòa hợp, nên không sanh, đấy gọi là “hữu vi không”.
10. “Không xuất”, đây là cái gì không? Chính là “vô vi không”, “vô vi” cũng không. Chính là chỗ “vô vi không khởi diệt, chẳng thật như hoa đốm” (vô vi vô khởi hoặc, bất thật như không hoa). Từ “Vô vi” có nghĩa là, chính là “xuất ly”, xuất ly tất cả pháp; giờ đây, “xuất ly” này cũng là không, vì vậy không có chỗ để xuất, nên gọi là “vô vi không”.
11. “Không khởi”, đây lại là cái gì không? Trong “Kinh Đại Bát-nhã” gọi là “vô thủy không”, không có chỗ bắt đầu; nếu có chỗ khởi đầu, thế thì đã “khởi” rồi. Quý vị thử tìm một chỗ bắt đầu, một điểm khởi đầu của nó xem, hoàn toàn không thể được; vì không thể tìm được, nó là không, nên gọi “vô thủy không”.
12. “Không danh” chính là “tánh không”. 13. “Không tướng” chính là “tướng không”. Vậy thì “không danh không tướng” lại có thể giải thích câu “thật vô sở hữu”.
14. “Không thật có (Thật vô sở hữu)”, thế đây không phải lại gọi là “tất cánh không”, “vô thủy không”? Không phải! Đây là “bất khả đắc không”.
15. “Vô lượng”, đây lại là cái gì không? “Vô lượng” là “hữu pháp không”. “Hữu lượng” chính là “hữu pháp”, giờ đây “hữu lượng” đã không rồi, nên “vô lượng” này gọi là “hữu pháp không”.
16. “Vô biên” lại là cái gì không? “Vô biên” chính là “vô pháp không”. Có pháp tức là có biên tế, có bờ mé; bây giờ đã không có pháp, nên gọi vô biên, đây là “vô pháp không”.
17. “Vô ngại”, lại là cái gì không? “Hữu pháp vô pháp không”. Cả hữu pháp và vô pháp đều không thật có, đều là không, lại chẳng có ngăn ngại; vì không ngăn ngại nên hữu pháp cũng không, vô pháp cũng không, đây gọi là “hữu pháp vô pháp không”.
18. “Không chướng”, quý vị có biết “không chướng” là cái gì không hay không? Là cái không cuối cùng ở trong mười tám không đấy! Không biết à! Tôi sẽ nói cho quý vị biết, gọi là “tán không”; nó không có những chướng ngại và che lấp. Vì không thể che lấp, nên gọi “vô chướng”.
Mười tám không này, giải thích sơ lược ý của mười tám câu (Kinh văn); Đức Phật thường tu mười tám không, nên chiếu theo đó để giảng mười tám câu trong “Kinh Pháp Hoa” này.
“Quán tất cả pháp không” đã đề cập ở trên chính là “tướng chung” (Tổng tướng). Từ “như thật tướng” trở xuống đến “không chướng”, gồm mười tám câu, là“tướng riêng” (Biệt tướng). Các tướng này “chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sanh”, chỉ do các thứ nhân duyên mà có ra các thứ tướng, tất cả đều từ “điên đảo mà sanh ra”. Nên nói: “Thường ưa quán pháp tướng như thế, đó gọi là chỗ thân cận thứ hai của Đại Bồ-tát.”, vì vậy mới nói: thường nên ưa thích quán các loại pháp tướng như đã nói ở trên, thấy tất cả đều là không. Đây là chỗ cần nên gần gũi thứ hai của Đại Bồ-tát.
[1] Thập bát không: Theo kinh Đại phẩm Bát nhã quyển 3, kinh Đại tập quyển 54 và luận Đại trí độ quyển 31, thì “Không” có 18 loại: Nội không, Ngoại không, Nội ngoại không, Không không, Đại không, Đệ nhất nghĩa không, Hữu vi không, Vô vi không, Tất kính không, Vô thủy không, Tán không, Tính không, Tự tướng không, Chư pháp không, Bất khả đắc không, Vô pháp không, Hữu pháp không và Vô pháp hữu pháp không…
(Phật Quang Đại Từ Điển)
[1] Nhân địa 因地 Đối lại: Quả địa. Đồng nghĩa: Nhân vị. Chỉ cho các địa vị hoặc giai vị đạt được trong quá trình từ khi tu tập nhân hạnh (tu nhân) đến chứng quả vị (chứng quả).
[2] TAM ĐẾ 三諦 Chỉ cho Không đế, Giả đế và Trung đế là chân lý của thật tướng của các pháp theo thuyết của tông Thiên Thai. Cách chia Tam đế này có xuất xứ từ phẩm Hiền thánh học quán trong kinh Anh lạc bản nghiệp quyển thượng và phẩm Nhị đế trong kinh Nhân vương bát nhã quyển thượng.
Trong Pháp hoa huyền nghĩa quyển 1 thượng, 2 hạ và Ma-ha chỉ quán quyển 1 hạ, 3 thượng, 5 thượng… Trí Khải Đại sư nói về Tam đế như sau:
1. Không đế (cũng gọi Chân đến, Vô đế): Các pháp vốn không mà chúng sinh không rõ, chấp đó là thực nên sinh ra vọng kiến. Nếu dùng Không quán để đối trị thì tính chấp tự diệt, liền lìa các tướng, tỏ ngộ lý Chân không.
2. Giả đế (cũng gọi Tục đế, Hữu đế): Các pháp tuy vốn không nhưng khi nhân duyên hội tụ thì hiện ra có rõ ràng; ở trong chỗ không ấy mà giả lập ra tất cả các pháp, cho nên gọi là Giả đế.
3. Trung đế (cũng gọi Trung đạo đệ nhất nghĩa đế): Dùng Trung quán mà quán xét thì các pháp xưa nay chẳng lìa 2 bên, chẳng là 2 bên, chẳng phải chân chẳng phải tục, là Chân là Tục, thanh tịnh rỗng suốt, viên dung vô ngại, cho nên gọi là Trung đế. (theo Phật Quang Đại Từ Điển)
1. [3] Tạng giáo: Gọi đủ: Tam tạng (kinh, luật, luận) giáo, chỉ cho Tiểu thừa giáo. Tức là Đức Phật nói riêng Tứ đế sinh diệt cho hàng Tam thừa, phân tích Không quán cùng đoạn Kiến, Tư hoặc, khiến họ vào Niết-bàn vô dư.
2. Thông giáo: chỉ cho giáo pháp Bát-nhã, nghĩa dung thông cả Tiểu thừa và Đại thừa, bao hàm đạo lý vừa sâu xa kín nhiệm vừa rõ ràng dễ hiểu, tức là Đức Phật nói Tứ đế vô sinh cho hàng Tam thừa, khiến họ cũng vào Niết-bàn vô dư.
3. Biệt giáo: chỉ cho giáo pháp trong các kinh Phương đẳng (kinh Đại thừa). Tức là Đức Phật nói Tứ đế vô lượng riêng cho hàng Đại Bồ-tát, không chung cho hàng Nhị thừa, dùng Tam quán (Không quán, Giả quán, Trung quán) theo thứ tự phá Tam hoặc (Kiến tư hoặc, Trần sa hoặc & Vô minh hoặc), khiến họ chứng lý “Đãn trung” (lý Trung quán).
4. Viên giáo: chí cho giáo nghĩa kinh Hoa Nghiêm, tức là Đức Phật nói Tứ đế vô tác cho hàng Bồ-tát, dùng Tam quán viên dung (Tức không, Tức giả, Tức trung) cùng đoạn Tam hoặc, khiến chứng lý “Bất đãn trung” (lý Trung đạo).
(Phật Quang Đại Từ Điển)
[4] Cũng gọi Ngũ quán, Ngũ niệm, Ngũ đình tâm, Ngũ độ quán môn, Ngũ độ môn, Ngũ môn thiền. Là năm pháp quán dứt trừ phiền não mê hoặc. Đó là:
1. Bất tịnh quán: Quán tưởng thân mình và thân người là nhơ nhớp để trừ bỏ lòng tham muốn.
2. Từ bi quán: cũng gọi là Từ tâm quán, Từ mẫn quán. Quán tưởng lòng thương xót để đối trị với phiền não oán giận.
3. Duyên khởi quán: cũng gọi là Nhân duyên quán, Quán duyên quán. Quán tưởng 12 duyên khởi (12 nhân duyên) thuận và nghịch (theo chiều sinh khởi và hoàn diệt) để đối trị phiền não ngu si.
4. Giới phân biệt quán: cũng gọi Giới phương tiện quán, Tích giới quán, Phân tích quán, Vô ngã quán. Quán tưởng các pháp 18 giới đều do sự hòa hợp của đất, nước, lửa, gió, không và thức mà có thể đối trị ngã chấp.
5. Sổ tức quán: cũng gọi là An-na-ban-na quán, Trì tức niệm. Đếm số hơi thở ra, thở vào để đối trị tầm (Tầm, Phạn: vitara là tên của Tâm sở, 1 trong 100 pháp Duy thức, chính là tìm cầu suy xét, nhưng đây là tác dụng suy xét thô thiển đối với sự lý nên khiến tâm vội vàng, vụt chạc), tứ (Tứ, Phạn: vicara, cũng là tên của Tâm sở, 1 trong 100 pháp Duy thức, cũng chính là suy lường, suy xét nhưng là suy lường vi tế. Tính chất thô của tâm gọi là Tầm, tính chất tế của tâm gọi là Tứ. Do vì tìm cầu, suy xét lâu làm cho thân mỏi mệt, niệm tán loạn mà tâm cũng hao tổn, cho nên Tầm, Tứ đều là Tùy phiền não) tán loạn, giữ cho tâm dừng yên ở một cảnh.
(theo Phật Quang Đại Từ Điển & Luận Đại Thừa 100 Pháp Minh Môn Hòa Thượng Tuyên Hóa lược giảng)
[5] Biệt tướng niệm trụ: Quán xét tự tính và tướng chung của 4 đối tượng: Thân, thọ, tâm, pháp để đối trị 4 điên đảo: Tịnh, lạc, thường, ngã.
“Từ ngũ đình tâm vị, tiến lên biệt tướng niệm trụ vị, tức là quán riêng từng niệm thân, thọ, tâm hoặc pháp. Bởi tâm hay khởi lên vọng kiến điên đảo, duyên theo thân bất tịnh mà chấp tịnh, duyên theo thọ khổ mà chấp lạc, duyên theo tâm vô thường mà chấp thường, duyên theo pháp vô ngã mà chấp ngã. Nay muốn đối trị bốn vọng kiến điên đảo ấy, phải dùng trí lực năng quán để quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Lối quán này có hai cách là quán riêng tự tướng và quán riêng cộng tướng. Quán riêng tự tướng là quán tự tướng của thân chỉ là sắc chất do tứ đại tạo thành (đại chủng tạo sắc) gồm năm căn năm cảnh vốn là bất tịnh thì đối trị điên đảo chấp tịnh. Quán tự tướng của thọ chỉ là thọ tâm sở lãnh nạp cảnh thuận nghịch và phi thuận phi nghịch, vốn là khổ thì đối trị chấp lạc. Quán tự tướng của tâm chỉ là sáu thức tâm vương, vốn là vô thường thì đối trị điên đảo chấp thường. Quán tự tuớng của pháp chỉ do duyên hợp vốn là vô ngã thì đối trị điên đảo chấp ngã.”. (Câu-xá Luận, Abhidharma Kosa, phẩm Phân Biệt Hiền Thánh)
[6] Tổng tướng niệm trụ: Quán xét chung: thân, thọ, tưởng, tâm, pháp, và tu các hành tướng vô thường, khổ, không, vô ngã.
“Quán riêng cộng tướng là quán bốn thứ thân, thọ, tâm, pháp thứ nào cũng có đủ bốn tướng chung là thường, khổ, không, vô ngã. Như quán thân, thấy thân cùng các pháp hữu vi đồng là vô thường, cùng các pháp hữu lậu đồng là khổ, cùng tất cả các pháp duyên hợp đồng là vô ngã, đồng là không. Quán thọ, tâm, pháp cũng giống như vậy.” (Câu-xá Luận, Abhidharma Kosa, phẩm Phân Biệt Hiền Thánh)
[7] Đây là giai vị “Noãn, Đảnh, Nhẫn và Thế đệ nhất” của Thanh văn thừa hay Tiểu thừa, chớ không phải giai vị hay cảnh giới “Noãn, Đảnh, Nhẫn và Thế đệ nhất” trình bày trong Kinh Lăng Nghiêm.
[8] Cũng gọi Thất hiền, Thất hiền vị, Thất gia hạnh vị. Chỉ cho 7 giai vị Phương tiện từ Kiến đạo trở xuống của hàng Thanh văn do tông Câu-xá thuộc Tiểu thừa thành lập, đó là: Ngũ đình tâm quán, Biệt tướng niệm trụ, Tổng trước niệm trụ, Noãn pháp, Đỉnh pháp, Nhẫn pháp và Thế đệ nhất pháp.
(theo Phật Quang Đại Từ Điển)
[9] Tòng Không xuất Giả quán (từ Không đi ra mà vào Giả quán), đồng nghĩa với “xuất Giả hành” 出假行: Từ Không đi ra mà vào Giả. Nghĩa là trong 3 pháp quán Không, Giả, Trung thì Bồ-tát từ Không quán ra mà vào Giả quán, gọi là xuất Giả hành. Bồ-tát tu hành tuy đã chứng được lý Không, nhưng không chỉ dừng lại ở lý Không, mà từ lý Không một lần nữa bắt đầu quán Giả, mỗi mỗi rõ biết tướng sai khác của thế giới hiện tượng để giáo hóa làm lợi ích chúng sinh. (xem thêm “Tam Quán”).
(Phật Quang Đại Từ Điển, HT. Quảng Độ)
[10] TỨ CÚ BÁCH PHI 四句,百非 “Bốn câu, Trăm chẳng phải”. Thuật ngữ thường được sử dụng để thuyết minh lý chân không vô tướng dứt bặc nói năng, chẳng thể nghĩ bàn.
Tứ cú chỉ cho 4 câu: có; không; vừa có vừa không; và chẳng phải có chẳng phải không, hoặc chỉ cho 4 câu: khẳng định; phủ định; một phần phủ định một phần khẳng định; cả hai đều phủ định, để làm hình thức phán đoán các luận nghị nói chung.
Còn Bách phi thì chỉ cho 100 thứ phủ định, như Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 21 nói Niết-bàn của Như Lai là: Chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu, cho đến chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại… Do đó mà biết Tứ cú Bách phi đều là những khái niệm giả danh, căn cứ vào lập trường của tất cả sự phân đoán và nghị luận mà được thiết lập. Nhưng tông chỉ tột cùng của Phật giáo là ở chỗ vượt ngoài những khái niệm giả danh này mà đạt đến cảnh giới dứt bặc nói bàn, suy tưởng, cho nên câu nói: “Ly tứ cú tuyệt bách phi” rất nổi tiếng và thịnh hành trong Thiền lâm.
(theo Phật Quang Đại Từ Điển)
[1] tri Khổ, đoạn Tập, mộ Diệt, tu Đạo.
[2] Tính chất đặc trưng của thời Chánh Pháp là "thiền định kiên cố" tức là ưa thich tu hành, ưa thích hướng nội, phản bổn hoàn nguyên. Đến thời Tượng Pháp thì tính chất đặc trưng của thời này là bắt đầu hướng ngoại, chú trọng đến việc xây dựng tự viện, chùa chiền nên là “tự miếu kiên cố”. Và tính chất đặc trưng của thời Mạt Pháp chúng ta là “đấu tranh kiên cố”, ưa tranh đấu, giành giựt hơn là phước huệ song tu (của thời Chánh Pháp) hay chú trọng tu phước (của thời Tượng Pháp) mà bản chất của A-tu-la là ưa thích tranh đấu nên nói A-tu-la “đấu tranh kiên cố” là vậy.
[3] Vô sở hữu xứ無 所有處 (Cg: Vô sở hữu xứ thiên; S: Ākiñcanyāyatana, Ākiṃcanya-āyatana): tầng trời thứ ba trong bốn tấng trời cõi Vô sắc, cảnh giới siêu việt Thức vô biên xứ định, phát sanh nhờ quán sở duyên đều Vô sở hữu, tư duy tướng Vô sở hữu. (theo Phật Quang Đại Từ Điển)
[4] Trời Phi phi tưởng xứ 非 非想處天 (Cg: Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên; S: Nai va-saṃjñānāsaṃjñāyatana): tầng trời thứ tư, tầng tột đỉnh của cõi Vô sắc, là tầng cao hơn hết trong ba cõi, nên còn gọi Hữu đảnh thiên.
H2. TRÙNG TỤNG (có 3 phần)
I1. Kệ Tụng Nêu Chung Hành Xứ Và Thân Cận Xứ
I2. Kệ Tụng Giải Thích Riêng Hành Xứ Và Thân Cận Xứ
I3. Nói Rõ Thế Nào Hạnh Thân An Lạc Được Thành Tựu
I1. KỆ TỤNG NÊU CHUNG HÀNH XỨ VÀ THÂN CẬN XỨ
Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Nếu có vị Bồ-tát
Trong đời ác sau này
Tâm không hề sợ hãi
Mà muốn nói kinh này
Nên trụ trong “hành xứ”
Cùng với “thân cận xứ”.
Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:
Nhược hữu Bồ-tát
Ư hậu ác thế
Vô bố úy tâm
Dục thuyết thử kinh
Ưng nhập hành xứ
Cập thân cận xứ
Ngay lúc ấy, Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn muốn giảng ý này cặn kẽ hơn một chút, nên lại dùng kệ tụng để nói.
“Nếu có vị Bồ-tát”: giả sử có Bồ-tát Ma-ha-tát. Vị Bồ-tát Ma-ha-tát này cũng chính là hàng Bồ-tát phát tâm, Đại Bồ-tát hành Bồ-tát đạo.
“Trong đời ác sau này, tâm không hề sợ hãi, mà muốn nói kinh này”, tức vào đời ác ở tương lai, không có tâm lý sợ hãi, muốn nói bộ “Kinh Pháp Hoa” này, “nên trụ trong hành xứ, cùng với thân cận xứ”: cần vào chỗ an lạc mà hành đạo, và gần gũi chỗ nên gần gũi.
I2. KỆ TỤNG GIẢI THÍCH RIÊNG HÀNH XỨ VÀ THÂN CẬN XỨ (có 2 phần):
J1. Thân Cận Xứ Là Tránh Xa
J2. Thân Cận Xứ Là Không Tránh Xa Không Gần Gũi (Phi Viễn Phi Cận)
J1. THÂN CẬN XỨ LÀ XA RỜI
Thường xa rời quốc vương
Và con của quốc vương
Các đại thần, quan trưởng
Kẻ chơi trò hung hiểm
Cùng bọn Chiên-đà-la
Hàng ngoại đạo, Phạm-chí
Thường ly quốc vương
Cập quốc vương tử
Đại thần quan trưởng
Hung hiểm hý giả
Cập Chiên-đà-la
Ngoại đạo Phạm-chí.
Bồ-tát tu Bồ-tát đạo “thường xa rời quốc vương”: nên tránh xa nhà vua ra một chút, chớ gần gũi; “và con của quốc vương”: cũng không nên gần gũi thái tử con vua; “các đại thần, quan trưởng”: cũng không nên gần gũi những người làm quan; “kẻ chơi trò hung hiểm”: những người diễn các trò võ thuật; “cùng bọn Chiên-đà-la”: hạng người làm nghề đồ tể, giết heo, bò, dê, loại người này cũng không nên gần gũi. “Hàng ngoại đạo, Phạm-chí”: và tất cả hạng người ngoại đạo. Ngoại đạo tức là người tu theo pháp của đạo khác; Phạm-chí cũng là tên của một loại ngoại đạo, còn gọi là “Bà-la-môn”.
Cũng không nên gần gũi
Hạng người tăng thượng mạn
Hàng học giả tham đắm
Kinh, Luật, Luận Tiểu thừa.
Những Tỳ-kheo phá giới
Danh tự A-la-hán
Và những Tỳ-kheo-ni
Người thích chơi giỡn cười.
Kẻ đắm mê năm dục
Cầu hiện đời diệt độ
Cùng các Ưu-bà-di
Đều chớ có gần gũi.
Diệc bất thân cận
Tăng thượng mạn nhân
Tham trước Tiểu thừa
Tam Tạng học giả
Phá giới Tỳ-kheo
Danh tự La-hán
Cập Tỳ-kheo-ni
Hiếu hý tiếu giả
Thâm trước ngũ dục
Cầu hiện diệt độ
Chư Ưu-bà-di
Giai vật thân cận
“Cũng không nên gần gũi, hạng người tăng thượng mạn”: cũng nên tránh xa hạng người tăng thượng mạn ra một chút; “hàng học giả tham đắm; Kinh, Luật, Luận Tiểu thừa”: cũng không nên gần gũi những người tham đắm pháp Tiểu thừa, tu hạnh Thanh văn, Duyên giác, không phát tâm Đại thừa. Ba tạng giáo điển Kinh, Luật, Luận của Tạng giáo[1] chính là giáo pháp của Tiểu thừa; hạng người chuyên tu giáo lý Tam Tạng này, cũng không nên gần gũi.
“Những Tỳ-kheo phá giới, danh tự A-la-hán”: Tỳ-kheo không giữ giới luật, hoặc kẻ mạo xưng A-la-hán, chỉ có tên gọi A-la-hán mà không có đạo đức của bậc A-la-hán; “và những Tỳ-kheo-ni, người thích chơi giỡn cười”: cùng với hạng Tỳ-kheo-ni phá giới, và những người thích chơi đùa, thích nói cười. “Kẻ đắm mê năm dục, cầu hiện đời diệt độ”: vì những người này đắm trước ngũ dục, dính mắc nơi “sắc, thanh, hương, vị, xúc”, hoặc “tài, sắc, danh, thực, thùy”, muốn cầu được diệt độ trong hiện đời.“Cùng các Ưu-bà-di, đều chớ có gần gũi”: và các Ưu-bà-di; những hạng người này đều chớ nên gần gũi.
Nếu những hạng người này
Vì tâm tốt mà đến
Tại chỗ của Bồ-tát
Để cầu nghe Phật đạo.
Bồ-tát thời nên dùng
Tâm không chút sợ hãi
Cũng không lòng mong cầu
Mà vì họ nói pháp.
Nhược thị nhân đẳng
Dĩ hảo tâm lại
Đáo Bồ-tát sở
Vị văn Phật đạo
Bồ-tát tức dĩ
Vô sở úy tâm
Bất hoài hy vọng
Nhi vi thuyết pháp
“Nếu những hạng người này”: giả sử những hạng người này – hạng tăng thượng mạn, Tỳ-kheo phá giới, Tỳ-kheo-ni phá giới, Ưu-bà-tắc phá giới, Ưu-bà-di phá giới và hạng Chiên-đà-la làm nghề đồ tể nêu ở trên. “Vì tâm tốt mà đến, tại chỗ của Bồ-tát, để cầu nghe Phật đạo”: với tâm cầu đạo, muốn gần gũi Tam Bảo, những hạng người trên đến chỗ của vị tu tập Bồ-tát đạo, mong được nghe Phật pháp; “Bồ-tát thời nên dùng, tâm không chút sợ hãi”: vị tu hạnh Bồ-tát này phải nên dùng tâm không sợ hãi; “cũng không lòng mong cầu, mà vì họ nói pháp”: trong lúc này, không nên có tâm tham lam, tâm phan duyên, tâm ham muốn được cúng dường, tâm mong cầu mà nói pháp cho họ.
Những gái góa, gái trinh
Và các kẻ bất nam
Đều chớ có gần gũi
Kết giao hay bè bạn.
Cũng chớ có gần gũi
Kẻ đồ tể, khôi khoái
Săn bắn và chài lưới
Vì lợi mà giết hại.
Bán thịt để sinh sống
Kẻ bán sắc buôn hương
Những hạng người như thế
Đều chớ có gần gũi.
Quả nữ xử nữ
Cập chư bất nam
Giai vật thân cận
Dĩ vi thân hậu
Diệc mạc thân cận
Đồ nhi khôi quái
Điền liệp ngư bộ
Vị lợi sát hại
Phiến nhục tự hoạt
Huyễn mại nữ sắc
Như thị chi nhân
Giai vật thân cận
“Những gái góa, gái trinh”: gái góa tức là phụ nữ có chồng qua đời. Gái trinh là những cô gái chưa kết hôn, chưa từng gần gũi phái nam. “Và những kẻ bất nam”: năm hạng chẳng phải là người nam: sanh bất nam, đố bất nam, kiền bất nam, biến bất nam, bán bất nam. Những hạng người như thế “đều chớ có gần gũi, kết giao làm bè bạn”: đều không nên gần gũi và kết bạn với họ.
“Cũng chớ có gần gũi”: cũng không nên gần gũi”; “kẻ đồ tể, khôi khoái”: đồ tể, tức hạng người giết heo, bò… Khôi khoái, tức người đứng đầu, chỉ đạo giết; khoái, cũng là một loại người giết thịt bán. “Săn bắn và chài lưới”: những người săn bắn thú, chài cá, bắt chim. “Vì lợi mà giết hại”: vì liên quan đến lợi ích cá nhân mà giết hại chúng sanh. “Bán thịt để sinh sống”: hoặc loại người buôn bán các thứ thịt để duy trì cuộc sống của mình. “Kẻ bán sắc buôn hương”: những cô gái chuyên trang điểm thật đẹp để làm nghề bất chính. “Những hạng người như thế, đều chớ có gần gũi”: những hạng người giống như đã nói trên, đều không nên gần gũi.
Các trò chơi hung hiểm
Đùa cợt, chơi giỡn cười
Và những hạng dâm nữ
Tuyệt đối chớ nên gần.
Chớ riêng ở chỗ khuất
Nói pháp cho người nữ.
Nếu vì họ nói pháp
Chẳng được vui nói cười.
Khi vào xóm khất thực
Phải dắt một Tỳ-kheo
Nếu không có Tỳ-kheo
Phải một lòng niệm Phật.
Như thế thời gọi là
“Hành xứ”, “thân cận xứ”
Dùng hai xứ trên đây
Có thể an lạc nói.
Hung hiểm tương phác
Chủng chủng hy hý
Chư dâm nữ đẳng
Tận vật thân cận
Mạc độc bình xứ
Vị nữ thuyết pháp
Nhược thuyết pháp thời
Vô đắc hý tiếu
Nhập lý khất thực
Tương nhất Tỳ-kheo
Nhược vô Tỳ-kheo
Nhất tâm niệm Phật
Thị tắc danh vi
Hành xứ cận xứ
Dĩ thử nhị xứ
Năng an lạc thuyết
“Các trò chơi hung hiểm”: tức học võ nghệ đấu với nhau, anh đánh tôi, tôi đánh lại anh; “đùa cợt, chơi giỡn cười”: những hành vi nô đùa, chơi giỡn; “và những hạng dâm nữ”: cùng những người nữ buôn bán sắc đẹp không chính đáng. “Tuyệt đối chớ nên gần”: chớ nên gần gũi họ.
“Chớ riêng ở chỗ khuất, nói pháp cho người nữ”: khi chỉ có một mình người nam, không được ở chỗ khuất nói pháp cho người nữ nghe. Chỗ khuất (bình xứ) tức là nơi bị che chắn lại, người khác không trông thấy. “Nếu vì họ nói pháp, chẳng được vui nói cười”: nếu cần phải nói pháp, chớ nói cười vui vẻ, vừa giảng pháp vừa cười, vừa cười vừa nói pháp, chớ nên như thế!
“Khi vào xóm khất thực, phải dắt một Tỳ-kheo”: người tu Bồ-tát đạo, khi vào xóm làng hoặc ra phố chợ khất thực, cần phải đi hai người, tức là phải có một Tỳ-kheo khác cùng đi. “Nếu không có Tỳ-kheo, phải một lòng niệm Phật”: nếu không có Tỳ-kheo khác cùng đi thì nên trang nghiêm cung kính, nhất tâm niệm “ Nam mô A-di-đà Phật”, hoặc “ Nam mô Thích-ca Mâu-ni Phật”.
“Như thế thời gọi là: hành xứ, thân cận xứ”: những điều đã nêu trên, chính là chỗ tu hành và chỗ gần gũi của người tu tập Bồ-tát đạo. “Dùng hai xứ trên đây, có thể an lạc nói”: an trụ nơi hành xứ và thân cận xứ này, sẽ được an lạc, có thể thuyết pháp cho đại chúng mà không hề lo sợ.
Quý vị niệm “Chú Đại Bi”, nếu thành tâm thì việc mua đạo tràng của chúng ta sẽ thành công; bằng không thì sẽ không thành công. Không thành công, sẽ không có đạo tràng; nếu không có đạo tràng, thì không thể nào giảng kinh thuyết pháp. Tối hôm nay là buổi tối cực kỳ quan trọng. Bởi vì tối nay, nếu như thành tâm niệm “Chú Đại Bi”, ngày mai sẽ chiêu cảm khiến cho họ đồng ý giá cả của chúng ta; nếu họ đồng ý, chúng ta sẽ có một đạo tràng. Ý tôi là nhất định phải thành công, không được thất bại! Vì sao? Hơn ba mươi năm trước, tôi đã rất thích vùng đất này; nhưng bấy giờ giá của nó quá mắc, đến sáu mươi hai ngàn. Đến giờ, họ lại bảo sẽ giảm giá, còn năm mươi lăm ngàn; bây giờ, nếu giá khoảng chừng năm mươi ngàn thì chúng ta mua được. Chúng ta nhất định phải thành công, nếu không thì nơi này của chúng ta không đủ sử dụng; vì vậy, tôi hy vọng mọi người thành tâm hơn nữa khi niệm “Chú Đại Bi” vào buổi tối hôm nay.
Thêm nữa, chúng ta phải mời người vào làm hội viên ở chỗ chúng ta, người đã quy y, thì nhất định họ sẽ làm hội viên; còn người chưa quy y, nếu ai bằng lòng làm hội viên lâu dài, thì chúng ta vẫn rất hoan nghênh.
Đạo tràng xây dựng càng lớn càng tốt, có thể chứa được mấy trăm ngàn người, giống như một doanh trại lớn của quân đội vậy. Đạo tràng rộng lớn này của chúng ta cũng chứa được mấy trăm ngàn, mấy triệu, mấy chục triệu người, phải rộng lớn như thế.
Mỗi vị đều nên phát nguyện xây dựng đạo tràng. Đừng sợ nhiều, đạo tràng càng nhiều càng tốt! Mỗi gia đình đều biến thành một đạo tràng, như thế càng hay! Mỗi cá nhân biến thành một đạo tràng, được thế lại càng tốt! Thậm chí toàn thế giới đều biến thành một đạo tràng lớn, khi ấy, sẽ không một ai sát sanh, cũng không ai trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, cũng không có ai uống rượu! Những người bán rượu đều sẽ thất nghiệp, vì không còn người uống.
1. [1]Tạng giáo: Gọi đủ: Tam tạng (kinh, luật, luận) giáo, chỉ cho Tiểu thừa giáo. Tức là Đức Phật nói riêng Tứ đế sinh diệt cho hàng Tam thừa, phân tích Không quán cùng đoạn Kiến, Tư hoặc, khiến họ vào Niết-bàn vô dư.
2. Thông giáo: chỉ cho giáo pháp Bát-nhã, nghĩa dung thông cả Tiểu thừa và Đại thừa, bao hàm đạo lý vừa sâu xa kín nhiệm vừa rõ ràng dễ hiểu, tức là Đức Phật nói Tứ đế vô sinh cho hàng Tam thừa, khiến họ cũng vào Niết-bàn vô dư.
3. Biệt giáo: chỉ cho giáo pháp trong các kinh Phương đẳng (kinh Đại thừa). Tức là Đức Phật nói Tứ đế vô lượng riêng cho hàng Đại Bồ-tát, không chung cho hàng Nhị thừa, dùng Tam quán (Không quán, Giả quán, Trung quán) theo thứ tự phá Tam hoặc (Kiến tư hoặc, Trần sa hoặc & Vô minh hoặc), khiến họ chứng lý “Đãn trung” (lý Trung quán).
4. Viên giáo: chỉ cho giáo nghĩa kinh Hoa Nghiêm, tức là Đức Phật nói Tứ đế vô tác cho hàng Bồ-tát, dùng Tam quán viên dung (Tức không, Tức giả, Tức trung) cùng đoạn Tam hoặc, khiến chứng lý “Bất đãn trung” (lý Trung đạo).
(Phật Quang Đại Từ Điển)
(Đại Lão Hòa Thượng thượng Tuyên hạ Hóa giảng thuật vào năm 1968, tại Phật Giáo Giảng Đường, San Francisco, California)
Phẩm 14: HẠNH AN LẠC
Kệ khai kinh
Phật pháp cao siêu rất thẳm sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tầm cầu.
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Phẩm này có tên là “Phẩm Hạnh An Lạc”. “Hạnh An Lạc” chính là “Hạnh Bồ-tát”; “Hạnh Bồ-tát” cũng chính là “Hạnh An Lạc”. “An” chính là an trụ nơi hạnh này; “lạc” là vui vẻ—vui vẻ an trụ là hạnh môn tu tập của hàng Bồ-tát. “An” tức là thân an ổn mà tâm cũng an ổn, thân tâm đều an ổn trụ nơi cảnh giới hành Bồ-tát đạo. Không những an trụ nơi cảnh giới này, mà còn vui vẻ nữa. Vì sao lại vui vẻ? Bởi vì chính mình vui mừng, hoan hỷ hành đạo Bồ-tát này. Các phẩm “Phẩm Pháp Sư”, “Phẩm Đề Bà Đạt Đa”, “Phẩm Khuyến Trì” ở trước đều rất quan trọng, phẩm này càng quan trọng hơn. Vì sao được an lạc? Vì được ngồi tòa Như Lai, mặc áo Như Lai, vào nhà Như Lai. Tu hạnh an lạc này là một con đường tất yếu phải đi qua của người hành Bồ-tát đạo, vì thế phẩm này gọi là “Phẩm Hạnh An Lạc”, đây là phẩm thứ 14.
D2: NÊU NGUYÊN TẮC, phân hai phần
E1. Văn-Thù Thưa Hỏi
E2. Như Lai Trả Lời
E1. VĂN-THÙ THƯA HỎI
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Các vị Bồ-tát này thật là hiếm có, vì kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn: Ở trong đời ác sau này sẽ hộ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa này. Bạch Đức Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát ở trong đời ác sau này, làm thế nào để có thể giảng nói kinh này?
Nhĩ thời, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ-tát Ma-ha-tát bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Thị chư Bồ-tát, thậm vi hy hữu, kính thuận Phật cố, phát đại thệ nguyện, ư hậu ác thế, hộ trì độc thuyết thị Pháp Hoa Kinh. Thế Tôn! Bồ-tát Ma-ha-tát, ư hậu ác thế, vân hà năng thuyết thị kinh?
“Bấy giờ”: tức là ngay sau khi nói “Phẩm Khuyến Trì” xong, Đức Phật bắt đầu nói đến “Phẩm An Lạc Hạnh”.
“Văn-thù-sư-lợi”: là Phạn ngữ (Manjushri), Trung Hoa có chỗ dịch là “Diệu Đức”, cũng có chỗ dịch là “Diệu Cát”. Diệu Đức hay Diệu Cát thì ý nghĩa đều như nhau. Khi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ra đời thì có mười điềm lành hiện ra, không giống như các Bồ-tát khác. Mười điềm lành này tiêu biểu cho “Thập Độ Ba-la-mật” của Bồ-tát Đại Trí Văn-thù-sư-lợi, gồm có:
1. Ánh sáng chiếu rực khắp nhà.
2. Sương ngọt (cam lộ) đầy sân.
3. Bảy thứ báu từ dưới đất trồi lên.
4. Thần mở hang kín.
5. Gà sanh ra Phượng Hoàng.
6. Heo sanh ra Rồng con.
7. Ngựa sanh ra Kỳ Lân.
8. Bò sanh ra Bạch Trạch[1].
9. Lúa trong kho biến thành vàng.
10. Voi có sáu ngà.
Tóm lại, cảnh giới của vị Bồ-tát này thật không thể nghĩ bàn.
Khi vị Bồ-tát này tu Bồ-tát hạnh, Ngài không hề nói dối, cũng không sát sanh, không trộm cướp, mà nghiêm cẩn giữ gìn giới luật. Căn cứ vào đâu để chứng minh là Ngài giữ giới luật mà không trộm cắp? Có một lần, Ngài nói với các Bồ-tát khác rằng: “Từ khi tôi phát tâm tu hành, tôi đã giữ giới không trộm cắp; vì thế ngày nay, đồ vật của tôi không bị người khác lấy trộm; chẳng những không bị người trộm cắp, mà dù cho tôi có để những món đồ quý giá nhất ở ngoài đường, cũng chẳng có ai nhặt mất!” Có vị Bồ-tát không tin lời này, bèn nói: “Thế thì bây giờ chúng tôi sẽ làm một cuộc thử nghiệm. Ngài hãy đem một món đồ quý giá nhất ra để giữa đường ngay trước cửa thành, vì nơi đó có nhiều người qua lại. Trong vòng ba ngày nếu như không có người nhặt, mới chứng minh được lời Ngài nói là thật.”.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: “Được! Chúng ta hãy cứ thử xem sao!” Thế là Ngài đem một hạt châu Ma-ni cực kỳ quý giá và một số vật quý khác để ở giữa đường trước cửa thành. Những người muốn ra vào thành đều phải đi qua cửa thành này; tuy người qua kẻ lại đông đúc và tấp nập, thế mà trong suốt ba ngày, quả nhiên không có ai nhặt cả, bảo châu vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Lúc này, các Bồ-tát mới tin việc Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giữ gìn giới “không trộm cắp” là sự thật.[2]
Lại nữa, trí tuệ của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thuộc vào bậc nhất. Vì sao trí tuệ của Ngài lại thuộc vào bậc nhất? Chính do Ngài tu tập hạnh Bát-nhã; từ khi mới bắt đầu tu tập Bồ-tát đạo, Ngài đã tu ba món Bát-nhã: là Văn tự Bát-nhã, Quán chiếu Bát-nhã và Thật tướng Bát-nhã, vì thế trí tuệ của Ngài cực lớn.
Đức Phật Thích-ca khi chưa thành Phật, đã từng theo học Phật pháp với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Phần trước của “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” có đề cập đến “Bồ-tát Diệu Quang”, chính là vị Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi này! Vì vậy, hiện tại chúng ta tu tập, sau khi thọ giới rồi thì nhất định phải giữ giới một cách nghiêm túc; nếu như hiện tại chúng ta không nghiêm túc giữ gìn giới luật thì sau này, khi thành Đạo cũng sẽ không chân thật. Chúng ta cần phải học hạnh không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu như Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi!.
“Pháp Vương Tử”: Phật là đấng Pháp Vương – là Vua trong các pháp, là bậc Trời trong hàng trời, là bậc Thánh trong hàng thánh; thế còn Bồ-tát thì sao? Chính là con của Đấng Pháp Vương, cho nên gọi Ngài là “Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử”.
“Bồ-tát”: “Bồ-tát” là Phạn ngữ và gọi đầy đủ là “Bồ-đề-tát-đỏa” (Bodhisattva). Bồ-đề là “giác”; tát-đỏa là “hữu tình”. Bồ-đề-tát-đỏa chính là “giác hữu tình” –khéo giác ngộ tất cả hữu tình, giúp họ đạt đến giác ngộ. Lại nữa, vị Bồ-tát này cũng giống như tất cả chúng sanh chúng ta, chẳng qua Ngài đã giác ngộ, nên trở thành một bậc giác ngộ trong chúng hữu tình.
“Ma-ha-tát”: Ma-ha là “đại”; tát là “Bồ-tát”, có nghĩa Ngài là một vị đại Bồ-tát trong số các Bồ-tát. Đại Bồ-tát cũng là “Lão Bồ-tát”, và Lão Bồ-tát không phải là một “Tiểu Bồ-tát”. Bồ-tát mới phát tâm được gọi là Tiểu Bồ-tát. Các Bồ-tát mới phát tâm thì không hẳn là đều có thể trở thành Bồ-tát; vì sao? Vì trong các Bồ-tát mới phát tâm, có người chỉ phát tâm được một ngày, có người phát tâm được hai ngày, ba ngày… rồi liền thoái tâm Bồ-đề, quay gót chạy trở về! Giống như Tôn-giả Xá-lợi-phất hành Bồ-tát đạo, lúc mới phát tâm Bồ-đề, gặp phải sự khảo nghiệm liền thoái lui. Vì thế, người xưa có mấy câu kệ rất hay như thế này:
Trứng cá, nại-ma-la,
Bồ-tát mới phát tâm
Nhân ba việc này nhiều
Kết quả chẳng bao nhiêu!
Ngư tử, Nại-ma-la,
Bồ-tát sơ phát tâm,
Tam sự nhân trung đa,
Cập kỳ kết quả thiểu!
“Ngư tử” tức là trứng cá--fish egg. Cá sinh rất nhiều trứng, nhưng không phải tất cả đều nở thành cá con.
“Nại-ma-la” (amalaka) là một loại cây ở Ấn Độ, những nước khác rất hiếm thấy. Loại cây này trổ rất nhiều hoa, nhưng không chắc đã đậu được dù chỉ một quả.
“Bồ-tát sơ phát tâm.” Bồ-tát sơ phát tâm thì rất nhiều, một khi nghe nói hành đạo Bồ-tát là tốt, liền phát ngay tâm Bồ-đề; nhưng khi trải qua một thời gian, gặp phải sự thử thách, cảm thấy hành đạo Bồ-tát thật không phải dễ, chi bằng không hành! Bởi thế, Bồ-tát sơ phát tâm thì rất đông, nhưng thật sự trở thành Lão Bồ-tát thì không nhiều lắm! “Tam sự nhân trung đa” có nghĩa là cả ba sự việc trứng cá, quả Nại-ma-la và Bồ-tát sơ phát tâm khởi đầu tại nhân địa thì gieo nhân rất nhiều; tuy nhiên “cập kỳ kết quả thiểu,” đến lúc được thành tựu thật sự thì lại rất ít.
Do đó, vị Lão Bồ-tát này đã từng trải qua quá trình tôi luyện; “tôi luyện” như thế nào? Chính là dùng lửa để tôi luyện. Đây không phải là dùng lửa để thiêu đốt Bồ-tát, vậy thì thế nào? Giống như ở trong nước và lửa, lửa thiêu đốt đau đớn như thế, nước nhấn chìm khó chịu như thế; nhưng khi đã trải qua quá trình rèn giũa khó nhẫn chịu này, thì sự tôi luyện đã thành công! Vì thế, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi này không chỉ là Lão Bồ-tát, mà còn là Đại Bồ-tát, còn là một Đại Bồ-tát không thể nghĩ bàn!
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi “bạch Phật”, tức là ngài thưa với Đức Phật, thưa điều gì? “Bạch Đức Thế Tôn! Các vị Bồ-tát này thật là hiếm có”: Đức Thế Tôn! Những vị Bồ-tát này hiện đang ở trước Đức Phật phát đại thệ nguyện, đây là điều rất hiếm lạ, rất ít có. “Vì kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn, ở trong đời ác về sau sẽ hộ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa này”: bởi những vị này vô cùng cung kính Phật, cho nên thuận theo tâm ý Ngài mà phát thệ nguyện rộng lớn, sẵn lòng ở trong đời ác năm trược này, nhẫn chịu những điều người khác khó nhẫn, thực hành những hạnh khổ người khác không thể hành. Trong đời Mạt pháp sau này, các vị ấy sẵn lòng hộ trì những người thọ trì kinh điển, đọc tụng kinh điển, giảng nói kinh điển. Đó là kinh điển nào? Chính là bộ: “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.
Hiện tại, chúng ta giảng “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, sẽ có không biết bao nhiêu vạn Bồ-tát, Thanh văn, Duyên-giác có mặt ở đây để hộ trì đạo tràng. Vì sao? Vì những vị Bồ-tát này, trong đời quá khứ đều đã phát nguyện ấy, bởi thế, có pháp hội “Kinh Pháp Hoa” thì những vị ấy nhất định sẽ ủng hộ pháp hội này; cũng giống như Đức Đa Bảo Như Lai, Ngài đã phát nguyện nơi nào có Đức Phật giảng “Kinh Pháp Hoa” thì Ngài sẽ hiện thân đến trước vị đó để bảo chứng.
“Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát ở trong đời ác về sau, làm thế nào để giảng nói kinh này?”: Đức Thế Tôn! Có đại Bồ-tát muốn hoằng dương “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”, ở trong đời Mạt pháp sau này, trong một thế giới tội ác đầy dẫy như thế. Thế giới hiện tại của chúng ta đây, mọi người đều thích dùng sức mạnh để tranh hơn thua, thích đánh nhau, người tranh với người, nhà tranh với nhà, nước tranh với nước, thế giới tranh với thế giới. Thế giới này muốn chinh phục thế giới kia, thế giới kia lại muốn chinh phục thế giới này, vì thế loài người muốn chạy lên mặt trăng, người ở mặt trăng lại muốn chạy đến thế giới Ta-bà; đây gọi là “ở trong đời ác về sau”. Vào thời Mạt pháp tội ác đầy dẫy, làm thế nào mới có thể giảng nói “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã thưa hỏi Đức Phật điều này.
E2. NHƯ LAI TRẢ LỜI (có 2 phần)
F1. Nêu Chung Cương Yếu
F2. Giải Thích Rõ Bốn Hạnh
F1. NÊU CHUNG CƯƠNG YẾU
Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Nếu Đại Bồ-tát, ở trong đời ác về sau, muốn nói kinh này, phải an trụ bốn pháp.
Phật cáo Văn Thù Sư Lợi: nhược Bồ-tát Ma-ha-tát, ư hậu ác thế, dục thuyết thị kinh, đương an trụ tứ pháp.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi rằng nếu có vị Đại Bồ-tát phát tâm hoằng dương bộ kinh này, ở trong thế giới tội ác đời sau, vị ấy phát tâm muốn giảng nói bộ “Kinh Diệu Pháp Kiên Hoa” này, cần phải an trụ trong bốn pháp.
F2. GIẢI THÍCH RÕ BỐN HẠNH (phân 4 phần)
G1. Hạnh Thân An Lạc (có 2 phần)
H1.Văn Trường Hàng (có 2 phần)
I1. Nêu chung “hành” và “cận”
I2. Giải thích riêng “hành” và “cận”
H2. Văn Trùng Tụng
G2. Hạnh Miệng An Lạc
G3. Hạnh Ý An Lạc
G4. Hạnh Thệ Nguyện An Lạc
I1. NÊU CHUNG “HÀNH XỨ” VÀ “THÂN CẬN XỨ”
Một: an trụ nơi hành xứ và thân cận xứ của Bồ-tát, thì có thể vì chúng sanh mà diễn nói kinh này.
Nhất giả, an trụ Bồ-tát hành xứ cập thân cận xứ, năng vị chúng sinh diễn thuyết thị kinh.
Bốn pháp này gồm: (1). “An trụ hành xứ của Bồ- tát”, nên cư trú chỗ Bồ-tát tu hành. Chỗ Bồ-tát tu hành là nơi nào? Chính là sáu pháp Ba-la-mật (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và bát-nhã), hoặc mười pháp Ba-la-mật (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, bát-nhã, phương tiện, nguyện, lực và trí). Cần phải cư trú trên mười pháp Ba-la-mật này, đây chính là chỗ tu hành của Bồ-tát. Cùng với “thân cận xứ của Bồ-tát”; nên cư trú cảnh giới hành trì của Bồ-tát, nên thân cận cảnh giới cần nên thân cận của Bồ-tát, như thế mới có thể vì chúng sanh mà diễn nói, giảng giải bộ “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” này.
I2. GIẢI THÍCH RIÊNG (có 2 phần):
J1. Giải Thích Hành Xứ
J2. Giải Thích Thân Cận Xứ
J1. GIẢI THÍCH HÀNH XỨ
Này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là hành xứ của Đại Bồ-tát? Nếu Đại Bồ-tát trụ nơi nhẫn nhục, nhu hòa thiện thuận mà không vụt chạc nóng nảy, tâm cũng không kinh sợ. Lại nữa, đối với các pháp mà vô sở hành (không chấp có sở hành sở chứng), mà lại quán tướng như thật của các pháp; song, chẳng hành theo (chẳng chấp vào) sự chẳng phân biệt ấy. Đây gọi là hành xứ của Đại Bồ-tát.
Văn Thù Sư Lợi! Vân hà danh Bồ-tát Ma-ha-tát hành xứ? Nhược Bồ-tát Ma-ha-tát trụ nhẫn nhục địa, nhu hòa thiện thuận, nhi bất tốt bạo, tâm diệc bất kinh; hựu phúc ư pháp vô sở hành, nhi quán chư pháp như thực tướng, diệc bất hành bất phân biệt, thị danh Bồ-tát Ma-ha-tát hành xứ.
Đoạn văn này giảng về ý nghĩa thế nào gọi là “hành xứ của Bồ-tát”.
“Này Văn-thù-sư-lợi!”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni gọi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo: Ông có biết chăng? “Thế nào gọi là hành xứ của Đại Bồ-tát?”: thế nào mới có thể gọi là chỗ tu hành của Đại Bồ-tát? “Nếu Đại Bồ-tát trụ nơi nhẫn nhục”: “Nếu” tức tỷ dụ như; tỷ dụ như khi vị Bồ-tát này tu tập hạnh nhẫn nhục, trụ trên mảnh đất nhẫn nhục.
Nói tới “nhẫn nhục”, thật không phải dễ; Đức Phật Thích-ca Mâu-ni trong đời quá khứ, khi làm tiên nhẫn nhục, bị vua Ca-lợi cắt đứt từng phần thân thể, nhưng trong tâm không hề khởi một niệm sân hận, đây mới đúng thực là trụ trên mảnh đất nhẫn nhục. Người nào từng nghe qua “Kinh Kim Cang” đều biết câu chuyện này, bằng không, chắc không biết.
Trong vô lượng kiếp vào thời quá khứ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tu hạnh nhẫn nhục ở trong núi. Trong núi không có người, vậy Ngài tu hạnh nhẫn nhục với ai? Không có người lui tới thì Ngài tu pháp nhẫn nhục này như thế nào? Ngài tu nhẫn, “nhẫn” không nhất định phải có “nhục”, đây chính là nhẫn những điều người khác không thể nhẫn. Ví như trong núi có một số muỗi, muỗi đốt rất đau; thế mà bị muỗi đốt, Ngài vẫn nhẫn chịu, không xua đuổi chúng. Vì sao? Thứ nhất, Ngài muốn tu hạnh nhẫn; thứ hai, nếu Ngài xua chúng đi, e rằng những con muỗi kia sẽ hoảng sợ! Bởi vì Ngài đã tu hạnh nhẫn nhục. Đây chỉ là con vật bé nhỏ – con muỗi; thế còn những con lớn thì sao? Dù rắn đến cắn, Ngài cũng nhẫn chịu; thậm chí là cọp, Ngài cũng nhẫn chịu. Tất cả những loài côn trùng, cọp, beo muốn cắn, Ngài đều nhẫn chịu, đây là nhẫn đối với tất cả các loài súc sanh; vì không có người, cho nên tu hạnh nhẫn đối với loài súc sanh.
Có một lần, vua Ca-lợi vào núi săn bắn. Ông ta dẫn theo rất nhiều người, nào là đại thần, tướng quân, lại còn dẫn theo cả một số phụ nữ. Những cô gái này đều là nương nương, phi tần trong cung. Trong lúc săn bắn, mỗi người tự tìm lấy con mồi để săn, riêng những cô gái này không đi săn, cho nên dạo ngắm các cảnh trên núi, bỗng trông thấy một người rất kỳ quái. Kỳ quái thế nào? Tóc trên đầu người này rất dài, bện lại thành mảng giống như tấm thảm trải nhà của chúng ta; râu cũng rất dài, móng tay dài gần cả tấc, quấn quanh đến mấy vòng trên đầu ngón tay.
Vừa trông thấy vị này, các cô gái liền bảo nhau: “Đây là quái vật gì thế?”, nhiều cô sợ hãi định bỏ chạy. Thấy họ lấy làm lạ, chẳng biết mình là người hay súc sanh, vị kia liền lên tiếng: “Các cô không cần phải sợ! Tôi không ăn thịt các cô đâu!”. Các cô gái nói: “Đây không phải là quái vật, ông ta cũng biết nói chuyện giống như chúng ta vậy!” Thế là những cô sắp sửa bỏ chạy vì sợ cũng quay lại.
Người nào cũng có tâm lý hiếu kỳ, muốn xem thử người kia sao lại biết nói, nên hỏi:
- Ông làm gì ở đây?
Vị kia đáp:
- Tôi ở đây tu hành.
- Cái gì gọi là tu hành?
- Bất luận ai gây cho tôi phiền phức gì, tôi đều nhẫn chịu. Tôi ở đây tu hạnh nhẫn nhục.
Nói chuyện qua lại mấy câu, các cô gái không còn sợ hãi nữa vì thấy người này biết nói chuyện giống như mình, nên từ từ tiến lại gần hơn, vây quanh vị tu hành ấy.
Bấy giờ, cuộc săn bắn sắp kết thúc, vua Ca-lợi trở lại tìm các phi tần; nghe tiếng các cô đang ríu rít nói chuyện ở phía kia. Vì trên núi không có âm thanh tạp, nên từ xa đã nghe tiếng họ nói chuyện. Thế là vua lập tức đi đến, muốn xem thử các cô đang làm gì. Vừa trông qua, ồ! Thì ra là một quái nhân râu tóc rất dài! Nhưng không phải là một tên “híp-pi”. Quý vị không nên hiểu lầm, cho rằng híp-pi có râu tóc dài là giống như vị tiên nhẫn nhục này. Không phải như vậy! Vị tiên nhẫn nhục chuyên nhẫn nhục, còn những tên “híp-pi” lại không chuyên nhẫn nhục, chỉ chuyên muốn giết người, trộm cướp, không từ một việc xấu xa nào, đây chính là chỗ khác nhau giữa hai hạng người này.
Thấy quái nhân kia trò chuyện với người đẹp của mình như thế, nhà vua liền khởi tâm ghen tức, nghĩ: “Hừ! Gã quái nhân kia xem ra cũng có một chút bản lĩnh đặc biệt, đã mê hoặc các mỹ nữ của ta. Từ trước đến nay, những người này đều tuân giữ phép tắc trong hoàng cung, nay gặp phải gã quái nhân này thì không còn giữ gìn phép tắc gì nữa! Có thể họ đã đem lòng yêu mến gã kia rồi”. Thế là nhà vua nổi giận, quát:
- Này! Gã quái nhân kia, người làm gì ở đây thế?
Vị tiên nhẫn nhục đáp:
- Thưa Đại vương! Tôi ở đây tu nhẫn nhục!
Vua hỏi lại:
- Cái gì gọi là nhẫn nhục?
Vị tiên nhân đáp:
- Nhẫn nhục, tức là khi mọi người mắng chửi tôi, tôi cũng nhịn; mọi người đánh tôi, tôi cũng nhịn; mọi người đối xử với tôi xấu xa thế nào, tôi cũng sẽ nhịn.
Vua Ca-lợi tỏ vẻ hoài nghi:
- Ta không tin! Ngươi nhất định là kẻ lường gạt. Trên đời này, làm gì có người nào bị mắng mà vẫn nhẫn nhịn, bị đánh cũng nhẫn nhịn?
Vị tiên nhẫn nhục thưa:
- Không chỉ mắng tôi, tôi nhẫn nhịn; đánh tôi, tôi nhẫn nhịn; dầu cho có người giết chết tôi, tôi cũng vẫn nhịn.
Vua bảo:
- Mọi người đều nghe cả rồi đấy! Kẻ này dám dối gạt ta, bảo rằng nếu có người đến giết chết hắn, hắn vẫn nhịn. Được! Bây giờ để ta giết chết ngươi, xem ngươi có thể nhẫn được không?
Vị tiên nhẫn nhục nói:
- Đại Vương có thể thử!
Vua nói:
- Được! Ta sẽ thử một tý xem sao! Những việc không thể thử ta đều muốn thử xem. Ngươi cho rằng ta không dám thử ư? Hừ! Ngươi nói nếu giết chết ngươi, ngươi cũng nhẫn nhịn, nhưng bây giờ ta sẽ không giết ngươi.
Thế nhà vua làm gì nào? Ông ta rút phắt thanh bảo kiếm ra, quơ một đường, cắt đứt một vành tai của vị tiên nhẫn nhục, rồi hỏi:
- Ngươi có đau không?
Vị này vẫn thản nhiên đáp:
- Không hề gì!
Vua nói:
- Ngươi nói dối. Ta không tin bị cắt mất một tai mà trong lòng ngươi không hề khởi một niệm oán hận nào. Tai bị cắt rất đau đớn, thế mà ngươi lại nói chẳng hề gì. Được! Ta sẽ cắt luôn tai bên kia của ngươi.
Dứt lời, nhà vua lại cắt đứt bên tai còn lại của vị tiên nhẫn nhục, rồi hỏi:
- Bây giờ thế nào? Ngươi có còn bảo là không hề gì chứ?
Vị tiên nhẫn nhục vẫn bình thản đáp:
- Đương nhiên là chẳng hề gì!
Nghe thế, vua Ca-lợi càng thêm tức giận, quát:
- Ngươi dám nói dối ta ư! Bị cắt đứt hai tai mà bảo là chẳng hề gì. Được! Ta sẽ cắt luôn mũi của ngươi!
Thế là nhà vua lại cắt mũi của vị tiên nhẫn nhục. Sau đó ông ta gặn hỏi:
- Bây giờ ngươi cảm thấy thế nào? Hãy mau trả lời thành thật, không được nửa lời dối trá. Ta rất ghét những kẻ không thành thật, rõ ràng ngươi đang oán hận, thế mà lại bảo không có, chỉ toàn là dối trá.
Vị tiên nhẫn nhục đáp:
- Vẫn không hề gì, mất mũi cũng chẳng quan trọng!
- Thế thì tốt! Ngươi cho rằng không có mũi cũng chẳng sao, vậy ta sẽ chặt một cánh tay của ngươi, ngươi có oán hận không? – Nhà vua hỏi.
- Tôi không oán hận. – Vị tiên nhẫn nhục đáp.
- Được vậy thì quá tốt! Vậy ta sẽ chặt nốt cánh tay còn lại của ngươi, xem thử ngươi thế nào? Ta muốn hoàn thành đạo nghiệp cho nhà ngươi. Ngươi tu hạnh nhẫn nhục, người khác không dám đối xử với ngươi như thế, nhưng ta là hoàng đế, dầu có giết ngươi cũng không phạm tội.
Thế là nhà vua lại chặt đứt hai cánh tay của vị tiên kia, rồi hỏi:
- Thế nào? Ngươi vẫn vui vẻ chứ? Hai tay không còn, ngươi vẫn không có lòng oán hận chứ?
Vị tiên nhẫn nhục đáp:
- Đương nhiên rồi! Ngài biết rõ là tôi hoàn toàn không có lòng oán hận mà!
Lần này, vua Ca-lợi tức giận cực độ, nói:
- Vẫn không ư? Trên đời này không thể có hạng người như thế được! Đã bị chặt đứt tay mà ngươi vẫn không oán hận? Vậy ta sẽ chặt một chân của ngươi.
Nhà vua lại chặt đứt một chân của vị tiên kia, rồi hỏi:
- Ngươi đã hối hận chưa? Ngươi hành hạnh nhẫn nhục như thế, dẫn đến kết quả chân không còn, tay cũng không còn, chỉ còn sót lại một chân. Nếu bây giờ ngươi chịu nói thật, ta còn có thể lượng thứ cho. Ngươi có oán hận không?
Vị tiên nhẫn nhục vẫn đáp:
- Tôi không oán hận! Không có chân cũng chẳng sao. Chỉ cần Đại vương cảm thấy vui thì ngài cứ làm.
Nghe thế, nhà vua liền nói:
- Được lắm! Ngươi còn dám dối trá nữa ư!
Thế là ông ta lại chặt nốt chân còn lại của vị tiên nhân, rồi hỏi:
- Ngươi cảm thấy thế nào? Hai chân, hai tay đã không còn; mũi, tai cũng không còn, ngươi có oán hận không?
Vị tiên kia vẫn một mực đáp:
- Tôi hoàn toàn không oán hận!
Vua Ca-lợi cảm thấy rất kỳ lạ, nghĩ thầm: “Người này có tà pháp gì chăng? Vì sao bị cắt thịt trên người mà vẫn không đau đớn, lại còn bảo ‘nhẫn nhịn’? Hắn ta nhẫn nhịn thật hay chỉ giả vờ?”. Nghĩ thế, nhà vua lại nói:
- Ngươi nói ngươi nhẫn nhịn, vậy rốt cuộc ngươi có gì để chứng minh rằng ngươi thật sự nhẫn nhịn? Hay là ngươi moi tim ra để ta xem thử có thật trong tâm ngươi không hề oán hận, có thế ta mới tin.
Quý vị nói xem, chân tay đã bị chặt, còn phải moi tim ra cho người ta xem thử!
Thế nhưng vị tiên tu hạnh nhẫn nhục bảo:
- Tim, nếu như ngài muốn xem cũng được thôi; song, bây giờ tôi cho ngài một minh chứng (rằng thật trong tâm tôi có sân hận hay không). Ngài đã chặt đứt hai chân, hai tay của tôi, nếu như tôi sanh lòng oán hận thì trong tương lai, tôi sẽ không thành Phật mà sẽ bị đọa vào địa ngục, sau đó chuyển sanh vào loài quỷ đói, làm thân súc sanh; còn nếu như tôi không có lòng oán hận, tai đã bị ngài cắt sẽ mọc trở lại, mũi bị ngài cắt cũng sẽ khôi phục lại y như hình dạng trước kia; không chỉ có tai và mũi, mà ngay cả tứ chi cũng sẽ khôi phục lại giống như lúc chưa bị ngài chặt đứt. Ngược lại, nếu có tâm sân hận thì thân thể tôi sẽ không khôi phục lại được.
Vị này vừa dứt lời, quả nhiên tai, mũi và tứ chi đều mọc lại như cũ.
Vừa trông thấy thế, vua Ca-lợi lập tức hô lớn:
- Ồ! Hắn là yêu quái đấy! Nhanh lên! Hãy mau dùng kiếm chém hắn ta! Một mình ta không thể nào chém được!
Lệnh vừa ban ra, lập tức tất cả binh tướng đồng loạt xông lên, định chém loạn xạ nhằm bằm nát vị này ra. Ngay lúc ấy, quý vị nói xem việc gì đã xảy ra? Bấy giờ, các vị thiện thần hộ pháp, Bồ-tát Vi-đà đều nổi giận, nói:
- Ông thật là ép người quá đáng!
Thế là trời nổi sấm sét, giáng xuống đầu vua Ca-lợi. Ông ta lại bảo:
- Đó chính là do yêu quái biến hóa ra đấy! Thần thông của hắn ta lớn như vậy, phải làm thế nào đây?
Vị tiên nhẫn nhục bảo:
- Không phải do tôi dùng phép biến hóa ra, mà chính do các vị thiện thần hộ pháp muốn trừng phạt ngài đấy!
Nhà vua lo sợ hỏi lại:
- Vậy ta phải làm thế nào đây?
Vị tiên nhẫn nhục bảo:
- Ngài mau khởi tâm sám hối, bằng không thì sẽ không xong đâu.
- Vậy xin ngài hãy giúp tôi sám hối. Chỉ một mình tôi, e rằng không thể được. – Nhà vua khẩn khoản van nài.
Vị tiên nhẫn nhục liền cầu xin thiện thần hộ pháp chớ trừng phạt vua Ca-lợi. Ngài thưa:
- Các vị thiện thần hộ pháp xin chớ trách ông ta! Ông ấy là kẻ vô tri, là kẻ ngu si. Không những tôi không oán hận, mà sau này khi thành Phật, với người đã chặt tứ chi của tôi, tôi sẽ độ kẻ ấy trước tiên.
Khi nghe được lời phát nguyện này, vua Ca-lợi vô cùng cảm động, than thầm rằng: “Ôi! Bậc tu hành này thật là vĩ đại! Ta đã đối xử với người tồi tệ như thế, vậy mà người còn muốn độ ta trước nhất”. Nghĩ thế, nhà vua khóc ròng thưa:
- Nếu sau khi ngài thành Phật, tôi nhất định sẽ làm vị đại đồ đệ đầu tiên của ngài!
Tức là nhà vua muốn làm người ghi danh đầu tiên.
Sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thành Phật, Ngài độ Kiều-trần-như trước tiên – tức là người đệ tử với hiệu là “Giải bổn tế”[3], chính là vua Ca-lợi thuở ấy. Người đệ tử này, quý vị xem! Xưa kia đã gây ra lỗi lầm đối với thầy mình như thế, vị thầy ấy trái lại đối xử tốt với ông ta như thế, lại còn muốn độ ông ta trước nhất. Từ đó cho thấy, đối với Phật giáo, tất cả ân oán đều không thành vấn đề, không có vấn đề gì mà không thể giải quyết.
Từ công án này, chúng ta nên suy nghĩ và tự hỏi xem có thể giống Đức Phật Thích-ca Mâu-ni khi tu hạnh nhẫn nhục, có người chặt tay chân chúng ta, cắt tai mũi của chúng ta, chúng ta có thể nhẫn được không? Tôi hy vọng quý vị không thể nhẫn. Vì sao? Nếu quý vị có thể nhẫn, sẽ có người đến chặt quý vị; nếu không có người đến cắt tai mũi, chặt tay chân quý vị, quý vị nói mình có thể nhẫn, thì là (nhẫn) thật hay giả đây? Vấn đề chính là ở chỗ này! Nhưng tôi lại hy vọng quý vị có thể nhẫn. Nếu quý vị có thể nhẫn thì mới chứng minh được quý vị thật sự giống Đức Phật Thích-ca Mâu-ni khi còn là vị tiên nhân tu hạnh nhẫn nhục.
Vậy thì: “Tôi không mong muốn làm vị tiên nhẫn nhục giống như Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, tôi muốn làm vua Ca-lợi! Nếu có người tu nhẫn nhục, tôi sẽ chặt tay chân người ấy, cũng sẽ cắt tai mũi người ấy; rồi sau đó tôi hy vọng người đó phát nguyện sau khi thành Phật sẽ độ tôi trước tiên, tôi sẽ đỡ tốn rất nhiều công sức tu tập, mà vẫn được chứng quả”. Cách suy nghĩ này không đáng tin cậy, cũng không hợp lý. Vì sao? Nếu quý vị có thể gặp được người giống như Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thì rất tốt; song phàm phu thì không thể bì với thánh nhân được.
Đối với phàm phu chưa chứng quả, nếu quý vị cắt tay họ, họ cũng biết đau; quý vị cắt tai mũi họ, họ cũng đều biết đau; một khi đau, họ sẽ khởi tâm oán hận. Tâm oán hận vừa khởi lên, e rằng chính họ sẽ rơi vào cảnh giới A-tu-la, họ giết quý vị, quý vị chém họ, khiến cho chiến tranh thế giới ngày một lớn. Vì thế không nên học theo vua Ca-lợi. Vua Ca-lợi tuy rất may mắn gặp được Đức Phật Thích-ca Mâu-ni phát nguyện độ ông ta trước tiên, nhưng trường hợp này cũng rất nguy hiểm. Nếu như Đức Phật không phát nguyện này, quý vị nói xem, ông ta có cách nào để không bị đọa vào địa ngục? Ông ta có cách gì để có thể bảo Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhất định phải phát nguyện độ ông ta trước tiên? Trường hợp này không thể nắm chắc trong tay, sự việc này không đáng tín cậy! Quý vị nên nghĩ cách khác chứ đừng nên học theo vua Ca-lợi.
Cái “nhẫn” này phải như thế nào đây? Phải “không có nhẫn”, phải “bất nhẫn”, phải “vô nhẫn”. Nếu bất nhẫn, sao còn gọi là nhẫn? Không có nhẫn, sao lại nói nhẫn? Nếu vô nhẫn, sao Đức Phật lại nói đến nhẫn nhục Ba-la-mật? “Không có nhẫn” mới thực sự nhẫn, “vô nhẫn” cũng là thực sự nhẫn, “bất nhẫn” cũng là thực sự nhẫn. Nói vậy là sao? Vị Pháp sư này thuyết pháp chính là như thế đó! Không nói gì có đạo lý cả, muốn nói sao thì nói.
Cái gì gọi là “không có nhẫn”? Tức quý vị nhẫn, nhưng cảm giác như không có nhẫn; quý vị chớ cho rằng: “Ồ! Ta đã nhẫn, lần này ta đã nhẫn!” Đó chính là chấp trước. “Đã nhẫn”, giống như không có nhẫn; có nhẫn, cũng như không có nhẫn, nên nói: “có như không, thật như hư”(hữu nhược vô, thật nhược hư). Thí dụ như người ta mắng quý vị, quý vị nói: “Tôi đã nhẫn, nó mắng tôi!” trong tâm quý vị còn tồn tại khái niệm “mắng” đấy! Nếu quý vị “không có nhẫn”, tuyệt nhiên không biết người kia mắng, thì sẽ không có sự trình báo như thế. Căn bản ở đây chính là chỗ không thấy có nhẫn, đó gọi là “không có nhẫn”. Nếu quý vị có một cái “nhẫn”, tức là đã có chỗ dính mắc.
Có người nói: “Tôi không tin, là vì Đức Phật Thích-ca Mâu-ni vẫn còn nhớ việc đó, lúc Ngài làm vị tiên tu nhẫn nhục, bị vua Ca-lợi chặt đứt thân thể; Ngài vẫn chưa buông xả, vẫn còn chấp mắc; nếu như không có chấp mắc, tại sao Ngài còn nhớ mà kể lại?”
-Đức Phật Thích-ca nhớ chính là không nhớ; cũng như quý vị hiểu, chính là không hiểu gì cả!
Về “nhẫn nhục”, đã nói xong ý nghĩa khái quát. “Nhẫn” này, có khi dễ dàng nhẫn một lần, hai lần, nhưng đến lần thứ ba thì nhẫn không nổi nữa; một lần nhẫn không nổi thì sẽ làm mất đi công đức của những lần nhẫn trước kia! Vì thế mới nói: “Một đốm lửa nhỏ có thể thiêu rụi cả rừng công đức”.
Vị Đại Bồ-tát này tu hạnh nhẫn nhục như thế nào? “Nhu hòa thiện thuận mà không vụt chạc nóng nảy (tốt bạo), tâm cũng không kinh sợ”: nhu là mềm mỏng;hòa là không tranh giành; thiện là không ác; thuận là tùy thuận, Đại Bồ-tát tu đạo Bồ-tát, hành hạnh nhẫn nhục, nhất định phải nhu hòa thiện thuận, mà còn phải không vụt chạc hấp tấp (tốt bạo). Tốt tức là hơi đột ngột, vội vã. Làm việc với vẻ hơi vội vã, vụt chạc; sau khi làm xong, sự việc này sẽ không đúng Pháp, hợp với đạo lý, nên gọi là “vụt chạc”. Bạo tức nóng nảy, dễ nổi giận, tánh tình rất nóng nảy, dễ nổi cáu; Bồ-tát tu Bồ-tát đạo, không nên nóng nảy hấp tấp. Trước mọi tình huống, tâm vị ấy không sợ hãi. Vì sao vị ấy không sợ hãi? Chính vì có định lực.
“Lại nữa, đối với các pháp mà vô sở hành (không chấp có sở hành sở chứng), mà lại quán tướng như thật của các pháp”: Vị Đại Bồ-tát này đối với tất cả pháp, không có niệm chấp “tu hành”; vì không có ý niệm chấp trước này, nên gọi là “vô sở hành”. Vị ấy hành mà không hành, hành với tâm vô sự; làm rồi, giống như không hề có mảy may việc ấy. Thế là sao? Vì vị ấy thật sự đã buông xả! Vả lại, vị ấy quán tất cả các pháp đều là không. Với người thường, nếu quý vị nói với họ các pháp đều là không, họ sẽ không tu hành nữa, và bảo: “Các pháp đều là không, tu gì cơ chứ? Tu cũng là không, không tu cũng là không, thế cần gì phải tu?” ngoại đạo tà kiến giảng giải như thế đấy. Còn Bồ-tát quán các pháp “không”, vị ấy biết tất cả pháp đều không, mà nhận rõ được “tướng như thật” của các pháp. Các pháp vốn hoàn toàn đều là “Chân Như”, đây chính là diệu lý của “Thật Tướng”.
“Song, chẳng hành theo (chẳng chấp vào) sự chẳng phân biệt ấy”: vị này cũng không có cái thấy “không phân biệt” ấy. “Các pháp không” của ngoại đạo thì cũng là “không phân biệt”, cũng “không tu hành”; đây là cái thấy không phân biệt của ngoại đạo: “Nó là không, thì quý vị phân biệt nó làm gì?” họ tu hành theo kiểu tà kiến này; nhưng Bồ-tát không tu theo kiểu tà kiến ấy. “Đây là hành xứ của Đại Bồ-tát”: như phần trước đã giảng, đây là của “hạnh thân an lạc” của Đại Bồ-tát, chỗ tu hành của thân.
[1]Bạch Trạch 白澤: một loại thú thần. Hình dáng con Bạch Trạch:
http://zh.wikipedia.org/zh-hk/File:SekienHakutaku.jpg
[2] Trong “Đại Trí Độ Luận” của Bồ-tát Long Thọ, đoạn nói về “Trì giới độ” của Lục độ.
[3] A Nhã Kiều Trần Như (Ajnata Kaundinya): Tên Ngài có nghĩa là “giải bổn tế ” (liễu giải một cách rốt ráo, hiểu rõ tận căn nguyên), còn gọi là “tối sơ giải”, nghĩa là được “khai ngộ đầu tiên”. Kinh Lăng Nghiêm Quyển 5, đoạn 25 vị Thánh trình bày sở ngộ của mình, tức là 25 Pháp môn Viên Thông:
“Bấy giờ Thế tôn bảo khắp các vị đại Bồ-tát và các vị A-la-hán đã sạch các lậu hoặc trong đại chúng rằng; “Các ông là những vị Bồ-tát và A-la-hán sinh trưởng trong Phật pháp, đã chứng được quả vô học. Nay Như Lai hỏi các ông, lúc ban đầu mới phát tâm, ngộ tính viên thông ở giới nào trong mười tám giới? Do phương tiện gì mà được tam-muội? ”
Nhóm năm vị Tỷ-khưu Kiều-trần-như liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật rồi thưa rằng, “Chúng con khi ở Lộc uyển và Kê viên, thấy Như Lai khi mới thành đạo, nhờ nghe được pháp âm của Như Lai mà ngộ được lý Tứ Diệu Đế.”
Phật hỏi trong hàng Tỷ-khưu chúng con (về viên thông). Con là người đầu tiên giải ngộ, nên Như Lai ấn chứng cho con là A-nhã-đa (Ajnata). Tính vi diệu của âm thanh vốn là nhiệm mầu và viên mãn, con nhờ âm thanh mà chứng được A-la-hán.”
J2. GIẢI THÍCH THÂN CẬN XỨ (phân 3 phần):
K1. Thân Cận Xứ Là Lìa Xa (Ước viễn luận cận).
K2 . Thân Cận Xứ Là Gần Gũi (Ước cận luận cận).
K3. Thân Cận Xứ Là Không Rời Xa Không Gần Gũi (Ước phi viễn phi cận luận cận).
K1. ƯỚC VIỄN LUẬN CẬN: có 10 ý
L1. Xa lìa người quyền thế.
L2. Xa lìa người tà, pháp tà.
L3. Xa lìa trò hung hiểm.
L4. Xa lìa hạng Chiên-đà-la.
L5. Xa lìa hàng Nhị thừa.
L6. Xa lìa dục tưởng.
L7. Xa lìa kẻ bất nam.
L8. Xa lìa nguy hại.
L9. Xa lìa cơ hiềm.
L10. Xa lìa nuôi dưỡng.
L1. XA LÌA NGƯỜI QUYỀN THẾ
Thế nào gọi là “chỗ thân-cận” (thân cận xứ) của đại Bồ-tát? - Vị đại Bồ-tát chẳng gần-gũi quốc-vương, vương-tử, đại-thần, quan-trưởng.
Vân hà danh Bồ-tát Ma-ha-tát thân cận xứ? Bồ-tát Ma-ha-tát bất thân cận quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng.
Thế nào gọi là “chỗ thân-cận”của đại Bồ-tát?: cái gì là chỗ Bồ-tát cần nên thân cận? Thân cận tức là tiếp cận, không lìa xa, rất gần gũi. Vị đại Bồ-tát chẳng gần-gũi quốc-vương, vương-tử, đại-thần, quan-trưởng: vị đại Bồ-tát không phan duyên, dựa thế, gần gũi vua, quan, thái tử, đại thần, Không qua lại, kết bạn với vua. Đây gọi là “Vin cao kết quý”. Gần gũi vua chính là thứ tâm lý dựa thế. Vương tử tức là thái tử con vua; đại thần tức là quan lớn của quốc gia; quan trưởng tức là chỉ tất cả những người làm quan, Bồ-tát không nên giao tiếp với những hạng người này, cũng không nên qua lại với họ. Nói là không qua lại với những người làm quan, song cũng có thể qua lại với những hạng người này; đó là khi họ chủ động đến gần quý vị mà không phải là quý vị tự tìm đến, lân la gần gũi họ.
Ví như quý vị ở trong chùa, không hề có ý phan duyên, dựa thế, nhưng vị vua kia tự tìm đến kết thân với quý vị, lễ bái quý vị thì không sao, lúc này quý vị có thể tùy theo căn tánh của họ mà nói pháp, vì vậy nói “Pháp vô định pháp” chính là trong trường hợp này. Quý vị không nên cố chấp nói: “Ồ! Trong ‘Kinh Pháp Hoa’ có nói: Đại Bồ-tát tu hành, không nên gần gũi vua, vương tử, đại thần, quan trưởng!”, thế là khi người kia đến, quý vị không tiếp họ, đây là một điều sai lầm. Họ tìm đến gần gũi với quý vị thì được, chứ không phải tự quý vị tìm đến lân la với họ, trường hợp này được xem là đúng pháp. Nếu như quý vị đến chỗ của vị vua kia, nói: “Ồ! Hôm nay là sinh nhật ngài, tôi chúc ngài sống lâu, tôi sẽ tụng cho ngài một quyển ‘Kinh Vô Lượng Thọ’, phù hộ cho ngài trẻ mãi không già!”, đây gọi là gì nào? Chính là tâng bốc nịnh hót. Không nên!
Quý vị ở chốn A-lan-nhã[1] – tức là ở “chỗ yên tĩnh”, vua muốn đến tiếp xúc gần gũi với quý vị, gặp quý vị thì không sao; nhưng quý vị không được tìm cách lôi kéo ông ta đến. Nếu như quý vị dùng cách nào đó để dẫn dụ ông ta đến thì chính là quý vị đã chủ động thân cận ông ta rồi đấy. Tóm lại, quý vị nghĩ rằng: “Ồ! Nếu nhà vua đến chào mình thì tiếng tăm của mình sẽ vang dội lắm!” hoặc là: “Nếu tổng thống đến chỗ mình, sẽ như thế nào…”, từ sáng đến tối quý vị cứ vọng tưởng như vậy là sai rồi! Nên dựa vào cảm ứng. Thế nào là dựa vào cảm ứng? Hãy để cho Bồ-tát Vi-đà gọi ông ta đến! Nếu như quý vị có tu hành, Bồ-tát Vi-đà thấy biết, “A! không có người nào hộ pháp vị Bồ-tát này. Ta sẽ kiếm một đại hộ pháp đến giúp đỡ ông ta”. Thế là ngài sẽ tìm một người có thể là rất giàu để giúp quý vị; trường hợp này thì được. Vì vậy, quý vị cần phải hiểu và giảng giải đạo lý này một cách cho rõ ràng.
L2. XA LÌA NGƯỜI TÀ, PHÁP TÀ
Chẳng gần gũi các ngoại đạo Phạm-chí, Ni-kiền-tử v.v…, và chẳng gần những kẻ viết văn chương thế tục, những người ngâm nga khen ngợi sách ngoại đạo, cùng hạng Lộ-già-da-đà, Nghịch-lộ-già-da-đà.
Bất thân cận chư ngoại đạo phạm chí, ni-kiền-tử đẳng, cập tạo thế tục văn bút, tán vịnh ngoại thư, cập lộ-già-da-đà, nghịch-lộ-già-da-đà giả.
Chẳng gần gũi các ngoại đạo Phạm-chí, Ni-kiền-tử v.v…: Đại Bồ-tát chỉ nên tu học Phật pháp, tuyệt đối không thân cận với ngoại đạo Phạm-chí. Phạm-chí(Brahmacharin) tức là người xuất gia ngoại đạo. Ni-kiền-tử (nirgrantha) cũng là một trong số những phái ngoại đạo. Có sáu vị thầy dẫn đầu sáu phái ngoại đạo (lục sư ngoại đạo). Đồ đệ của họ lại phân chia thành chín mươi sáu phái ngoại đạo, vì thế nên nói vân vân (v.v…). Ni-kiền là Phạn ngữ, Trung Hoa dịch “Ly hệ”, nghĩa là: nếu xa lìa sự trói buộc, sẽ không đạt được giải thoát; vì thế, đây là một trong số các phái ngoại đạo (với giáo lý sai lầm). Và những kẻ viết văn chương thế tục: sáng tác điện ảnh thế gian, viết tuồng hát, viết những loại tiểu thuyết khiến người xem khởi lòng dâm dục, những loại này đều gọi là văn chương thế tục. Những người ngâm nga khen ngợi sách ngoại đạo: tức là khen ngợi những sách vở bên ngoài, ngoại đạo này hay như thế này… như thế này…
Cùng hạng Lộ-già-da-đà: Lộ-già-da-đà (lokayata) cũng là Phạn ngữ, Trung Hoa dịch là “ác luận”. “Ác luận” là những nghị luận xấu ác, lý luận ác hại; nói tới nói lui cũng không nêu ra được chân lý mà chỉ dạy người ta tạo tội. Như là: “Quý vị dùng drugs (ma túy, chất kích thích), dùng LSD[2] nhiều thêm chút nào thì sẽ khai ngộ thêm chút nấy; quý vị dùng ít thì khai ngộ ít. Vì thế, quý vị dùng càng nhiều càng tốt!”. Không chỉ khuyến khích quý vị dùng, mà ngay cả ông ta cũng dùng. Đây là luận điệu của người thầy phá hại đồ đệ, đó gọi là “ác luận”. Thầy đả phá, đạp đổ đệ tử, nhằm tỏ ý ông thầy trí huệ luôn cao, luôn giỏi hơn trò. Bất luận đệ tử nói thế nào cũng đều cho là không đúng; đệ tử đúng cũng thành không đúng, chính là tạo cho người một luận điệu sai lầm, không hợp đạo lý, đó gọi là hạng “Lộ-già-da-đà”.
“Nghịch-lộ-già-da-đà”: Nghịch-lộ-già-da-đà dịch là “nghịch luận”; hạng ở trên là ác luận, còn đây là nghịch luận. Thế nào là “nghịch luận”? Là hạng người chuyên xúi giục người làm chuyện ngỗ nghịch: “Này! Quý vị có thể giết chết cha mình thì mới là anh hùng!”, “Nếu quý vị có thể đánh thầy mình thì mới thật sự là trượng phu!”, “Nếu quý vị đập nát tượng Phật thì tôi sẽ đảnh lễ quý vị!”…; luận điệu này nhằm xui người làm điều ngỗ ngược, khích lệ người làm việc xấu ác.
Nghịch luận thuộc hạng người đệ tử chuyên phá hại thầy, những điều thầy nói đều không đúng, anh ta luôn cảm thấy: “Tôi là đệ tử, thầy là sư phụ, nhưng tôi giỏi hơn, tôi thông minh hơn thầy nhiều!” tức là chuyên phá thầy. Loại “Lộ-già-da-đà” ở trên là hạng người thầy chuyên phá hại đệ tử; còn loại “Nghịch-lộ-dà-đa” này là hạng đệ tử chuyên phá hại thầy. Hai bên chê bai lẫn nhau, thầy chê bai trò, trò cho rằng “có qua mà không có lại là trái lễ nghĩa” (Lai nhi bất vãng phi lễ dã – Khổng Tử), thế là anh ta lập luận nghịch lại, cũng chính là chê bai thầy mình: “Anh chớ có nghe sư phụ, nghe tôi đây này! Sư phụ chẳng có chút học thức nào đâu!”, đây gọi là hạng “Nghịch-lộ-già-da-đà”.
L3. XA LÌA TRÒ HUNG HIỂM
Cũng chẳng gần gũi các trò gây nguy hiểm, đâm nhau, đánh nhau, và bọn người Na-la v.v… cũng chẳng gần gũi các trò ma thuật biến hóa.
Diệc bất thân cận chư hữu hung hý, tương thoa tương phác, cập na-la đẳng chủng chủng biến hiện chi hý.
Cũng chẳng gần gũi các trò gây nguy hiểm: trò nguy hiểm tức là không phải trò chơi trẻ con, mà là những trò giết nhau, đánh nhau, tranh hơn thua với nhau. Những trò đánh nhau này đều không nên đi xem, không nên đi nghe. Đâm nhau, đánh nhau: tức là đấu võ với nhau, quý vị đánh tôi một đòn, tôi đánh trả quý vị một đòn. Vì thế, chẳng trách ngày nay có người phê bình, vào ngày lễ Viśākha[3] của chúng ta, không nên cho diễn tiết mục võ thuật, đấu võ. Ý kiến này cũng rất hợp lý, vì trong “Kinh Pháp Hoa” không cho phép làm như thế; nhưng chúng ta không phải là Bồ-tát, Bồ-tát mới cấm. Cần hiểu rõ điểm này, hiện tại chúng ta đều là phàm phu, phàm phu làm rất nhiều việc lỗi lầm, song không hề gì; chẳng qua là cần phải sửa đổi. Sửa đổi rồi mới thật không hề gì, nhưng nếu không sửa thì có vấn đề. Chớ lầm cho rằng: “Pháp sư nói chẳng hề gì, vậy chúng ta gây lỗi lầm nhiều thêm chút nữa!” như thế là không được.
Và bọn người Na-la v.v… cũng chẳng gần gũi các trò ma thuật biến hóa: Na-la (nata) cũng là Phạn ngữ, chính là “đại lực sĩ”. Đại lực sĩ, tức là quý vị có thể nhấc nổi năm trăm pounds[4], nhưng tôi có thể nhấc đến sáu trăm pounds! Đó là đọ sức với quý vị. Người đọ sức này muốn chứng tỏ mình là một đại anh hùng, sức tôi mạnh hơn mọi người! Bồ-tát không gần gũi hạng người này.
Lại có loại người làm trò ma thuật biến hóa; ma thuật tức là vốn không có, người này sẽ biến thành có; đang có, anh ta lại sẽ biến thành không; trong tay những kẻ này có rất nhiều mánh khóe, họ kêu quý vị đến xem và bảo đó là thật. Trẻ con xem thì ngỡ là thật; người lớn xem thì biết đó là trò biến hóa! Đây là một loại ảo thuật, người ấy dùng ma thuật biến hóa, nên biết người này chẳng phải thật sự làm ra được việc ấy. Bồ-tát cũng không xem các trò ảo thuật này.
L4. XA LÌA HẠNG CHIÊN-ĐÀ-LA
Lại chẳng gần gũi hạng Chiên-đà-la, và những kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, hoặc những người săn bắn, đánh bắt, hoặc những kẻ sống theo luật nghi ác. Những hạng người như thế hoặc có lúc lại đến, thì thuyết pháp cho họ, nhưng không có lòng mong cầu.
Hựu bất thân cận chiên-đà-la, cập súc trư dương kê cẩu, điền liệp ngư, bộ, chư ác luật nghi. Như thị nhân đẳng hoặc thời lai giả, tắc vị thuyết pháp, vô sở hy vọng.
Lại chẳng gần gũi hạng Chiên-đà-la: Chiên-đà-la (chandala) là một trong các đẳng cấp của xã hội Ấn Độ. Ấn Độ có bốn giai cấp, đó là:
(1). Bà-la-môn, chỉ giai cấp cúng tế, tăng lữ.
(2). Sát-đế-lợi, chỉ giai cấp quý tộc.
(3). Phệ-xá, chỉ giai cấp thường dân, làm nghề nông, chăn nuôi, buôn bán.
(4). Chiên-đà-la, chỉ giai cấp nô lệ.
Trong bốn đẳng cấp này, địa vị của Bà-la-môn là tôn quý nhất, giai cấp Chiên-đà-la thì là thấp hèn nhất.
Giai cấp Chiên-đà-la chuyên làm nghề giết mổ, không được ở trong thôn trấn. Con đường của những giai cấp khác đi, họ không được đi. Họ chỉ được đi vẻn vẹn trên một con đường. Ngoài đường phố, thậm chí họ phải rung chuông, còn phải đeo tấm bảng trên đầu để tự công bố cho mọi người biết mình là Chiên-đà-la, là kẻ mổ heo. Quý vị xem! Quan niệm về giai cấp, đẳng cấp ở xã hội Ấn Độ rất là gay gắt. Bồ-tát không thân cận với hạng người hàng thịt này.
Và những kẻ nuôi heo, dê, gà, chó: súc (畜) tức là chăn nuôi súc vật, chữ này, có nơi đọc là “xử” (處), vùng này đọc là “tự” (序). Không chứa, cũng không nuôi gà, chó, dê, heo. Bồ-tát cũng không gần gũi hạng người chăn nuôi heo, dê, gà, chó; cũng không gần gũi hạng người săn bắn, đánh bắt (điền liệp, ngư, bổ): “điền liệp’ tức là săn bắn, vây bắt; “ngư” tức là đánh cá, câu cá; “bổ” tức là săn bắt chim. Bồ-tát cũng không được phép săn bắt.
Có người bảo: “Nếu thế, Lục Tổ (Đại sư Huệ Năng) khi còn ở cùng những người thợ săn, cùng họ săn bắn suốt mười sáu năm thì sao?”. Đại sư Lục Tổ ở chung với những người thợ săn, nhưng bản thân Ngài không tham gia việc săn bắn.
Vừa rồi nói “Bồ-tát không gần gũi vua, đại thần, quan trưởng, vương tử”, quý vị xem, Lục Tổ ở Trung Hoa, bao lần được Vũ Tắc Thiên triệu thỉnh, Ngài vẫn không nhập triều; Hoàng đế Trinh Quán triều Đường bốn, năm phen thỉnh Tứ Tổ (Đại sư Đạo Tín), ngài vẫn không đến yết kiến, các vị ấy đều tuân thủ quy tắc này của “Kinh Pháp Hoa”.
Những kẻ sống theo luật nghi ác: và tất cả những kẻ sống theo luật nghi ác. Giống như hiện nay, những người ở đường Powell nói họ cũng là người xuất gia, nhưng lại ăn mặc kỳ dị, đến các nơi ào ào quyên tiền người ta[5]. Ngoài ra, hiện nay có một số người rất quái dị, ăn mặc quái gở; đó đều gọi là “ác luật nghi”, dáng vẻ của họ rất kỳ quái. Bồ-tát cũng không gần gũi loại người kỳ quái này.
Những hạng người như thế hoặc có lúc lại đến, thì thuyết pháp cho họ, nhưng không có lòng mong cầu: những người như vậy, giả như có lúc họ đến thì quý vị nói Phật pháp cho họ nghe, và cũng với tâm không có chút gì mong cầu, không chút gì phan duyên với họ cả.
L5. XA LÌA HÀNG NHỊ THỪA
Lại chẳng gần gũi các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà cầu quả vị Thanh Văn, cũng không xá chào. Hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh hành, hoặc trong giảng đường, không ở chung với họ. Hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ-tát theo cơ-nghi nói pháp, nhưng không lòng mong cầu.
Hựu bất thân cận cầu Thanh văn Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, diệc bất vấn tấn. Nhược ư phòng trung, nhược kinh hành xứ, nhược tại giảng đường trung, bất cộng trụ chỉ. Hoặc thời lai giả, tùy nghi thuyết pháp, vô sở hy cầu.
Lại chẳng gần gũi các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà cầu quả vị Thanh Văn, cũng không xá chào: Đại Bồ-tát cũng không gần gũi các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hạng người Tiểu thừa cầu quả vị Thanh Văn này; cũng không xá chào. Vì sao? Vì chí hướng không đồng. Nói đến vấn đề xá chào, quý vị thấy một số người xuất gia ở Nhật Bản, hễ gặp người liền chắp tay xá, đó là vì họ chưa nghe qua “Kinh Pháp Hoa”; nếu đã nghe qua kinh này, họ sẽ không như thế.
Hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh hành, hoặc trong giảng đường, không ở chung với họ: bản thân mình hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh hành, hoặc trong giảng đường, không cùng ở, cùng sống chung với người xấu ác. Người xấu ác này, trừ phi họ sửa đổi lỗi lầm thì không sao. Đến chỗ chúng ta, như Sementan, vì mong cầu Phật pháp, thì có thể được.
Hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ-tát theo cơ-nghi nói pháp, nhưng không lòng mong cầu: giả như có lúc họ muốn đến học Phật pháp, thì tùy theo căn cơ của họ mà nói pháp, nhưng cũng không phan duyên, trong tâm chẳng có mưu tính gì cả.
L6. XA LÌA DỤC TƯỞNG
Này Văn-thù-sư-lợi! Lại nữa, Đại Bồ-tát không nên nơi thân người nữ khởi sanh tư tưởng dục nhiễm mà thuyết pháp cho họ, cũng chẳng ưa thích nhìn. Nếu vào nhà người, đừng trò chuyện với gái nhỏ, xử nữ, quả phụ (tiểu nữ, xử nữ, quả nữ), v.v...
Văn Thù Sư Lợi! Hựu Bồ-tát Ma-ha-tát, bất ưng ư nữ nhân thân, thủ năng sanh dục tưởng tương nhi vị thuyết pháp, diệc bất lạc kiến. Nhược nhập tha gia, bất dữ tiểu nữ xử nữ quả nữ đẳng cộng ngữ.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni gọi một tiếng Văn-thù-sư-lợi!, tức là Ta lại nói cho ông biết những việc Bồ-tát không nên làm. Những việc gì? Lại nữa, Đại Bồ-tát không nên nơi thân người nữ khởi sanh tư tưởng dục nhiễm mà thuyết pháp cho họ, cũng chẳng ưa thích nhìn: Đại Bồ-tát không nên khi nhìn thấy người nữ liền khởi sanh tư tưởng dục nhiễm, phân tích tướng mạo cô ta cân đối như thế nào, xinh đẹp ra sao, rồi khởi tâm dâm dục. Không nên như thế! Thậm chí vừa trông thấy người nữ liền mừng rỡ, vui vẻ thuyết pháp cho cô ta. Người nam muốn thỉnh vị này thuyết pháp, ông ta không màng để ý đến, nhưng nếu là người nữ thì ông ta rất hứng thú, càng nói càng hăng, càng hăng càng nói, chỉ chuyên nói với người nữ, nói đến mấy ngày mấy đêm cũng không hết chuyện. Vì sao? Chính vì ông ta thích người nữ, có tâm dục nhiễm với người nữ.
Phải nên thế nào đây? Chẳng những không khởi tư tưởng dâm dục đối với người nữ, cũng không mong muốn nhìn thấy họ. Bởi vì thân thể người nữ không sạch sẽ, do đó người tu đạo không nên thường xuyên gặp gỡ họ, mong mỏi thấy họ. Nếu như quý vị thật sự có định lực, thì thấy cũng như không thấy, nên nói “Mắt nhìn hình sắc lòng không động; tai vẳng việc đời tâm chẳng hay” (Nhãn quán hình sắc nội vô hữu, nhĩ thính trần sự tâm bất tri), đó lại là một việc; còn như quý vị chưa có định lực, một khi xúc cảnh sẽ bị cảnh chuyển, vì vậy không nên gặp gỡ người nữ nhiều như thế.
Nếu vào nhà người, đừng trò chuyện với gái nhỏ, xử nữ, quả phụ (tiểu nữ, xử nữ, quả nữ), v.v... : giả sử có công việc gì đặc biệt, người hành Bồ-tát đạo, khi vào nhà người khác, không được trò chuyện với đứa bé gái; chẳng những không nên nói chuyện với bé gái mà ngay cả xử nữ cũng không nên. Người tu Bồ-tát đạo như quý vị, đặc biệt là phải luôn có người ở bên cạnh, (tức là phải có hai người) khi tiếp chuyện, không được một mình cùng nói chuyện với xử nữ; xử nữ là những cô gái chưa kết hôn, cũng chưa gần gũi với người nam bao giờ.
Quả nữ, tức là các cô gái sau khi kết hôn, chồng qua đời, thủ tiết thờ chồng. Người nữ thủ tiết thờ chồng, quý vị cũng không được cùng họ nói chuyện; cùng nói chuyệntức là chỉ có riêng hai người khi nói chuyện, không có người khác ở bên cạnh. Từ “等” (đẳng) trong chánh văn, tức là chỉ cho loại người: tiểu nữ, xử nữ, quả nữ; đẳng, là đẳng loại (cùng loại). Loại người này, không nên cùng nói chuyện, không nên nói chuyện riêng với nhau; cùng nói, cũng tức là nói chuyện riêng, là không có người thứ ba ở bên cạnh nghe. Đại Bồ-tát tu hành Bồ-tát đạo, không nên cùng nói chuyện như thế với những người nữ.
L7. XA LÌA KẺ BẤT NAM
Cũng lại chớ gần gũi với năm hạng người bất nam, xem là thân hậu.
Diệc phục bất cận ngũ chủng bất nam chi nhân, dĩ vi thân hậu.
Cũng lại chớ gần gũi với năm hạng người bất nam: năm hạng người bất nam này, có vị nào biết không? Nếu ai biết thì nói lại cho đại chúng cùng nghe thử! Nào, Quả Ninh!
- Đệ tử không biết (Quả Ninh đáp).
Ai biết? Ai có thể nói cho tôi nghe? Có ai biết không? Nhanh lên nào! Quả Hộ biết không?
- Đệ tử không biết (Quả Hộ đáp).
- Vì sao chú không biết? Thế Quả Dật biết không?
- Đệ tử không biết.
- Thế còn Quả Tu?
- Đệ tử cũng không biết. Sư Phụ chưa dạy con.
Quý vị thọ giới đều đã học qua, khi thẩm tra giới, đã có hỏi đến. Quả Tiên biết không?
- Đệ tử không biết.
Chà! Không ai biết cả, chẳng trách có nhiều đồng tính luyến ái đến vậy, chính là vì không biết vấn đề này! Hiện nay, đồng tính luyến ái đã trở thành hợp pháp, các cô sắp tới đây sẽ không có cơm ăn, không có ai nuôi, không có ai thèm muốn, bởi người nam đều muốn lấy người nam làm vợ rồi, chứ không muốn lấy người nữ nữa, người nữ không còn hữu dụng, cũng không cần người nữ sanh con cho họ nữa. Thê thảm quá! Sao quý vị lại cười? Phải khóc mới đúng chứ!
Năm hạng người bất nam: thế đã không phải là nam, thì là người nữ chăng? Cũng không phải nữ. Có năm loại người không phải nam, cũng chẳng phải nữ. Quý vị nói họ là nam, nhưng họ không có khả năng làm được việc thuộc về bản năng của nam giới; quý vị bảo họ là nữ, nhưng người này lại cũng không có khả năng làm được việc thuộc về thiên chức của người nữ, vì thế năm loại người này được gọi là “bất nam”.
Khi nãy không nói họ là “bất nữ” mà là “bất nam”, thế thì bây giờ tôi đặt cho họ một cái tên, cũng gọi là “bất nữ”. “Bất nam bất nữ”, quý vị nói xem, đây là thứ gì? Đây quả thật không phải là người mà là đồ vô dụng! Chẳng có một chút hữu dụng nào ở trên đời này cả, chỉ là đồ vật biết ăn! Họ không thể giúp người nữ sanh con, bản thân họ cũng không thể làm người nữ để sanh con, Quý vị nói xem, loại người như thế có phải là chẳng giúp ích được gì cho thế giới không?
“Bất nam bất nữ” này có năm hạng:
(1). Sanh (生). Người này, từ trong bụng mẹ sanh ra đã không có nam căn, cũng không có nữ căn; vừa ra đời, họ đã không phải là nam, cũng chẳng phải là nữ, nên việc thuộc về bản năng của nam giới, người này không thể làm được; và tất nhiên, cũng không thể thực hiện được việc thuộc về bản năng của nữ giới. Xưa nay, đàn ông là để giúp đàn bà sanh con; còn người đàn bà, tự bản thân họ sẽ sanh con; thế nhưng, người này vừa lọt lòng mẹ đã không thể làm được chuyện họ cần phải làm, hạng này gọi là “sanh”, tức là vừa sanh ra đã không có khả năng.
Vì sao họ trở nên như thế? Lý nhân quả này, quý vị cần phải biết! Do vì đời trước, họ luyến ái người đồng giới – hoặc giả người nữ chỉ luyến ái người nữ, hoặc giả người nam lại đi luyến ái người nam, hoặc giả họ vừa luyến ái người nam vừa luyến ái người nữ; với tính cách như vậy, cho nên họ đã trở nên nam chẳng ra nam, nữ chẳng ra nữ, có hình mà vô căn – hình dáng con người thì có, nhưng căn của con người lại không, hạng này gọi là “sanh”.
(2). Kiền (犍). Vốn là người có nam căn, nhưng anh ta lại cắt bỏ nó đi, hoặc là anh ta bị mọc một loại ung nhọt độc, khiến cho nam căn bị hư hoại; đối với người nữ cũng giống thế, hạng này gọi là “kiền”.
(3). Đố (妒). Hạng này khi thấy người nam, sanh lòng ganh tỵ, liền biến đổi thành nam; đã đành biến thì biến thành nam, có tâm lý của giới tính này, thế nhưng họ không làm được việc, không thể giao hợp. Có lúc, họ thấy người nữ, liền sanh lòng ganh tỵ, lại biến thành người nữ, nhưng cũng không có khả năng giao hợp. Tùy theo cảm xúc ganh tỵ mà họ biến đổi thành nam hay nữ. Hạng này gọi là “đố”.
(4). Biến (變). Loại “đố” ở trên, khi thấy người nam, họ liền biến thành nữ; khi thấy người nữ, lại biến thành nam, đó là do khởi tâm dâm dục; hoặc khi thấy người nam thì trở thành nam, thấy người nữ thì trở thành nữ, tất cả những hình tướng đó đều do tâm ganh tỵ mà hiện ra; còn “biến” ở loại thứ tư này, là bản thân họ tự thay đổi sau một khoảng thời gian. Thí dụ như vào lúc 12 giờ họ là người nam, đến 1 giờ họ lại biến thành người nữ, không cần phải nhìn thấy người nam, mà cơ thể họ vẫn tự biến đổi. Đợi đến hai giờ, hoặc ba giờ, hoặc năm giờ sau, họ lại biến thành người nam; vì thế, gọi loại người này là: “nam bất nam, nữ bất nữ” (nam không ra nam, nữ không ra nữ).
Sự thể của loại người này là sao? Sở dĩ họ trở nên như thế chính vì xưa kia, làm thân người nam lại đem lòng yêu thương người nam, làm người nữ lại đi yêu người nữ; hoặc trường hợp người nam, hay người nữ kia tự hành dâm một mình. Người làm ra những chuyện kiểu này thì tương lai sẽ phải lãnh chịu quả báo kiểu này, trở thành kẻ chẳng phải nam, chẳng phải nữ. Quý vị bảo họ là nam, thế nhưng họ không có nam căn; quý vị cho họ là nữ, nhưng họ lại không có nữ căn. Họ vừa có thể biến thành nam, vừa có thể biến thành nữ. Biến là biến vậy thôi, nhưng họ không có khả năng giao hợp, hoàn toàn không có năng lực này.
(5). “Bán” (半). Tức là chỉ có một nửa. Sao gọi là “một nửa”? Tức là loại người này nửa tháng biến thành người nam, nửa tháng biến thành người nữ; nửa tháng nam, nửa tháng nữ. Hạng “biến” ở trên, có thể một-hai ngày là người nam, một-hai ngày là người nữ, không nhất thiết đợi đến nửa tháng. Thế còn loại người này? Họ phải đợi đến nửa tháng, đã có được nam căn rồi, nhưng đến nửa tháng sau, lại biến thành người nữ. Đây cũng thuộc loại người “nam chẳng ra nam, nữ chẳng ra nữ”, mới thọ quả báo này.
Cho nên có nghiên cứu Phật pháp, quý vị mới hiểu được lý lẽ này, bằng không thì tuyệt nhiên không thể biết được năm loại bất nam, năm loại bất nữ này. Quý vị thấy! Phật Pháp đã bày tỏ mọi sự việc cho chúng ta một cách rõ ràng.
Năm hạng người này nếu muốn xuất gia, không được nhận, không cho phép họ xuất gia. Đức Phật không độ năm hạng người này vì họ quá xấu xa. Năm hạng người này, tư tưởng của họ rất tồi tệ, rất ô nhiễm, trong bụng họ toàn những ý nghĩ xấu, tư tưởng xấu. Vì thế, bất luận người nào, nếu có tình hình “thủ dâm” – tự hành dâm một mình; (kể cả nam lẫn nữ), thì sẽ trở thành năm hạng người bất nam, cũng chính là năm loại người bất nữ, cũng chẳng phải nam cũng chẳng phải nữ. Có thể có người cho rằng: “Đây mới chính là (cảnh giới) ‘không có tướng nam nữ’!” Nhưng đây là hoại tướng, bị gọi là “các căn không trọn vẹn” (chư căn bất cụ túc). Bản chất của “căn” này chính là “căn nam, nữ”, căn nam, nữ của quý vị đều không trọn vẹn, đây là loại người tồi tệ nhất trên đời; vì thế làm người, nhất định phải giữ gìn khuôn phép. Nếu quý vị không tuân thủ khuôn phép thì tương lai sẽ phải nhận lãnh quả báo, tức là sẽ trở thành người không được bình thường; Quý vị xem! Những người có sáu căn không toàn vẹn đều là vì đã từng làm quá nhiều việc xấu xa, vì thế mới phải nhận lãnh quả báo này.
Xem là thân hậu: thân tức là gần gũi; hậu tức là kết bạn thân với họ. Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo, không nên kết bạn thân thiết với năm hạng người bất nam, bất nữ này.
L8. XA LÌA NGUY HẠI
Đừng đơn độc vào nhà người, nếu có việc cần phải vào một mình thì nên nhất tâm niệm Phật.
Bất độc nhập tha gia, nhược hữu nhân duyên tu độc nhập thời, đãn nhất tâm niệm Phật.
Không được đến nhà người tại gia khi chỉ có một mình nhằm tránh hiềm nghi. Nếu có việc quan trọng, nhất định phải đến nhà người khác một mình, thì phải một lòng niệm “Nam mô A-Di-Đà-Phật”, hoặc niệm “Nam mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật”; chỉ một lòng chuyên niệm Phật.
L9. XA LÌA CƠ HIỀM
Nếu nói pháp cho người nữ, không được cười hở răng, không được để hở ngực, ngay cả vì pháp cũng không được thân thiết, huống chi là việc khác.
Nhược vị nữ nhân thuyết pháp, bất lộ xỉ tiếu, bất hiện hung ức, nãi chí vị pháp, do bất thân hậu, huống phục dư sự.
Nếu nói pháp cho người nữ, không được cười hở răng, không được để hở ngực: Giả như khi thuyết Phật pháp cho người nữ, không nên cười ha hả, để lộ răng ra. Quý vị thử xem! Vừa nói vừa cười không phải là một cung cách tốt! Khi quý vị nói pháp cho người nữ, không nên cười nhe hàm răng ra; nếu quý vị cười để lộ răng, sẽ khiến cho người kia khởi tâm dâm dục, hoặc bản thân quý vị có ý nghĩ không trong sáng. Cũng không nên để hở phần trên của bụng; ngực chính là phần trên của bụng.
Ngay cả vì pháp cũng không được thân thiết, huống chi là việc khác: thậm chí dù có giảng Phật pháp cho họ, cũng không được tỏ ra quá thân mật, kề vai chụm đầu. Không được như thế! Huống chi là làm những việc khác ư! Vì thế, người tu đạo Bồ-tát, cần phải thận trọng, kiểm điểm bản thân trong từng phút từng giây.
Người giảng Phật pháp cần phải trau dồi định lực; nếu quý vị có định lực thì có thể vào nước mà không bị chìm, vào lửa mà không bị cháy, giống như vàng đã được tinh chế, ví dụ như đối với loại vàng tốt nhất, quý vị lấy 10 ounces, rồi dùng lửa đốt thế nào đi nữa, nó vẫn còn đủ 10 ounces, không hề bị giảm đi một ly nào; nhưng nếu là loại vàng kém chất lượng, một khi bị nung lên, nó sẽ trở nên ít đi, không đủ phân lượng như lúc đầu. Người tu đạo cũng thế, nếu quý vị tu tập thành công thật sự, thì dù có đốt trong lửa cũng không bị biến chất, dìm trong nước cũng không bị hư hoại, đó gọi là “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”. Có thể thuận theo duyên (căn cơ chúng sanh, hoàn cảnh, v.v…) mà không biến chất, dầu không biến chất nhưng vẫn thuận theo duyên, đây là cảnh giới tột cùng không thể nghĩ bàn; nhưng nếu chưa đạt đến trình độ này thì chúng ta nhất định phải hết sức thận trọng, phải nỗ lực trong từng phút từng giây, chớ khởi vọng tưởng.
- Thế, có thể tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, đấy có phải là vọng tưởng chăng? Quý vị tùy duyên, là phải hay không phải vọng tưởng?
Không phải! Bởi vì quý vị không thay đổi (bất biến)! Quý vị có thể giữ cho không thay đổi, mới có thể tùy duyên; thường tùy duyên, thường bất biến, thường bất biến là thường tùy duyên, đây là một cảnh giới không thể nghĩ bàn, không phải là việc mà những người bình thường có thể làm được. Nhất định phải đạt đến trình độ lửa đốt cũng không chết, nước dìm cũng không chết, mới có thể nói là thật sự được cảnh giới không thể nghĩ bàn, đây là một cảnh giới đặc thù; vì thế, chúng ta tu đạo, khi chưa đạt đến cảnh giới này, nhất định phải hết sức thận trọng khi tu tập.
L10. XA LÌA NUÔI DƯỠNG
Không ưa thích nuôi đệ tử trẻ tuổi, Sa-di nhỏ tuổi, cũng không thích cùng chung một thầy với chúng.
Bất nhạo súc niên thiếu đệ tử, sa di tiểu nhi, diệc bất lạc dữ đồng sư.
Không ưa thích nuôi đệ tử trẻ tuổi: không ưa thích tức là không sẵn lòng, chứ không hẳn khăng khăng không nuôi, vì nếu có nhân duyên đặc biệt thì cũng có thể nuôi, chẳng qua là không thích nuôi mà thôi. Nếu quý vị thích nuôi, thế thì sai rồi! Quý vị thích đệ tử nhỏ tuổi, nói rằng: “Ta già rồi! Trong gia đình không có con trai, cũng không có con gái, xuất gia thâu nhận đệ tử nhỏ, hầu nó phụng sự ta. Thế là tốt lắm!” Như thế không đúng! Vì người xuất gia, người tu hạnh Bồ-tát không nên hưởng thụ, không nên bảo người khác hầu hạ mình, phục dịch mình, làm công cho mình. Người hành đạo Bồ-tát có nhiều điều bất tiện, có nhiều việc không thể làm, quý vị không thể tùy tiện. Vì thế, nếu quý vị muốn thâu nhận đệ tử nhỏ tuổi thì hoàn toàn không nên; nếu là trường hợp đặc biệt, thì cũng có thể.
Vì sao không nhận đệ tử nhỏ tuổi? Vì đệ tử tuổi còn nhỏ rất cứng đầu, ít khi chịu nghe lời. Quý vị xem! Ngay cả cha mẹ mà chúng còn không nghe lời dạy dỗ, khiến cho cha mẹ phải nổi giận, nhưng cũng đành bó tay; quý vị nói xem, nếu thu nhận nhằm đứa đệ tử ngỗ ngược như thế, từ sáng đến tối sẽ gặp phải không ít phiền lòng, vì vậy không nên thích nuôi đệ tử nhỏ tuổi. Nếu nó biết vâng lời, là đứa trẻ ngoan, quý vị bảo nó tu hành, nó liền tu hành; bảo nó không được bướng bỉnh, nó liền không bướng bỉnh, được như thế thì có thể thu nhận.
Vậy, học tập kinh điển, quý vị phải có tầm nhìn linh hoạt, không nên cứng nhắc; nói là đứa đệ tử nhỏ tuổi “chớ ưa thích nuôi”, chứ không phải hoàn toàn “không được” nuôi; nếu nó là đứa trẻ ngoan thì vẫn được nuôi. Nói thế, nhưng làm sao để biết nó ngoan hay không? Nếu không biết thì quý vị không nên mạo hiểm, không nên thâu nhận; nếu quý vị biết chính xác đứa trẻ này ngoan, có chút ít nền tảng tu hành, thì có thể thu nhận.
Đề cập đến vấn đề này, tôi lại nhớ đến chuyện thu nhận một đệ tử nhỏ tuổi quy y. Đệ tử quy y có mấy chú còn rất nhỏ, chỉ mới mười hai, mười ba tuổi, nhưng các chú rất vâng lời.
Lúc còn ở Đông Bắc (Mãn Châu), tôi nghe nói có một đứa bé tên Trịnh Đức, tính tình rất kỳ lạ. Từ lúc lên năm tuổi, hằng ngày chú đều lạy cha mẹ. Nghe nói có đứa trẻ như thế, tôi tự sanh lòng hổ thẹn bởi vì đến năm mười hai tuổi, tôi mới biết lạy cha mẹ, không bằng chú, từ lúc lên năm đã thể hiện hạnh hiếu đạo. Thế là tôi nhất định muốn gặp qua chú bé. Trong gia đình, chú không hề gây phiền phức, từ sáng đến tối, cha mẹ chú không biết thế nào là buồn, thế nào là lo.
Một hôm, khi cơ duyên đã chín mùi, tôi đến nhà chú. Gia đình chú bé ở tại huyện Ngũ Thường, cách huyện tôi ở hơn một trăm dặm đường. Lúc bấy giờ, chú bé này đã được mười hai tuổi.
Trước khi tôi đến, có rất nhiều đạo khác muốn thu nhận chú làm đệ tử; bởi vì chú là người có tiếng tăm tốt, ai ai cũng đều biết chú là một đứa con có hiếu, rất hiếu thảo với cha mẹ. Do vậy, những vị thầy ngoại đạo đều để tâm đến chú, muốn thu nhận chú làm đồ đệ, nên đã tìm gặp chú; nhưng mỗi khi trò chuyện, họ đều không thể biện luận thắng chú được. Chú hỏi: “Ngài tu đạo gì?” Vị kia đáp: “Tôi tu thân!”, rồi vị này giảng thế nào mới có thể tu thành thần tiên. Chú lại hỏi: “Thần tiên phải thế nào mới có thể thành?” Vị kia đáp: “Phải tĩnh tọa, phải hiếu thảo với cha mẹ…”
Chú liền hỏi lại: “Thế ngài có hiếu thảo với cha mẹ không?” Câu hỏi của chú khiến những vị kia không biết đường nào mà trả lời. Chú bảo: “Hiện tại, tôi phải hiếu thảo với cha mẹ trước đã, sau khi trả hiếu cho cha mẹ xong, tôi mới tu đạo”; chú lại nói: “Cha mẹ chính là Phật sống ở nhà, tôi không thể bỏ gần để tìm xa”. Lý luận này khiến các vị thầy ngoại đạo không cách gì biện luận thắng chú được, đành phải bỏ về. Rất nhiều vị thầy ngoại đạo muốn độ chú, nhưng không cách nào độ được.
Hôm tôi đến, chú ở trong nhà, đang khom người ra cửa sổ kính, vừa thấy tôi, chú liền nói với mẹ: “Mẹ ơi! Sư phụ con đến rồi!” Người mẹ ngạc nhiên hỏi lại: “Con có sư phụ khi nào?” Chú đáp: “Bây giờ thì con đã có sư phụ rồi!”. Mẹ chú thấy con hôm nay có vẻ kỳ lạ, liền mời tôi vào nhà. Lúc ở Đông Bắc, trên người luôn đeo một cái đãy, bên trong chứa đủ mọi thứ, từ kinh điển đến những đồ dùng hàng ngày; cũng giống như cái xắc của quý vị, chỉ khác là cái đãy của tôi thì khoác chéo trên người. Khi tôi vừa tiến vào cửa, chú bé trông thấy liền đón lấy cái đãy của tôi rồi khoác ngay vào người; tôi cùng chú bước vào nhà, ngồi trên cái giường lò và trò chuyện với nhau.
Tôi hỏi: “Ai bảo chú lạy cha mẹ? Có phải cha mẹ chú thích như thế?” Chú đáp ngay: “Không phải!” Tôi hỏi lại: “Thế tại sao chú phải lạy?” Chú đáp: “Vì cảm thấy ân của cha mẹ không cách gì đền đáp được, nên con lạy cha mẹ, làm cho song thân hân hoan hạnh phúc, con nhận thấy đây là điều mà người con nên làm.”. Tôi lại hỏi: “Lúc lên năm tuổi, chú còn chưa hiểu chuyện, vì sao lại muốn lạy cha mẹ?” Chú đáp: “Lúc bấy giờ, con cảm thấy làm như thế thì con rất vui sướng.” Tôi buộc miệng khen: “Tốt quá! Chú còn giỏi hơn cả ta! Phải đến năm mười hai tuổi, ta mới biết lạy cha mẹ, cũng chẳng có ai dạy ta phải làm thế cả. Thế mà khi mới năm tuổi, chú đã có thể làm được điều đó, chú đúng là một đứa trẻ ngoan, rất mực hiếu thảo.” Nghe tôi bảo thế, chú vui lắm.
Tôi lại hỏi cha mẹ chú: “Rốt cục, chú bé chỉ lạy hai người thôi, hay là có khi nào đã làm gì cho hai người tức giận không?” Người chồng đáp: “Hai vợ chồng già tôi chẳng có đạo hạnh gì, nhưng có lẽ cha tôi là người có đạo đức, nên nay chúng tôi mới sanh được một đứa con có hiếu như vậy!” Quý vị thấy đấy! Họ không tự mãn, không nói: “Ồ! Ngài thấy không, chúng tôi làm việc phải nên mới sanh được một đứa con ngoan, đã hiếu thảo với chúng tôi như thế!”. Từ điểm này, chứng tỏ người cha nhất định phải là người rất thông hiểu đạo lý.
Nói chuyện suốt một giờ đồng hồ, sau đó tôi bước xuống định kiếu từ, Trịnh Đức cũng nhanh nhẹn nhảy xuống, cầm lấy đôi giầy của tôi. Tôi cứ đinh ninh chú cầm đôi giầy đưa tôi mang và để ra về, không ngờ chú lại cầm nó chạy một mạch đến một phòng khác để giấu, sau đó quay lại nói với tôi: “Sư phụ! Hôm nay là lần đầu tiên con gặp người, nhất định phải giữ người ở lại để dùng với gia đình con một bữa cơm đạm bạc. Con không nấu món gì ngon, vả lại trong nhà con cũng chẳng có món gì ngon cả!” Nghe chú nói thế, tôi cũng rất vui. Tôi mới đến lần đầu, thế mà chú đã giữ sư phụ lại dùng cơm, chứng tỏ chú cũng rất có hiếu với thầy; nên tôi đã im lặng không nói gì, chỉ gật gật đầu. Chú liền đi làm cơm, sau đó dọn lên mời cả nhà cùng dùng.
Sau khi dùng cơm xong, tôi hỏi chú: “Này Trịnh Đức! Bây giờ con đã tôn ta làm sư phụ, vậy thì sư phụ phải nghe lời đệ tử, hay đệ tử phải nghe lời sư phụ đây?” Chú đáp: “Đương nhiên là đệ tử phải nghe lời dạy bảo của sư phụ rồi, sao có chuyện sư phụ nghe lời của đệ tử được chứ?” Tôi bảo: “Con nói vậy, thế thì tại sao chưa được sự cho phép của thầy, con lại đem đôi giày của thầy đi giấu, khi quay lại, mới mời thầy ở lại dùng cơm? Nếu như con nghe lời sư phụ, thì không nên cầm đôi giầy của thầy đi, rồi mới giữ thầy ở lại dùng cơm; con nên thưa với thầy trước, chứ không nên sử dụng thủ đoạn ép buộc, để kêu thầy ở lại. Con làm thế, há chẳng phải là bảo sư phụ phải nghe lời đệ tử sao?”
Nghe tôi nói thế, chú liền quỳ xuống trước mặt tôi thưa: “Thưa sư phụ! Con sẽ không dám nữa! Tuyệt đối không dám làm như vậy nữa! Con nghĩ rằng làm như vậy thì sư phụ chắn chắn không thể đi!” Tôi bảo: “Đã biết sư phụ chắc chắn không thể đi, há không phải là chú đã dùng thủ đoạn để cố ép sư phụ đó sao?” Chú thưa: “Bây giờ thì con đã hiểu rồi, từ nay về sau con sẽ không làm như vậy nữa! Xin sư phụ thứ lỗi cho con!”
Lúc ấy, tôi không nói gì cả, chỉ im lặng chấp thuận; vì chú ép buộc tôi là nhằm giữ tôi ở lại dùng cơm, nên chỉ còn nước im lặng mà chấp thuận thôi, chẳng còn cách nào khác! Chú cầm đôi giầy của tôi đi rồi, không có giầy thì tôi không thể đi đường, vì ở vùng Đông Bắc có rất nhiều tuyết. Không sai! Tôi có thể không cần giày mà vẫn đi được trên tuyết, nhưng rất khó chịu.
Ở Đông Bắc, mỗi năm đến mùa đông, tuyết đóng dày lên đến ba thước[6]; tôi không mang vớ, chỉ mang đôi giày la-hán thế này mà đi khắp nơi. Vì vậy, mọi người bảo: “Ồ! Vị này là người có đạo hạnh đây!”. Kỳ thật không phải thế, chẳng qua là tôi có thể chịu đựng được, không sợ rét, không sợ đói. Sở dĩ tôi nói: “Lạnh chết, đứng nghinh gió; Đói chết, ưỡn bụng đi” (Đống tử nghênh phong trạm, ngạ tử đĩnh đỗ hành) chính là ý này. Bước đầu tập luyện không mặc đồ đệm bông, cũng bị rét ghê gớm lắm; song nếu lạnh qua mức thì sẽ không còn sợ nữa!
Ở Đông Bắc, thời tiết không giống bên Mỹ, ở Mỹ không rét cóng. Chỗ vùng của tôi, lỗ tai có thể bị đông cứng, khi bị như thế thì rất đau, nếu quý vị dùng tay cào thế này, nó sẽ bị rụng ra ngay. Thật đấy! Vậy mà tôi không đội nón, lỗ tai cũng không bị đóng băng gãy lìa ra, bởi vì tôi đã quen. Ban đầu, da thịt đau hơn là bị kim châm, đau ghê gớm lắm, nhưng sau đó thì mặc kệ, không thèm để ý đến nó nữa, vậy mà cũng vẫn qua được.
Trịnh Đức hiếu thảo như thế, vừa nhìn qua, tôi biết ngay chú là người xuất gia, vì tướng mạo đầy đặn, lỗ tai lại to. Ồ! Tướng người rất có phước báo! Đứa trẻ này rất thông minh, đệ tử nhỏ được như thế thì có thể thu nhận. Nhận nhiều thêm chút nữa cũng không sao; chú ấy rất ngoan, chú ấy rất hiểu khuôn phép! tuyệt đối nghe lời răn dạy! Vì vậy, hạng đệ tử nhỏ tuổi như vậy có thể thu nhận.
Sa-di nhỏ tuổi: nhỏ tuổi tức là đứa trẻ. Sa-di nhỏ tuổi ở đây, không phải là Sa-di lâu năm, cũng không phải là Sa-di thực thụ, mà là “Khu ô Sa-di”; Khu ô Sa-di chính là Sa-di đuổi quạ. Từ tám đến mười hai tuổi, tuổi tác vẫn còn rất nhỏ. Thời xưa, các chùa thường làm ruộng hoặc làm rẫy, những con quạ thường bay đến ăn thóc lúa hoặc mổ trộm rau, nên phân công các chú Sa-di bé này ra đuổi quạ, vì vậy mà gọi là “Khu ô Sa-di”.
Sa-di (Shramanera) là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “Cần tức”; cần nghĩa là không lười biếng; tức nghĩa là không tức giận, cũng chính là “Siêng tu giới-định-huệ, đoạn trừ tham-sân-si”. Nếu quý vị có thể siêng năng tu tập giới-định-huệ, thì tham-sân-si tự nhiên sẽ dứt trừ; nếu quý vị không dứt trừ tham-sân-si, thì cũng không thể siêng năng tu giới-định-huệ. Con người thường có tâm tham rất lớn. Người có tâm tham thì thích nhàn ghét vất vả; thích nhàn tức là thích an nhàn; ghét vất vả tức là sợ làm việc. Quý vị có tâm tham thì sẽ thích nhàn, ghét vất vả; quý vị có tâm sân thì thích nổi cáu, thích tức giận; quý vị có tâm si thì rất hay vọng tưởng, muốn chuyện này không được, lại muốn đến chuyện kia, muốn chuyện kia cũng không thành công lại muốn đến chuyện nọ. Vì vậy nói: “Tối mơ nghìn con đường, sáng ra bán đậu hũ” (Dạ vãn thiên điều lộ, tảo khởi mại đậu hủ), tối ngả lưng xuống giường thì có cả nghìn con đường có thể đi; nhưng khi sáng dậy, vẫn phải đi bán đậu hũ. Đấy chính là mơ mộng hão huyền!
Nếu quý vị không dứt trừ tham-sân-si thì giới-định-huệ không thể hiện tiền. Giới, đứng đầu chính là giới “tham”; tức là chớ tham lam không biết đủ, chớ thích nhàn, sợ vất vả. Định, nếu quý vị có định rồi, chính là chỗ: “Bạn có nghìn kế hay, tôi có một thước định” (Nễ hữu thiên điều diệu kế, ngã hữu nhất định chi quy); bất luận quý vị có phương pháp gì, song tôi có định lực, quý vị nghĩ ra biện pháp thế nào cũng không lay chuyển được tôi, quý vị không cách gì khiến tôi phải phiền lòng, vì tôi có định lực. Vì vậy, “định” là dùng để đối trị “sân”, dù quý vị có nổi cáu hơn thế nữa, tôi cũng không hề gì.
Huệ là dùng để đối trị “ngu si”. Quý vị có trí huệ, ngu si liền biến thành trí huệ; nếu quý vị có ngu si thì trí huệ cũng sẽ biến thành ngu si. Hai thứ đó chỉ là một, chính là mặt trái và mặt phải, như thế này là trí huệ, như thế kia là ngu si, một mặt âm, một mặt dương. Nếu quý vị phan duyên, chạy theo trần cảnh thì chính là ngu si; nếu quý vị không chạy theo trần cảnh thì đó chính là trí huệ. Nếu quý vị sống say chết mộng, điên điên đảo đảo, đó chính là ngu si; còn quý vị thanh tịnh, không tham không nhiễm, đó chính là trí huệ.
Quý vị nhất thời thanh tịnh thì nhất thời ở Linh sơn; còn nếu quý vị thường thường thanh tịnh, thì thường thường ở Linh sơn. Linh sơn chính là đạo tràng thuyết pháp của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni; đạo tràng thuyết pháp là Linh sơn, là tỷ dụ cho sự thanh tịnh trong tâm quý vị. Cho nên nói: “Nhất thời thanh tịnh, nhất thời Linh sơn; thời thời thanh tịnh, thời thời Linh sơn”. Tất cả đều ở trên pháp hội Linh sơn, không nên tìm cầu bên ngoài, bên trong tự thân mỗi người đều có, chỉ cần quý vị hiểu rõ, biết dụng; nếu quý vị không biết dụng thì là thứ bỏ đi. Vì vậy, tu hành cũng chính ở tại nơi này!
Cũng không thích cùng chung một thầy với chúng: Không chỉ tự mình không thu nhận trẻ con làm đệ tử, cũng lại không cùng chúng thờ một vị thầy. Thế thì: “Để chúng bái sư phụ mình, xin làm đệ tử! Tư cách của sư phụ mình hơn hẳn mình, có khả năng dạy đám trẻ nhỏ, quát mắng đám trẻ nhỏ, đại khái là có bản lĩnh hơn mình!”, như vậy cũng không thể được. Nếu quý vị có cùng một thầy với chúng, chúng kêu “sư huynh”, quý vị phải quan tâm đến chúng; nếu không quan tâm thì tình cảm huynh đệ sẽ không có. Thế rồi suốt cả ngày, chúng cứ: “Sư huynh! Đệ muốn ăn kẹo!” thì quý vị phải mua kẹo cho chúng ăn. “Sư huynh! Đệ muốn ăn bánh bích-quy”, quý vị lại phải mua bánh tây cho chúng ăn. Biết bao nhiêu là phiền phức! Nhưng chỉ là “không thích chung một thầy”, chứ không phải là “không chung một thầy”; nếu như thầy của quý vị thích đứa trẻ này, quý vị cũng không thể phản đối.
Bây giờ có vẻ đã có nhiều người hiểu đạo lý rồi, khuôn phép cũng rất tốt rồi. Trước kia, khi tôi ở đường Sutter, người đến nghe kinh, quý vị nói xem họ nghe kinh thế nào? Có người nằm sấp ra đó để nghe, có người nằm dài ra mà nghe, có người chân gác lên trên ghế, đầu kê dưới gầm ghế, giống như con rắn quấn trên ghế. Vì sao lại như thế? Vì họ cho rằng đó là luyện tập Yoga, nên tôi cũng chẳng nói gì; vì lúc bấy giờ mọi người đều không biết quy củ, nên chẳng có người nào giữ khuôn phép. Đến bây giờ, có Quả Dung (Ron Epstein) hướng dẫn sinh viên đại học, những sinh viên này dù ít dù nhiều đều biết chút ít khuôn phép; vì vậy mọi người đã dần dần đi vào khuôn khổ. Vả lại, lớp hè đầu tiên, tôi cũng rất nghiêm khắc; một phút cũng không bỏ qua, năm phút cũng không cho nghỉ; bởi vậy, có người muốn gây rối cũng không được.
Đến lớp hè thứ hai, quy củ đã được chấp hành tốt hơn một chút; trước kia, vốn chẳng có người nào biết việc xá, lạy người xuất gia. Lúc ấy, có một người ngày nào cũng lạy tôi, anh ta còn nói có thể quỳ suốt bốn giờ đồng hồ – vì anh ta nghe nói có người đã quỳ trước mặt tôi bốn giờ đồng hồ, nên nói cũng làm được việc ấy. Tôi bảo: “Được! Anh làm được!”. Thế là từ đó về sau, mỗi ngày anh ta đều lạy. Tôi vốn không thích người khác lạy mình, nhưng khi đến đây, người Mỹ không thích lạy; nên giờ đây tôi thíchquý vị lạy, vì vốn không thích cũng phải thích – tôi không thích nhận người khác lạy mình thì cũng phải thích; quý vị không thích lạy, cũng phải thích!
Ở đây có Quả Địa dẫn đầu lãnh chúng, mỗi ngày anh ta đều lạy tôi; về sau có một người tên Chu-di-lặc, thấy Quả Địa lạy, liền cho rằng tôi bảo bọn họ lạy. Kỳ thật, tôi không bảo ai phải lạy tôi cả, tôi tự biết chẳng có đức hạnh gì nên không thích người khác lạy mình. Thế thì, anh ta cũng lạy, nhưng lạy với tính cách cợt nhả, đùa bỡn. Anh ta thấy mình là một nhân vật kỳ cựu nên cảm thấy xấu hổ nếu lạy tôi một cách trịnh trọng, vì vậy đã lạy với cái dáng vẻ hài hước như thế. Sau khi làm trò hề, anh ta cảm thấy chẳng còn mặt mũi nào mà đến nữa.
Đến nay, Phật Giáo Giảng Đường đã có một số quy củ, vả lại những người Mỹ này cũng lập ra nguyên tắc: không nói chuyện; tôi rất tán đồng việc này, bởi vì tôi cũng không thích nói chuyện. Quý vị cũng không cần nói chuyện với tôi, tôi cũng không nói chuyện với quý vị, mọi người đều bớt đi sự phiền phức. Bây giờ thì tốt rồi, rất có quy củ so với trước kia! Thế còn sau này? Tôi tin rằng càng ngày sẽ càng tốt hơn, bởi vì mọi thứ ở nước Mỹ này đều rất đẹp (mỹ), vậy thì quy củ chắc chắn sẽ không xấu, thiện mỹ.
[1] 阿蘭若 Aranya: Nói tắc là Lan-nhã, dịch là núi rừng, đồng hoang. Chỉ những nơi yên tĩnh vắng vẻ, thích hợp cho những người xuất gia tu hành để cư trú. Còn dịch là “tịch tĩnh xứ”, nơi vắng lặng, nơi không tranh giành. Đến đời sau, tất cả chùa chiền, tịnh xá đều gọi là A-lan-nhã, phần nhiều cách xa nơi phồn hoa đô hội, là những chỗ yên tĩnh tiện cho người xuất gia tu hành, và người tại gia ra vào lễ bái. (Phật Quang Đại Từ Điển)
[2] LSD - Lysergic acid diethylamide: một loại ma túy có tác động gây ảo giác (hallucinogens) rất mạnh đến thân tâm, người dùng vào cảm thấy như là “khai ngộ” vậy. Rất thịnh hành đối với những người trong phong trào hippy vào thập niên 60’s.
[3] Visakha hay Vesak - ngày lễ Tam Hợp, tức là ngày kỷ niệm 3 sự kiện lớn của Phật Giáo: ngày Đức Phật đản sanh, Đức Phật thành đạo và Đức Phật nhập Niết-bàn.
[4] Đơn vị đo lường của Anh, Mỹ. 1 pound=454 gram
[5] Nhóm Hare Krishna
[6] Ở đây hoàn toàn dùng thước Trung Hoa. 1 thước TH=1/3 mét.
K2. ƯỚC GẦN LUẬN GẦN
Thường thích ngồi thiền, ở chỗ thanh vắng, tu nhiếp tâm mình. Văn-Thù-Sư-Lợi! Đó gọi là “chỗ thân-cận” (thân cận xứ) đầu tiên.
Thường hiếu tọa thiền, tại ư nhàn xứ, tu nhiếp kỳ tâm. Văn Thù Sư Lợi, thị danh sơ thân cận xứ.
“Thường thích ngồi thiền”: Việc ngồi thiền này, nếu như quý vị ưa thích thì mới có thể ngồi được; bằng không thì dù có ngồi thiền cũng chẳng ích gì. Nhóm người trong lớp hè hiện nay của chúng ta có thể nói đều là những người thường thích ngồi thiền; thường thích ngồi thiền chính là điều kiện quan trọng nhất của người tu tập Bồ-tát đạo. Còn không thích ngồi thiền thì sao? Không thích ngồi thiền thì chắc chắn là thích tán loạn.
Tọa thiền sẽ đạt được định lực; thế thiền là chỉ ngồi chăng? Là ngồi mà không phải ngồi. Trước khi quý vị ngồi, không phải là ngồi; sau khi quý vị ngồi, cũng không phải là ngồi; khi đang ngồi thiền, đó chính là ngồi. Trên thực tế, luận về thiền thì quý vị đứng cũng là thiền, ngồi cũng là thiền, đi cũng là thiền, ngủ cũng là thiền. Nếu quý vị hiểu rõ về “thiền” thì đi, đứng, nằm, ngồi cũng đều là thiền; có điều, trước khi hiểu rõ về “thiền”, quý vị cần phải ngồi thiền trước đã. Khi đã đạt được thiền rồi thì dù quý vị đi, đứng, nằm, ngồi gì cũng đều không xa rời thiền; thiền chính là quý vị, quý vị cũng chính là thiền; thiền luôn theo quý vị, quý vị cũng luôn theo sát thiền như hình với bóng, muốn lìa xa cũng không thể được. Đó chính là định lực, là ngồi thiền.
Giảng đi giảng lại, rốt cuộc “Thiền” là gì? Gì cũng không phải. Nếu quý vị cho Thiền là một cái gì đó thì ngay đó đã có chỗ chấp trước rồi. Gì cũng không phải là không có chỗ bám chấp, nên nói: “Đây là cách nói không vướng vào một hạn định nào cả” là rất đúng! Nếu như có hạn định thì không phải là Thiền. Thiền là vô hạn định, cũng chính là không. Không ấy làm cho quý vị phát sinh định lực, phát sinh tam-muội.
Thiền là một nửa âm tiếng Phạn, gọi đủ là “Thiền-na”. Thiền-na là âm tiếng Phạn (Dhyana), Trung Hoa dịch là “Tư duy tu” hay “Tĩnh lự”, tức ngồi yên một chỗ mà tu tư duy, mà tĩnh lự (tĩnh tâm suy xét). Nếu quý vị không biết dụng công thì chỉ ngồi đó mà khởi vọng tưởng. Quý vị chớ khởi vọng tưởng mà nên đánh vọng tưởng (khởi vọng tưởng và đánh vọng tưởng, tiếng Hoa đều là “đả” vọng tưởng); đánh cho vọng tưởng tháo chạy thì sẽ không còn vọng tưởng nữa.
Quý vị không nên cho rằng “đánh vọng tưởng” là một từ ngữ mang nghĩa xấu, đánh “vọng tưởng” là một từ rất có ý nghĩa. Quý vị có thể đánh đuổi vọng tưởng, đấu tranh với nó; vọng tưởng vừa xuất hiện, quý vị liền dùng chày hàng ma đánh nó một chày chết ngắt. Bị đánh chết rồi, vọng tưởng lại đợi có cơ hội liền phục sinh; quý vị lại dùng chày hàng ma đánh chết nó; lại một vọng tưởng sinh khởi, quý vị lại tiếp tục dùng chày hàng ma đánh chết. Thế khi dùng chày hàng ma đánh chết vọng tưởng, có lúc nó sống trở lại, vậy phải làm sao đây? Lúc ấy dùng đến kiếm trảm ma. Vừa thấy vọng tưởng xuất hiện, quý vị liền chém nó một nhát, nó sẽ không thể sống lại được! Bởi vì kiếm trảm ma rất lợi hại. Quý vị chém chết vọng tưởng, trí huệ của quý vị liền sanh khởi, vì trí huệ chính là kiếm trảm ma. Quý vị có trí huệ, tức có kiếm trảm ma; quý vị không có trí huệthì cũng giống như không có kiếm trảm ma vậy.
Có người bảo: “Tôi nghe kinh đã lâu rồi, nhưng chưa từng nghe vị nào giảng như vậy!” Vì sao cứ nhất định phải giống như quý vị đã từng nghe? Kinh thích giảng thế nào thì giảng thế nấy, miễn là như Pháp, phù hợp với đạo lý là được, thăng thiên độn thổ giống như rồng vậy. Vậy chày hàng ma là gì? Chính là định lực của quý vị. Quý vị có định lực chính là có chày hàng ma; không có định lực tức không có chày hàng ma. Giờ quý vị đã rõ cả rồi chứ? Quý vị ngồi thiền sẽ phát sanh định lực; có định lực rồi thì vọng tưởng sẽ bị đánh chết. Quý vị càng dụng công ngồi thiền thì sẽ phát sanh huệ lực. Huệ lực chính là sức mạnh của trí huệ; có huệ lực rồi thì vọng tưởng sẽ bị giết chết.
Vì vậy câu: “Thường thích ngồi thiền”, tức luôn sẵn lòng tu tập định lực, đây là chỗ Bồ-tát nên tu hành. Vậy phải ngồi thiền ở đâu? Nếu vào trong rạp hát, vừa xem kịch vừa ngồi thiền được không? Đến rạp chiếu phim, vừa xem phim vừa ngồi thiền được không? Nếu quý vị biết ngồi thiền thì đến chỗ nào cũng đều thiền được cả; còn như không biết thì không thể được. Biết ngồi thiền thì “Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền; nói năng yên lặng, động tĩnh thể vẫn an nhiên”[1]; “Trong mộng rành rành có sáu nẻo; tỉnh ra rỗng lặng chẳng ba nghìn”[2]. Nếu như quý vị đã giác ngộ, thì ba nghìn đại thiên thế giới đều không hiện hữu, huống chi những thứ khác? Khi quý vị nằm mộng mới có sáu nẻo luân hồi, sanh sanh tử tử, tử tử sanh sanh; cái này quý vị không buông bỏ được, cái kia cũng xả không xong, “Ồ! Đây là chồng tôi!”, “kia là vợ tôi!”, “nọ là cha, mẹ tôi!”, một đống bên này lôi, bên kia kéo, thật là vô vị.
Hai là phải nên thế nào? Nếu quý vị chưa có định lực, nên ngồi thiền “ở nơi thanh vắng (tại ư nhàn xứ)”. Có vị lại bảo: “Gì chứ nói đến việc đó tôi hiểu rõ, tức làkhông cần phải làm việc, từ sáng đến tối nhàn nhã, thảnh thơi, như vậy rất hợp với bản chất của tôi! Tôi vốn không thích làm việc, thế thì tôi sẽ đi ngồi thiền!”. “Nhàn” ở đây có nghĩa là nơi không ồn náo, tức là nơi thanh vắng, là chốn A-lan-nhã. A-lan-nhã là nơi yên tĩnh, không huyên náo. Trường hợp chữ “nhàn” này, quý vị đừng nên hiểu giống nhưQuả Tiên: “ ‘môn ngoại hán’ có phải là ‘La-hán’ không?’ ”, khiến tôi tức cười quá! “Môn ngoại hán” làm sao có thể là “La-hán” được? “Môn ngoại hán” nghĩa là người chẳng hiểu biết gì cả. Tôi nghe câu này cảm thấy thật là – Ồ! Thì ra người Mỹ học tiếng Hoa cũng có chỗ rất hay của họ! “Môn ngoại hán” lại có thể biến thành “A-la-hán”? Có thể tương lai sẽ trở thành A-la-hán, chứ hiện tại thì chưa!
“Tu nhiếp tâm mình”: tu là tu hành, nhiếp là giống như dùng đá nam châm hít lấy tất cả các thỏi sắt. Vậy chúng ta phải nhiếp cái gì? Nhiếp tâm, nghĩa là quý vị không để cho tâm mình chạy lung tung. Quý vị hỏi: “Tâm tôi cũng biết chạy sao?” Tâm quý vị không biết chạy ư? Nó không những chạy mà còn chạy xa đến mười vạn tám ngàn dặm, không biết chạy về hướng nào! Niệm trước chạy đến Âu châu, niệm sau chạy đến Úc châu, niệm tiếp sau nữa chạy đến tận Á châu, biết cả việc đại bác ở Việt Nam đang nhả đạn “đoàng, đoành, đoành” giết chết rất nhiều người. Cứ như vậy, không cần dùng tiền, cũng không cần mua vé mà quý vị có thể dạo chơi khắp năm châu bốn biển. Quý vị cho như thế là quá rẻ, kỳ thật, quý vị đã sử dụng rất nhiều năng lượng(“xăng dầu”) tự tánh của mình, chỉ là quý vị không cảm biết được mà thôi. Xăng dầu dùng để làm gì? Nó có thể dùng để thắp sáng, nếu quý vị dùng hết dầu rồi thì ánh sáng sẽ không còn, chung quanh sẽ trở nên tối tăm. Điều tôi giảng đây là có đạo lý đích thực của nó, nếu quý vị hiểu rõ, không dùng nhiều dầu như thế nữa thì rất có lợi ích cho việc tu hành; còn nếu quý vị không thấu hiểu, sau này dùng hết dầu rồi, tâm quý vị sẽ trở nên tối tăm và sẽ đi vào đường ngạ quỷ.
Vì vậy, Mạnh Tử nói: “Người ta để xổng gà chó thì biết đi tìm; như thả rong tâm thì lại không biết đi tìm, than ôi!” Người ta nuôi gà chó, nếu nó chạy mất thì còn biết đikhắp nơi tìm. Ô! Gà của tôi mất tiêu rồi, chó của tôi không biết chạy đến nơi nào, thế là vội vã đăng báo tìm: “Chó của tôi đi mất, nếu người nào nhìn thấy, xin gọi điện thoại đến địa chỉ…sẽ gặp được tôi!”; trái lại tâm của quý vị chạy mất thì lại không biết đi tìm. Như tôi vừa mới nói, không cần mua vé mà nó vẫn có thể dạo khắp năm châu; thậm chí phi thiên độn thổ, chạy lên trời, xuống lòng đất cũng không cần phải mua vé. Quý vị cho như vậy là rất lời mà không biết rằng mình đã lạm dụng xăng dầu tự tánh quá nhiều và ánh sáng trí tuệ của quý vị cũng sẽ theo đó lụi tàn dần!
Giảng đến đây, quý vị cần phải thật sự biết rõ sự tác hại của vọng tưởng, từ đó không được tùy tiện khởi vọng tưởng. Quý vị nghĩ: “đứa con nhỏ của mình không biết hiện giờ thế nào rồi?” Rồi lại nghĩ: “chị tôi, em gái tôi hiện giờ ra sao nhỉ?” Hoặc là: “anh tôi, em trai tôi, ba mẹ tôi…”, quý vị cứ vọng nghĩ đến những vấn đề này thật chẳng có chút lợi ích gì! Đó là chưa tu nhiếp được tâm mình. Quý vị tu nhiếp tâm là sẽ không phóng tâm; nếu quý vị còn phóng tâm thì tức là chưa tu nhiếp được tâm. Giờ quý vị đã hiểu rõ đạo lý này rồi chứ? Luận về đạo lý “tu nhiếp tâm mình” có rất nhiều, không thể nào giảng nói hết được, tôi chỉ có thể giảng một phần nhỏ mà thôi.
Thứ nhất, phải “A ngũ dục (trách ngũ dục)”; a là quở trách, là làm náo loạn ngũ dục. Sao gọi là ngũ dục? Rất đơn giản, tất cả quý vị đều biết, chẳng qua chỉ biết người mà không biết tên đó thôi – quen biết người này, “ồ! Thì ra là anh ta!” Thế anh ta tên gì? “Tôi không biết, quên mất rồi!”, đây gọi là không biết tên.
Thế ngũ dục là gì? Chính là sắc, thanh, hương vị, xúc; cũng chính là tài, sắc, danh, thực, thùy. Sắc là sắc trần, chạy theo sắc trần; thanh là chạy theo thanh trần; hương là tâm quý vị chạy theo hương trần; vị là chạy theo vị trần; xúc là chạy theo xúc trần. Tóm lại, quý vị luôn bị các thứ giả tạm ấy mê hoặc, vì mê nên tự tánh quý vị không phát sáng được. Các thứ giả tạm ấy là gì? Chính là “ngũ dục”.
Quý vị trách ngũ dục, tức là náo loạn nó, mắng nó, quở trách nó: “Này! Tâm ngươi không nên chạy theo sắc trần!” Quý vị vừa quở trách, tâm này liền bảo: “Ồ! Không nên chạy theo nó!”. Giống như đệ tử không vâng lời, không nghe kinh, quý vị quở trách nó: “Không được ngủ! Chớ có lười biếng!”, nó liền tự nhủ: “À! Lần này phải siêng năng lên chút nữa mới được!”; dục cũng như thế, nếu tâm quý vị chạy theo sắc trần, quý vị quở trách nó: “Quay lại!” nó liền quay lại. Nếu quý vị muốn nghe đàn piano, muốn nghe tiếng vang ‘ù ù’ của máy bay đang bay trên trời, quý vị lập tức ngăn cản tâm mình: “Ô! Không nên nghe âm thanh này! Âm thanh này không giúp ích cho việc tu tập!” thì tâm liền quay lại. Hương, vị, xúc cũng vậy. Người tu đạo không nên dính mắc nơi hương, nơi vị, cũng không nên dính mắc nơi xúc; quý vị chớ cho rằng không dính mắc vị, nhưng dính mắc xúc chắc chẳng có việc gì? Không thể được. Do vậy, cần nên quở trách nó; đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, quý vị phải dạy chúng một cách nghiêm túc, đây gọi là “quở trách ngũ dục”.
Kế đến, phải “Vứt bỏ ngũ cái”. “Khí” tức là quẳng bỏ đi, không cần đến nữa; “cái” là che đậy. Sao gọi là ngũ cái? Ai biết thì nói tôi nghe thử nào! Tôi cũng muốn học hỏi thêm. Không ai biết à? Ngũ cái rất đơn giản, e tôi vừa nói ra, quý vị lập tức hiểu ra ngay và bảo: “Ồ! Hóa ra là cái này!”; nhân lúc tôi chưa giảng, quý vị thử nghĩ xem: “Ngũ cái là gì? Che đậy chỗ nào?” Nó che đậy “định” của quý vị, che đậy “huệ” của quý vị; vì bị nó che đậy nên định của quý vị không sanh ra được, huệ cũng chẳng xuất hiện. Vì sao vậy? Vì bị nó che kín. Nếu quý vị không muốn bị ngũ cái che đậy, thì phải quẳng nó đi, không cần nó nữa!
Sao gọi là “ngũ cái”? (một vị đệ tử đáp: “Cái”, có hai cách dịch: nghĩa thứ nhất là che đậy, tức nó giống cái đồ để đậy; nghĩa thứ hai là cái nắp vung. Nghĩa thứ hai này không hợp với nghĩa trong đây nên thường thì ít khi giảng đến). Tôi cho rằng đó là câu trả lời hay, nghĩa chữ “cái” ở đây chính là che đậy. Ngũ cái gồm:
(1). Tham dục. Tham gì? Tham, không chỉ đơn thuần có “tham” mà là tham dục. “Dục” này là thứ tệ hại nhất, cũng là thứ tốt nhất. Phàm việc gì cũng đều có hai mặt, quý vị không nên chỉ nhìn phiến diện một mặt. Thế nào là thứ tệ hại nhất? Quý vị có tham dục: tham tài, sắc, danh, thực, thùy; tham sắc, thanh, hương, vị, xúc, đây là tham dục. Tuy nhiên, có loại tham dục rất tốt là tham giới, tham định, tham huệ, đấy đều thuộc về tham. Quý vị thường thích ngồi thiền, đây là do tâm tham mà có, nhưng tâm tham này không có gì phải ngại. Quý vị tham thành Phật, tham thành Bồ-tát, tham làm người tốt, tham làm một đệ tử hiếu thuận, đó đều là những tâm tham tốt. Đối với tôi mà nói, tôi thích nhất là đệ tử hiếu thuận; còn quý vị thì sao? “Ồ! Tôi thích có một sư phụ tốt nhất để tôi có thể nương theo học Phật pháp.”, đây là tâm tham của quý vị! Những kiểu tham này đều có thể chấp nhận được. Phật pháp mà tôi giảng là viên dung vô ngại, quý vị bảo nó không tốt, tôi lại cho là tốt; quý vị cho là tốt, tôi lại bảo nó không tốt. Loại “cái” đầu tiên là “tham dục”, quý vị đều rõ cả rồi chứ? Lớp che đậy thứ nhất này có thể che đậy lên định của quý vị, che đậy lên huệ của quý vị.
(2). Sân nhuế là tính nóng giận. Tính nóng này là cái mà mọi người gọi là: “Gom củi ngàn ngày, một mồi thiêu rụi”, quý vị gom củi suốt một ngàn ngày, chỉ cần một que diêm là thiêu rụi hết cả. Quý vị xem! Que diêm chính là sự nóng giận. Quý vị tạo công đức trong ngàn ngày, chỉ cần khởi lên một niệm nóng giận thì tất cả công đức kia đều bị thiêu rụi. Đấy chính là: “Một đốm lửa nhỏ thiêu sạch cả rừng công đức”. Tôi thường nhắc nhở quý vị đây là chỗ tai hại của sân. Sân hận như thế nào thì tai hại như thế ấy; tuy nhiên, nó cũng có chỗ tốt. Tốt thế nào? Là khi quý vị tự trách: “Hừm! Vì sao mình không tu hành? Vì sao mình không thể chế phục được tánh nóng giận của mình? Vì sao mình không thể giết chết con rồng độc trong chính mình?”. Quý vị nói cái sân này không tốt sao? Kiểu giận mình như vậy là tốt, đó chính là: “khắc kỷ phục lễ”, tức có bản lĩnh tự khắc phục, tự điều chế. Nếu quý vị có được loại sân phản tỉnh này là tốt đấy!
(3). Thùy miên (ngủ). Ngủ cũng là một tật rất xấu, nhưng cũng là một tính rất tốt. Nếu quý vị ngủ quá nhiều cũng thật không tốt, nó sẽ khiến cho quý vị trở nên ngu si giống như lợn, không một chút thông minh. Nói vậy thì: “Không ngủ được chăng?”. Không được, cũng cần phải ngủ! Quý vị ngủ được thì tất cả mỏi mệt sẽ không còn, đó cũng là điều tốt; nhưng không nên ngủ nhiều quá, không được tham ngủ quá. Quý vị ham ngủ nhiều là một tật xấu, nếu ngủ vừa đủ thì nó là liều thuốc tốt. Giống như chúng ta, nếu không ăn cơm thì bụng chắc chắn sẽ đói và nó sẽ kiếm chuyện với quý vị, chiến đấu với quý vị, nó sẽ kêu lên “rột, rẹt, rột” như muốn bảo: “Ái da! Sao không cho tôi ăn cơm đi?” Khi đói bụng sẽ kêu vang như sấm – sấm dậy trong bụng, nên đói quá cũng không được, bụng sẽ réo ầm ĩ. Nhưng quý vị ăn quá no cũng không xong, trong bụng sẽ lại nổi lên bão táp; lại phải chạy ra nhà vệ sinh không biết đến mấy mươi lần, tình trạng giống như núi đổ đất nứt, nước biển chảy mãi không dừng, đó là hậu quả của việc ăn quá no! Ăn vốn là việc tốt, nhưng nếu ăn quá no thì lại trở thành xấu, còn như không ăn thì cũng không được. Ngủ cũng vậy, quý vị cần phải ngủ, nhưng không nên ngủ quá nhiều. Do vậy, ngủ cũng là một thứ che đậy, nếu quý vị không điều tiết tốt thì nó sẽ trở thành một thứ che đậy; bằng như làm tốt thì sẽ vén mở được bức màn che đậy. Quý vị vất bỏ ngũ cái, tức vén mở bức màn che đậy thì sẽ không còn bị che đậy nữa.
(4). Trạo hối. Ví như có người này ngồi ở đó, nhưng dáng vẻ cứ làm sao ấy, ngồi không vững, đứng cũng không yên, cứ hết ngẩng lên rồi lại cúi xuống, đó gọi là “trạo hối”.
(5). Nghi hoặc: “Nghi” là hoài nghi; “hoặc” có “thô hoặc, tế hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc”. Cho nên người tu đạo một khi khởi lên nghi hoặc thì đó cũng là một loại che đậy. Giống như đối với những pháp mà Pháp sư giảng, quí vị cho rằng: “Những pháp mà Pháp sư giảng đều là pháp phương tiện, không có căn cứ chi cả, thuyết pháp như thế không đáng tin cậy” và thế là sanh tâm hoài nghi. Pháp sư bảo quý vị “quở trách ngũ dục”, quý vị lại nói: “Tôi thấy ông ta cũng đâu có quở trách nó đâu!”. Pháp sư bảo “quăng bỏ ngũ cái”, quý vị lại nói “Pháp sư còn tâm tham lớn như vậy, ông ta cũng chưa quăng bỏ ngũ cái được! Vì vậy ông ta bảo tôi bỏ, tôi không bỏ!”. Quý vị xem, người này đã khởi tâm hoài nghi rồi đấy!
Đã “quở trách ngũ dục”, “quăng bỏ ngũ cái” lại còn phải “điều ngũ sự”. Điều là điều hòa. Còn năm việc là gì? Đó là những việc chúng ta nên làm mỗi ngày. Bao gồm:
(a). Điều hòa ăn. Quý vị nói xem! Có ngày nào quý vị không ăn cơm không? “Có một lần, tôi không ăn đến mấy ngày liền, đó là lúc chạy nạn, bị người Nhật càn quét đến nỗi không còn chỗ để chạy, cũng không có cơm để ăn!”. Thời gian ở Hương Cảng, vì tránh cảnh người Nhật truy đuổi, mọi người phải chịu cảnh không có cơm ăn trong nhiều ngày, nên rất nhiều người bị chết đói. Ăn điều độ ở đây là không nên ăn nhiều, cũng đừng nên ăn ít. “Ồ! Tôi sẽ tuyệt thực rồi, tuyệt thực trong một tuần.” Đến ngày thứ sáu thì không chịu nổi nữa, rồi ăn dồn ăn dập khiến bụng không còn chỗ nào để chứa, phải dọn đến khu nhà mới (tỷ trí khu) (ý Hòa thượng dạy ở đây là đi vệ sinh) (tỷ trí khu là tiếng Quảng Đông, chỉ cho khu nhà gỗ, khu tái định cư – từ dùng trong những thập niên 50 – 60; về sau bãi bỏ hình thức này, thành lập “chính phủ liêm tô ốc” (nhà chính phủ cho mướn với giá rẻ)]. Hương Cảng có khu tái định cư, cán bộ quản lý ở đây rất bận. “Tỷ trí” tức là dời nhà, chính phủ giao trách nhiệm dời nhà cho những cán bộ này. Quý vị ăn quá no sẽ phải làm công việc “dời nhà”; cũng như cán bộ quản lý của khu tái định cư bận rộn suốt cả ngày, ban đêm còn phải tiếp tục làm việc; ăn uống không điều độ cũng giống như thế. Do vậy, quý vị đừng nên quá tiết chế việc ăn uống; cũng không nên tùy tiện, ăn uống quá nhiều.
(b). Điều hòa ngủ. Trong cuộc sống hằng ngày của con người chỉ có hai vấn đề là ăn và ngủ. Quý vị phải biết điều độ, nếu không sẽ dễ sanh bệnh. Vì vậy, ăn uống cần phải “không đói, không no” (bất cơ, bất bão), quý vị không nên để quá đói, cũng đừng để quá no. Nếu đói quá, thì không thể tu nhẫn; bằng như no quá, cũng không thể tu nhẫn, cái bụng nhẫn không nổi. Còn về ngủ, cần phải “không tiết chế, không phóng túng” (bất tiết, bất tứ); không nên ngủ quá nhiều, cũng không nên ngủ quá ít. Quá ít là nghỉ ngơi không đủ; quá nhiều là nghỉ ngơi vượt quá mức cần thiết, cả hai đều không được.
(c). Điều hòa thân. Thân này, không nên để nó quá nhàn rỗi, cũng không nên bắt nó làm việc quá sức, nên “không thả lỏng, không thúc ép” (bất khoan, bất cấp). Tinh thần của chúng ta có thể ứng phó được bao nhiêu thì làm bấy nhiêu công việc; bởi vì bản thân của quý vị cần phải có một chút cống hiến cho cuộc đời này, tức là phải làm một chút công việc gì đó.
(d). Điều hòa hơi thở. Hơi thở tức thở ra hít vào; hơi thở cần phải “không rít, không trơn” (bất sáp, bất hoạt). Rít, tức thở quá chậm; trơn, tức thở quá nhanh. Hít thở quá nhanh hoặc quá chậm đều không phù hợp với phương pháp dưỡng sinh.
(e). Điều hòa tâm. Quý vị có thể “điều hòa ăn, điều hòa ngủ, điều hòa thân, điều hòa thở” được đều do tâm niệm điều hòa mà ra. Điều hòa tâm phải thế nào? Phải “không trầm, không phù” (bất trùm, bất phù). Trầm là chìm xuống; phù là nổi lên. Điều hòa tâm là phải làm cho tâm không quá hôn trầm, cũng không quá xốc nổi, giữ tâm luôn ở trạng thái an tịnh.
Đó gọi là “điều ngũ sự”. Tu nhiếp tâm mình chính là phải “quở ngũ dục, bỏ ngũ cái, điều ngũ sự”, đây là phương pháp tu nhiếp tâm.
“Này Văn-thù-sư-lợi! Đó gọi là “chỗ thân cận” đầu tiên”: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni gọi một tiếng “Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi!” Và bảo, ông nên làm được điều đó, vì đấy là chỗ thân cận đầu tiên của Bồ-tát.
[1] “Hành diệc thiền, tọa diệc thiền, ngữ mặc động tĩnh thể an nhiên” (“Chứng Đạo Ca” ).
[2] “Mộng lý minh minh hữu lục thú
Giác hậu không không vô đại thiên”
“Chứng Đạo Ca” của Đại sư Vĩnh Gia Huyền Giác.
K3. THÂN CẬN XỨ LÀ KHÔNG LÌA XA KHÔNG GẦN GŨI (phi viễn phi cận)
Lại nữa, Đại Bồ-tát quán tất cả pháp là “không”, như thật tướng, chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thoái, chẳng chuyển, như hư không, tánh vô sở hữu. Tất cả ngôn ngữ đều dứt bặt, chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh, không tướng, không thật có, vô lượng, vô biên, không ngại, không chướng, chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sanh. Nên nói: Thường ưa quán pháp tướng như thế, đó gọi là “chỗ thân cận” thứ hai của Đại Bồ-tát.
Phục thứ, Bồ-tát Ma-ha-tát quán nhất thiết pháp không, như thực tướng, bất điên đảo, bất động, bất thối, bất chuyển, như hư không, vô sở hữu tính. Nhất thiết ngữ ngôn đạo đoạn, bất sanh, bất xuất, bất khởi, vô danh, vô tướng, thực vô sở hữu, vô lượng, vô biên, vô ngại, vô chướng, đãn dĩ nhân duyên hữu, tùng điên đảo sinh. Cố thuyết: thường lạc quán như thị pháp tướng, thị danh Bồ-tát Ma-ha-tát đệ nhị thân cận xứ.
Lại nữa: tức nói lại lần nữa. Lặp lại một lần nữa ý ở trên, Đại Bồ-tát quán tất cả pháp là “không”: Đại Bồ-tát tu Bồ-tát đạo, quán tất cả các pháp là “không”. Quán, tức trí huệ năng quán (chủ thể quán); tất cả pháp “không”: đây là cảnh sở quán (đối tượng bị quán). Quán cảnh giới gì? Sao lại gọi “tất cả”? Ý nói Đại Bồ-tát này phải quán tất cả cảnh giới của mười pháp giới – mười pháp giới này, không ngoài một ý niệm hiện tiền của tâm (thập pháp giới bất xuất hiện tiền nhất niệm tâm); từ một niệm của tâm sanh ra mười pháp giới. Trong mười pháp giới, có “pháp giới tứ thánh”, và “pháp giới lục phàm”.
(1). Trước tiên, chúng ta nói đến pháp giới cao nhất, “pháp giới Phật”. Làm thế nào để được thành Phật? Chính là vì quý vị tự giác, giác tha, hạnh giác viên mãn mà được thành Phật. Sao gọi là “tự giác”? Tự giác tức là tự mình khai ngộ, hiểu rõ tất cả pháp. Tự mình đã hiểu rõ tất cả pháp, nhận thấy lý ấy vi diệu, không thể nghĩ bàn, vì vậy sẵn lòng nói cho người khác biết về đạo lý vi diệu, không thể nghĩ bàn này, đây gọi là “giác tha”. Tự giác đã viên mãn, giác tha cũng viên mãn, đây gọi là “hạnh giác viên mãn”; hạnh giác viên mãn chính là Phật. Phật chính là bậc Đại giác, không việc gì mà không rõ; nên nói: “Biết những gì người khác không biết, Ngộ những gì người khác không ngộ”, nên được tôn xưng là “Đại Giác Thế Tôn”. Mọi người trong thế gian và vượt ngoài thế gian đều sùng bái Phật, đây là pháp giới Phật; “pháp giới Phật” cũng không nằm ngoài một niệm hiện tiền trong tâm quý vị.
(2). Pháp giới Bồ-tát. Bồ-tát không dễ làm, việc các Ngài làm đều tự lợi, lợi tha, tự giác, giác tha; nhưng các vị ấy chưa viên mãn hạnh giác, chỉ có Phật mới viên mãn hạnh giác. Bồ-tát hành Lục độ vạn hạnh, tu hành bố thí, xả đầu mắt tủy não, đất nước vợ con, nội tài, ngoại tài. Sao gọi là “ngoại tài”? Tức tất cả những vật chất quý báu ngoài thân; sao gọi là “nội tài”? Tức đầu mắt tủy não, những thứ nằm bên trong cơ thể. Tất cả những thứ ấy đều xả bỏ.
Bố thí chia làm ba loại: thí tài sản, thí pháp và thí vô úy. Nội tài và ngoại tài nói ở trên chính là thí tài sản. Thí pháp, tức các vị đã học hiểu Phật pháp, gặp người khác bèn thuyết giảng Phật pháp cho họ nghe, đây là bố thí pháp. Thí tài là cứu giúp thân mạng của người, thí pháp là cứu giúp huệ mạng của người. Thí vô úy, tức khi người này đang khốn khổ, gian nan, sợ hãi thì các vị có thể an ủi họ, khiến cho tâm họ không còn sợ hãi.
Đã thế, còn phải trì giới, các vị ấy nghiêm trì giới luật, không làm các điều ác, vâng làm các điều lành; lại tu nhẫn nhục, tu tinh tấn, ngày đêm sáu thời luôn tinh tấn; các vị ấy cũng tu thiền định, lại tu trí huệ. Bởi vì các vị Bồ-tát tu Lục độ vạn hạnh, tự lợi lợi tha – lợi mình, lợi người, đây gọi là “pháp giới của Bồ-tát”. Pháp giới của Bồ-tát cũng không ra khỏi một niệm hiện tiền của tâm, cũng đều ở trong tâm cả; khi tâm quý vị có ý muốn hành đạo Bồ-tát thì thân quý vị liền hành đạo Bồ-tát, tương lai quý vị sẽ là Bồ-tát.
(3). Pháp giới Duyên giác. Duyên giác, là những vị do tu “Mười hai nhân duyên” mà ngộ đạo. Mười hai nhân duyên gồm: vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử. Duyên giác lại chia thành hai loại: người ra đời gặp Phật, tu mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, gọi là “Duyên giác”; người ra đời không gặp Phật, tự tu mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, gọi là “Độc giác”.
Độc giác là bậc chỉ làm lợi cho bản thân, không sẵn lòng làm lợi cho thiên hạ. Sao gọi là chỉ làm điều tốt cho bản thân? Các vị ấy cho rằng thế giới này là xấu xa, mọi người đều xấu xa, vì không muốn nhiễm sự xấu xa, muốn tu hành, nên đã xa lánh cuộc đời, tách rời hẳn những người ở thế gian. Họ một mình chạy đến núi sâu hang thẳm, ở chốn A-lan-nhã tu hành, trong suốt nhiều năm không hề gặp một bóng người lai vãng, chỉ “xuân nhìn trăm hoa nở, thu thấy lá vàng rơi”. Vào mùa xuân, nhìn thấy trăm hoa đua nở, những vị này cảm ngộ nói: “Ồ! Đây mới thật là diệu, không thể diễn tả bằng lời, hoa cũng đã nở rồi!”. Mùa thu đến, họ nhìn thấy lá trên cây rơi xuống mặt đất, nhìn lại cây, mùa xuân thì cành lá xanh tươi, nở hoa kết trái; khi mùa thu về, lá rụng tả tơi, họ cũng cho đấy là lý rất vi diệu. Nó tự sanh, tự diệt, đó là hình ảnh của vô thường; vì cảm nhận được sự vô thường của vạn vật, họ bèn tìm đến cái thường hằng.
Vậy cái gì là “thường hằng”? Họ liền nghĩ đến mười hai nhân duyên. Bước đầu, họ nghiên cứu “vô minh”; vô minh cũng chính là tên khác của phiền não. Quý vị không thấu hiểu (minh bạch), thì sẽ sanh phiền não; khi phiền não sanh, quý vị liền muốn làm, muốn thực hành; thực hành rồi, sau đó liền có thức – có hành vi, thì sẽ có ra một cái bóng, bóng này chính là “thức”, cũng chính là “chủng tử”. “Vô minh” này cũng chính là thứ “tình” không trong sáng (thanh tịnh) giữa nam nữ; đã có thứ tình không trong sáng này, liền có hành vi – dẫn đến có hành vi tình dục. Khi có hành vi tình dục, sau đó liền có thức, có chủng tử; sau khi có chủng tử, liền có danh sắc, tức có tên gọi là “(bào) thai”. Đã có danh sắc, tiếp theo sau sẽ có lục nhập; lục nhập chính là sanh ra mắt tai mũi lưỡi thân ý. Đã có lục nhập, liền có xúc – có cảm giác, có tiếp xúc. Khi tiếp xúc, sẽ có cảmthọ (feeling), từ đó sẽ sanh ra một thứ tâm ái; khi tâm ái sanh, liền muốn chiếm đoạt để sở hữu riêng (thủ). Vì có tâm sở hữu, nên lại có quá trình tái sanh ở kiếp sau; có sanh thì phải có tử. Đây là mười hai nhân duyên.
Các vị Duyên Giác tu mười hai nhân duyên này, nghiên cứu vấn đề này, vỡ lẽ ra: A! Vô minh diệt thì hành cũng sẽ diệt; hành diệt, thức cũng sẽ không có; không có thức, danh sắc cũng sẽ không; danh sắc không, tự nhiên lục nhập cũng không; mà không có lục nhập, tức quý vị không có thân; thân không có thì làm gì có xúc; mà đã không có xúc thì sẽ không có thọ; không có cảm thọ thì không sanh ra ái; ái không sanh, thì không muốn chiếm đoạt, không chiếm đoạt thì không có sở hữu; không sở hữu, thì sẽ không có sanh; đã không sanh, thì làm gì có già chết! Các ngài nghiềm ngẫm đi, rồi nghiền ngẫm lại mười hai nhân duyên, cuối cùng được khai ngộ; vì vậy gọi đó là hàng Duyên giác, còn gọi là Bồ-tát Duyên giác, tức Bồ-tát mới phát tâm.
(4). Pháp giới Thanh văn. Thanh văn, là những vị tu “Tứ đế” mà ngộ đạo; Tứ đế chính là “Khổ, Tập, Diệt, Đạo”. Về khổ, có ba khổ, tám khổ cho đến vô lượng các khổ.
Ba khổ, là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Khổ khổ, tức khổ trong cái khổ, nghĩa là đã nghèo cùng lại còn khốn khổ; nghèo cùng là không có cơm ăn, không có quần áo mặc, cũng không có nhà để ở. Có một căn nhà nhỏ, lại bị lửa thiêu rụi; vừa mới dựng lại, thì lại bị nước lũ cuốn phăng, đấy gọi là khổ khổ. Hoại khổ, tức người giàu sang, không có cái khổ của hạng nghèo cùng, nhưng sự giàu sang của họ không lâu dài, hoặc có khi bị hỏa hoạn khiến phải trắng tay, hoặc bị trộm cướp lấy sạch tiền của. Hành khổ, tức từ nhỏ đến tráng niên, từ tráng niên đến già, từ già đến chết, niệm niệm biến đổi, niệm niệm không dừng, từ trẻ con thay đổi thành người lớn, từ người lớn biến đổi thành người già, từ người già biến đổi thành người chết; sự biến đổi không dừng như thế cũng là một cái khổ.
Tám khổ, tức sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Khi sanh ra đời, chúng ta rất đau đớn; khi già đi, cũng rất đau khổ; bị bệnh lại càng khổ hơn, đến khi chết thì càng khổ hơn nữa.
Xưa kia, có ba người bạn già cùng ngồi uống rượu với nhau rất hào hứng; trong đó, một người tuổi ngoài sáu mươi, một người ngoài bảy mươi, và người còn lại đã ngoài tám mươi tuổi. Người nhỏ tuổi nhất trong số họ, nhìn hai người bạn già và ước chừng: “Hai người họ đã già thế này, chắc sắp chết rồi đây!”, vì vậy ông ta liền ngâm nga: “Năm nay tiệc rượu tưng bừng uống, chẳng biết sang năm thiếu những ai?”, ý là năm nay ba người chúng ta cùng uống rượu ở đây, nhưng qua năm sau, không biết người nào trong số chúng ta sẽ chết đây? Nghe thế, người ngoài bảy mươi tuổi đáp: “Chao ôi! Ông bạn nói chi mà xa xôi thế!”, “Vậy ông cho là thế nào?”, “Tôi cho là, hôm nay còn cởi giày cùng vớ, chẳng biết ngày mai còn cởi không!” tức không biết ngày mai có còn được mang giày và vớ nữa không. Ông lão ngoài tám mươi tuổi liền nói: “Ồ! Ông anh vẫn còn nói chuyện quá xa!”, nghe vậy, cả hai người kia đồng loạt hỏi:
“Ông cho rằng nói thế vẫn còn xa, vậy ông anh nói thế nào?”. Ông lão ngoài tám mươi liền nói: “Ôi chao! Tôi nói thế nào à? Hơi tôi vừa thở ra, không biết có còn hít vào nữa không!”, tức sanh tử không nói đến tình nghĩa, nó chẳng một chút khách sáo với quý vị, khi hơi thở quý vị đưa ra, không biết rồi có còn hít vào được nữa không! Đây là “chết khổ”.
Người xưa từng bảo: “Lão tăng tự có pháp an tâm, tám khổ khởi lên cũng chẳng nhằm” (Lão tăng tự hữu an tâm pháp, bát khổ giao tiên diệc bất phương), lão tăng này nói, ta có một phương pháp an tâm, dù cho tám khổ tiếp nối nhau ta cũng không sợ, chẳng hề gì, không có gì quan trọng cả. Vì vậy, đối với khổ, nếu quý vị có định lực thì khổ cũng biến thành vui; bằng không có định lực, thì vui cũng sẽ biến thành khổ.
Thanh văn tu pháp Tứ đế, đầu tiên là biết Khổ. Thứ hai là đoạn Tập, tập là phiền não; phiền não có rất nhiều loại, được chia thành ba nhóm: đại, trung và tiểu phiền não, nếu nói chi tiết thì rất dài. Thứ ba là ngưỡng mộ Diệt, diệt tức tịch diệt, tức chứng đắc Niết-bàn. Thứ tư là tu Đạo[1]. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni khi vừa thành đạo, Ngài đã nói pháp Tứ đế – ba lần chuyển pháp luân Tứ đế, độ năm Tỳ-kheo; năm vị này vừa nghe pháp Tứ đế xong liền khai ngộ.
Thanh văn và Duyên giác là hai bậc thánh của hàng Nhị thừa, hợp chung với “Phật, Bồ-tát”, gọi là “pháp giới Tứ thánh”. Còn có “pháp giới lục phàm”, chính là: trời, a-tu-la, người, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục.
(5). Pháp giới Trời. Trong pháp giới lục phàm, hàng cao nhất là “trời”, người không hiểu Phật pháp, cho rằng sanh về thiên đường ở nước trời là tuyệt nhất, sung sướng nhất; thật ra, cõi trời này còn nằm trong phạm vi của pháp giới lục phàm, chưa thoát khỏi luân hồi, vẫn còn trong vòng luân hồi nơi sáu nẻo. Người cõi trời tuổi thọ rất dài, người ở cõi “trời Phi phi tưởng xứ” thọ đến tám mươi nghìn đại kiếp; sau khi tuổi thọ hết, họ vẫn phải bị đọa lạc, vẫn phải trở lại nhân gian. Khi nghiệp thiện chín mùi, thì chuyển sanh vào đường lành; khi nghiệp ác chín mùi, thì phải chuyển sanh vào đường ác. Trời cũng có nhiều cõi.
(6). Pháp giới A-tu-la. A-tu-la là âm Phạn (Asura), Trung Hoa dịch là “Vô đoan chánh”, tức dung mạo của loài này vốn rất xấu xí; còn gọi là “Vô tửu”. Tuy dung mạo của a-tu-la vốn dĩ xấu xí, thế nhưng dung mạo của a-tu-la nữ thì lại rất đẹp. A-tu-la chính là “đấu tranh kiên cố”[2], thích đấu tranh, thích chiến đấu; vì vậy, trong các cõi: trời, người, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục đều có mặt của a-tu-la. Hạng a-tu-la này, ở đâu cũng đều có mặt, vì vậy có khi kể hạng này trong “ba đường lành”, cũng có khi liệt chúng vào trong “bốn nẻo ác”. Cõi trời, người, a-tu-la thuộc ba đường lành; cảnh giới súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục thuộc về “ba đường ác”; hoặc cảnh giới a-tu-la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, gọi chung là bốn nẻo ác.
(7). Pháp giới người. Chỉ nghiên cứu ngay nơi chúng ta mà nói, quý vị cho rằng con người có bao nhiêu chủng loại? Ngoài các nhân vật chính trị như Tổng thống, Quốc vụ khanh, Bộ trưởng ngoại giao, còn có những nhân vật rất giàu có, xem như đại phú ông bậc nhất bậc nhì trên thế giới; thế còn những người nghèo? Ngay cả một mảnh đất cắm dùi cũng không có. Có người thì quá xấu xí, ai nhìn thấy cũng phải ghét bỏ; nhưng cũng có người lại quá đẹp, vừa nhìn thấy là mọi người đều yêu thích ngay. Có người rất kỳ quái, lại có người quá mập, nặng đến một-hai nghìn pounds, đến nỗi qua không lọt khung cửa nhà, thậm chí ngay cả cửa lên xuống trên xe bus, anh ta cũng không vào lọt; nếu như anh ta muốn đi du lịch ở nơi nào đó, thì phải chế tạo riêng một chiếc xe bus đặc biệt, hoặc một chiếc máy bay đặc biệt để phù hợp với vóc dáng to lớn như thế của anh ta. Cũng lại có người quá gầy, gầy đét không có đến một chút thịt, giống như que củi vậy.
Quý vị hỏi: vì nhân duyên gì mà có ra những tình trạng phú quý, nghèo hèn, ốm mập, cao thấp, đẹp xấu sai biệt như vậy? Bây giờ tôi chỉ nói bao quát: người gieo nhân phú thì được hưởng quả báo phú; gieo nhân quý thì được hưởng quả báo quý; quý vị gieo nhân bần thì nhận lãnh quả báo bần. Tất cả đều do trồng nhân mà ra quả, giống như người mập, đại khái họ nghĩ: “Ồ! Tôi rất thích mập!” chính là họ đã trồng nhân mập, thì nay phải nhận lãnh quả mập, còn ú hơn cả chú lợn ú. Chỉ trong cõi người, đã có vô số hình dáng, không ai giống ai cả.
(8). Pháp giới súc sanh. Thế quý vị bảo súc sanh có bao nhiêu chủng loại? Quả là đếm không hết.
(9). Pháp giới ngạ quỷ. Ngạ quỷ cũng vậy, cũng có rất nhiều chủng loại, chứ không phải chỉ có một hay hai loại quỷ mà thôi.
(10). Pháp giới địa ngục. Địa ngục cũng có rất nhiều loại.
“Pháp giới lục phàm” cộng thêm “pháp giới tứ thánh”, được gọi là “mười pháp giới”. Thế mười pháp giới từ đâu mà có? Đều từ một niệm hiện tiền trong tâm của chúng ta. Hàng ngày, nếu quý vị cáu giận, đấy gọi là “lửa vô minh, thần khí cọp, đây là gốc tội chướng của đời trước” (vô minh hỏa, lão hổ thần, giá thị tiền sanh tội nghiệt căn). Khi quý vị giận dữ thì chẳng khác nào cọp; quý vị phát ra lửa giận dữ thì sẽ đến cảnh giới của a-tu-la. Nếu tâm quý vị đầy dẫy tham, sân, si thì sẽ bị đọa vào trong ba đường ác “địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh”. Nếu quý vị mong muốn tu Tứ đế – Khổ, Tập, Diệt, Đạo thì sẽ đến pháp giới của hàng Nhị thừa. Nếu quý vị mong muốn tu Bồ-tát đạo, thành Phật thì quý vị phát tâm Bồ-đề, tu Lục độ vạn hạnh, tương lai quý vị sẽ thành Phật. Vì vậy nói:
“Nếu ai muốn hiểu rõ
Chư Phật trong ba đời
Nên quán pháp giới tánh
Tất cả do tâm tạo”
Nhược nhân dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhất thiết duy tâm tạo.
Người nào muốn hiểu rõ tất cả chư Phật trong ba đời, tức tất cả các Đức Phật ở đời quá khứ, đời hiện tại và đời vị lai, thì nên quán xét nhân duyên của “mười pháp giới”, tánh của các pháp giới này đều được tạo thành từ trong tâm của quý vị. Vì vậy, tôi thường thích giảng về chữ “tâm” này:
Ba chấm tợ sao giăng
Uốn cong như trăng liềm
Mang lông từ đây có
Thành Phật cũng do đây
Tam điểm như tinh bố
Loan câu tự nguyệt nha
Bì mao tùng thử khởi
Tác Phật diệc do tha.
Ba chấm giống như các ngôi sao bày bố, quý vị viết chữ “tâm” (心) có hình dạng uốn cong hình lưỡi câu, giống y như trăng lưỡi liềm. Mang lông, tức là làm súc sanh; làm súc sanh cũng khởi đầu từ nơi tâm này mà ra; quý vị muốn tu hành thành Phật, cũng không ngoài nơi tâm này. Vì vậy, nói mười pháp giới không lìa một niệm hiện tiền trong tâm của tôi và của quý vị. Tâm của quý vị ở nước Phật, tương lai quý vị sẽ đến được nước Phật; nếu tâm quý vị duyên nơi địa ngục, tương lai quý vị sẽ đọa địa ngục; tất cả đều do tâm tạo, không sai chạy mảy may.
Như thật tướng: thật tướng, chính là cội gốc của tất cả tướng; cội gốc của tất cả tướng chính là vô tướng. Nếu từ nơi hữu tướng mà tìm, thì quý vị sẽ không tìm ra được cội gốc của “tướng”; nếu từ trên vô tướng mà tìm, thì quý vị sẽ tìm được cội gốc của “tướng”.
Bồ-tát quán thấy tất cả pháp đều là không, như thật tướng. Quán thấy mười pháp giới đều là “không”, cảnh giới đều là “không” thì giống như gì nào? Tức giống“như thật tướng”. Không tuy là “rỗng không”, nhưng trong cái không lại có cái “hữu” – trong “Chơn Không” sanh xuất “Diệu Hữu”. Vì vậy mới nói: “Chơn Không bất không, chẳng ngại Diệu Hữu; Diệu Hữu phi hữu, chẳng ngại Chơn Không”, Chơn Không chẳng phải không ngơ, mà từ đó sanh ra Diệu Hữu; Diệu Hữu cũng chẳng phải thật hữu, vì nó cũng chính là Chơn Không.
“Chơn Không” cũng chính là tên khác của “thật tướng”. Thật tướng chính là cội rễ của tất cả tướng; cội rễ của tất cả tướng chính là vô tướng. Nếu từ nơi “hữu tướng”, quý vị sẽ không thể tìm ra cội rễ của “tướng”; nếu từ trên vô tướng, quý vị sẽ tìm được cội rễ của “tướng”. Vì vậy, khi quý vị quán tất cả pháp “như thật tướng”, thì trong không tham, ngoài không cầu; quý vị không tìm kiếm ở bên ngoài, cũng không tìm cầu ở bên trong, trong ngoài đều không! Nội không, tức sáu căn “mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý”; ngoại không, tức sáu trần “sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp”, khoảng giữa không, tức sáu thức, “nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức”. Quán sáu căn cũng không, sau đó lại không cả sáu trần, và không cả sáu thức. Quán “mười hai xứ” đều không, “mười tám giới” cũng đều không. “Quán tất cả các pháp không tướng(Tâm Kinh, Kinh Kim Cang)” tất cả pháp đều không, nhưng không là không cái gì? Chẳng phải là không có, mà là “như thật tướng”; vì vậy, sự vi diệu không thể nghĩ bàn là chính tại chỗ này.
Thế thì mỗi ngày tham thiền, tĩnh tọa để làm gì? Đây là “như thật tướng”. Vì quý vị không hiểu ý nghĩa của “thật tướng” nên không hiểu (bất giác), không biết (bất tri); bây giờ tôi nói cho quý vị biết: tham thiền, tĩnh tọa chính là “như thật tướng”! Khi quý vị tham thiền, bên trong sáu căn rỗng không, bên ngoài sáu trần rỗng không, khoảng giữa sáu thức rỗng không; sáu căn, sáu trần, sáu thức đều rỗng không, mười tám giới đều rỗng không, tức đến được Vô sở hữu xứ[3], đến tầng trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ - không phải nói linh hồn của chúng ta xuất ra, lên trên trời, đến tầng trời Phi phi tưởng xứ; mà ngay khi quý vị vô sở hữu (“không có gì cả”), đó chính là cõi trời Phi phi tưởng xứ[4]. Không cần phải lên trên mới là tầng trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ, mà ngay nơi này, nếu quý vị có thể “như thật tướng”, tức là đã ở cảnh giới Phi phi tưởng xứ thiên rồi.
Tu đạo, phải có sự bền lòng (hằng tâm), phải có tâm thành (thành tâm), lại phải có tâm kiên cố (kiên cố tâm). Tâm kiên cố giống như gì nào? Giống mũi khoan kim cương; quý vị không cách nào phá vỡ nó được, nhưng nó có thể phá vỡ được tất cả mọi vật. Tôi học Phật pháp, bất luận gặp cảnh giới gì, tôi cũng nhất định học Phật pháp, không gì có thể thay đổi được tư tưởng của tôi, nhất định phải vững chắc. Lập chí phải vững chắc, ở trong bất cứ cảnh ngộ nào, tôi cũng nhất định phải học Phật pháp; bất luận gặp ma chướng gì, tôi cũng phải học Phật pháp. Tôi tuyệt đối phải có tâm kiên cố, tâm chân thật để học Phật pháp! Bởi vì trong nhiều đời nhiều kiếp, nếu chúng ta không từng làm ngựa thì làm trâu, không làm trâu thì làm chó, cũng có khi làm cả chuột; thậm chí nói đến những thứ nhơ uế, chúng ta có thể đã từng làm con giòi trong bãi phân. Đừng nói chi đến giòi trong bãi phân, mỗi người chúng ta nếu quay lại quán sát tự thân, xem bãi phân trong bụng mình, mỗi người đều không biết là có bao nhiêu côn trùng trong người? Giống như chim Bồ câu, quý vị thấy nó là chim Bồ câu, nhưng trên thân nó có rất nhiều côn trùng đang cắn rút; bản thân nó có lúc biết, có lúc không biết. Chúng ta cũng vậy, bên trong lớp da của chúng ta, không biết có bao nhiêu vi khuẩn, bao nhiêu vi trùng? Tức không biết có bao nhiêu chúng sanh ở trong cơ thể chúng ta?
Vì vậy nói “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, chưa nói đến chúng sanh vô biên ở bên ngoài, chỉ tính bên trong cơ thể chúng ta, quý vị nói xem có bao nhiêu chúng sanh? Quý vị có thể đếm hết không? Những chúng sanh này, nếu quý vị độ chúng không được, chúng sẽ độ ngược lại quý vị! Độ thế nào? Quý vị đi theo chúng, quý vị từ một con trùng lớn lại biến thành một con trùng nhỏ. Tính linh của loài trùng nhỏ rất kém, vì vậy chúng rất ngu xuẩn, đần độn, chỉ biết ăn đồ của người ta, chỉ biết xin của người ta chứ không biết bố thí. Quý vị cũng biến ra như nó, vì vậy mà uống máu người, ăn thịt người; ở trong bụng, người ta ăn vào chút thức ăn ngon, thì chúng chiếm đoạt trước, và cho vậy là ưu thế; trên thực tế, đấy chính là do tâm san tham tạo thành.
Vậy thì muốn độ chúng, quý vị phải làm thế nào đây? Phải làm cho tự tánh của quý vị ngày một nhiều ánh nắng, đầy dương khí; đây cũng có thể nói là ánh nắng mặt trời, ánh nắng mặt trời chứa tia tử ngoại, có thể giết phần lớn vi khuẩn. Hiện nay nói đến việc dùng quang học để diệt vi khuẩn, các bác sĩ đều mượn tia tử ngoại để diệt vi khuẩn; nếu quý vị có thể dùng ánh nắng của chính mình làm lợi khí, thì có thể diệt hết những vi khuẩn trong cơ thể. Như thế có phạm giới không? Quý vị nghĩ như vậy là quá thông minh rồi! Giống như có người muốn thọ giới Bồ-tát, đến hỏi tôi: “Ồ! Nếu thọ giới Bồ-tát, khi chạy xe trên đường, tôi cán chết rất nhiều côn trùng, vậy có phạm giới không?”. Vị này nghĩ rất chu đáo, nhưng anh ta không nghĩ một khi mình nổi cơn tức giận, còn nguy hại hơn cả việc giết chết chúng sanh! Anh ta quên việc này lại nhớ đến việc kia. Tôi đã bảo anh ta: “Đây là lỗi vô tâm, anh đâu muốn giết chúng. Trong hoàn cảnh như vậy, gặp nhân duyên như vậy, chứ không phải anh cố tình giết chết chúng. Anh có thể vừa chạy xe, vừa niệm: ‘ Nam mô A-di-đà Phật’, để hồi hướng cho những chúng sanh bị anh giết, bởi vì không phải anh thích giết chúng. Nhưng nếu như anh biết rõ mà cố phạm, hay anh thích giết chúng, thì là có lỗi rồi.”
Giống như trước kia, tôi biết có một người làm quân nhân, về sau học Phật pháp, rồi quy y Tam Bảo; sau đó; thấy người khác xuất gia rất tốt, anh ta cũng xuất gia. Sau khi xuất gia, anh ta chuyên niệm Phật – trước kia khi chưa xuất gia, anh ta cũng niệm Phật, lại còn ăn chay, không sát sanh. Sau khi xuất gia, anh ta thọ giới tại chùa Nam Hoa, là đệ tử thế hệ thứ hai của Hòa Thượng Hư Vân, với pháp danh là Hoằng Huy, rất có tài ăn nói. Về sau, khi đảng cộng sản kéo đến, anh ta không ở Giang Tây được nữa, nên đã chạy đến Hương Cảng. Tình hình ở Hương Cảng rất phức tạp; khi ấy, tại Hương Cảng có rất nhiều tu sĩ xuất gia không có nơi cư trú; không như hiện nay, mỗi một tu sĩ ở Hương Cảng đều ở cao ốc. Lúc bấy giờ, đừng nói chi đến cao ốc, mà ngay cả một căn lều tranh lụp xụp còn không có; tại Đông Phổ Đà, chúng Tăng phải ở những căn phòng trên gác xép gỗ. Vị này cũng được ở một căn phòng như vậy, nhưng vì không có tiền nên sống không quen; có lẽ vì trước kia, anh ta đã quen tiêu rất nhiều tiền trong một khoảng thời gian rất dài, nay trong tay không có tiền nên cảm thấy gay go.
Lúc đó, Hương Cảng có Trung tâm Đạo Phong Sơn (ở Sa Điền, Tân Giới); thế nơi này sẵn sàng làm gì? Nơi đây chuyên giúp chư Tăng Ni hoàn tục. Nếu vị nào không muốn ở trong Phật giáo nữa thì có thể đến đó, mỗi tháng sẽ được cấp cho ba mươi hoặc năm mươi đồng, hoặc có thể đến hai trăm đồng. Ở đó, nếu quý vị sẵn lòng làm tu sĩ cũng tốt, sẵn lòng ăn chay cũng tốt; nếu không muốn ăn chay, thì cũng có thịt cho quý vị dùng. Quý vị muốn làm Tăng thì làm, bằng như không muốn thì họ sẽ cưới cho quý vị một cô vợ. Thế còn Tỳ-kheo-ni? Cũng vậy thôi. Quý vị muốn làm Tỳ-kheo-ni thì sống ở đó, làm Tỳ-kheo-ni; còn như không thích thì làm người tại gia; nếu muốn kết hôn, thì họ sẽ tìm cho quý vị một ông chồng, có thể ông chồng là một trong những ông tăng hoàn tục. Như thế đấy, nơi đó rất phương tiện – pháp môn phương tiện; nói là thời thế bây giờ thì phải như thế, nên tin Thiên chúa, chớ nên tin Phật. Người ở đó bảo: “Chúng tôi ở đây cũng đọc kinh Phật, cũng công phu sáng chiều.” Quý vị xem! Kỳ thật chính là “Treo đầu dê bán thịt chó”, làm như vậy để phá hoại Phật giáo – treo đầu con dê thì đáng lý phải bán thịt dê, thế nhưng họ không bán thịt dê mà lại bán thịt chó.
Khi ấy, Hoằng Huy không có tiền tiêu, nghe nói nơi đó có thể kiếm được ba trăm đồng mỗi tháng, làm việc gì à? Làm đầu bếp nấu ăn. Thế nhưng không phải nấu thức ăn chay mà là nấu thịt; mỗi ngày đều phải giết gà, giết vịt, giết cá. Anh ta bảo như vậy cũng không sao, khi dùng dao cắt cổ gà, anh ta sẽ niệm: “ Nam mô A-di-đà Phật, vãng sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây! Nam mô A-di-đà Phật, vãng sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây!”. Cứ thế, một ngày anh ta giết rất nhiều gà. Anh ta nhắm tịt mắt không dám nhìn; “Ta niệm Phật cho ngươi!” cho là làm như vậy, ta sẽ giúp ngươi vãng sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây; và cứ niệm Phật một câu, giết một con gà; tôi nghĩ rằng có thể anh ta đã giết khoảng ba trăm sáu mươi con gà.
Vậy thì thế nào? Thì anh ta phải lãnh chịu quả báo thôi! Bỗng dưng anh ta phát bệnh tâm thần, không thể ở nơi đó được nữa, anh ta lại quay về Đông Phổ Đà, nơi “không có tiền” mà ở – từ sáng đến tối, anh ta cứ lảm nhảm: “Các vị xem coi gà tôi giết đã đến thế giới Cực Lạc chưa?”, “Các vị xem coi con vịt có phải đến thế giới Cực Lạc không? Hay lại đầu thai làm gà? Không biết sau này chúng có giết tôi không?...”, cứ như vậy mà lảm nhảm suốt cả ngày.
Anh ta muốn gặp tôi, vì sao? Vì anh ta biết bệnh của mình, nếu gặp được tôi thì sẽ khỏi, nhưng lại không cách nào có cơ hội để gặp tôi. Tại sao anh ta biết gặp được tôi thì sẽ khỏi bệnh? Vì trước đó, cũng có mấy người bị bệnh y như vậy, anh ta đã dẫn đến gặp tôi, và họ đều khỏi hẳn; bây giờ đến lượt mình, mỗi khi tỉnh táo, anh ta nói: “Tôi muốn đến gặp Pháp sư An Từ, quý vị có ai giúp dùm, cùng đi với tôi đến gặp Ngài không?”. Nhưng anh ta vừa muốn gặp tôi, thì lại bị những con gà, con vịt do anh giết trước kia ngăn: “Không được! Nếu ông gặp được Ngài thì chúng tôi phải làm thế nào đây? Ông đã giết nhiều mạng sống đến như vậy, ông biết rõ mà vẫn cố phạm! Ông làm Tăng sĩ mà lại giết nhiều gà như vậy, giết nhiều vịt như vậy mà được à!”, vậy là anh ta không đến tìm tôi; kết quả là khoảng hơn nửa năm sau, anh ta dùng dao tự vẫn.
Vì vậy, tu hành không phải dễ. Tại sao anh ta phải chịu quả báo như vậy? Tôi bảo cho quý vị biết, đấy chính là đại Bồ-tát thị hiện ra như vậy để cho chúng sanh thấy – các vị xem đây này! Đã xuất gia thì không được sát sanh! Người xuất gia một khi sát sanh thì sẽ phải lãnh chịu quả báo như vậy đấy! Ngài bản thân không ngại xấu xa, xấu hổ, không sợ mà từ chối “Như vậy chẳng hay chút nào, tôi không thị hiện kiểu như vậy đâu!”. Vị ấy đã thị hiện mẫu người như vậy, giống như Đề-bà-đạt-đa; để bảo cho tất cả người tu hành biết: làm người xuất gia không được sát sanh nữa! Đây là ý thứ nhất. Đó là tôi nói theo chiều hướng tích cực, riêng tôi thì tôi không thể nói anh ta là vị Tăng xấu xa được, bởi vì tôi còn xấu hơn cả anh ta. Ý thứ hai, chính là vị ấy không có tâm kiên cố, sau khi xuất gia lại thay đổi, không biết tu hành. Vì vậy, yếu tố quan trọng hàng đầu là phải có “tâm kiên cố”.
Thứ hai, phải có sự “bền lòng” (hằng tâm). Học Phật pháp, không phải như hút thuốc phiện; không có thuốc thì lên cơn nghiện vật vờ, sau khi hút xong thì tinh thần sảng khoái, không phải như thế! Ở đây phải là “thường hằng” – hôm nay học Phật pháp, ngày mai học Phật pháp, ngày mốt cũng học Phật pháp, mỗi ngày đều phải học Phật pháp; tháng này học Phật pháp, tháng sau cũng phải học Phật pháp, mỗi tháng đều học Phật pháp; năm nay học Phật pháp, năm tới học Phật pháp, mỗi năm đều phải học Phật pháp. Phải như thế! Nếu bảo: “Vậy tôi không phải làm những việc khác à?”, thế nếu lúc cái chết đến, quý vị có thể làm được những việc khác không? Quý vị đã nghĩ đến tình huống này chưa? Quý vị có nghĩ sau này, một lúc nào đó mình phải chết không? Quý vị không học Phật pháp, một mai vô thường đến, sẽ không nắm được chút gì trong tay; khi đã học Phật pháp, đến lúc lâm chung, quý vị sẽ không gặp phải những điều không may, không có bệnh đau.
Vào khoảng tối mai, Lý Dụ Siêu sẽ đến. Ông ta đã quy y với tôi. Quý vị có biết vì sao ông ta quy y tôi không? Vì ông ta mong muốn sau khi quy y với tôi rồi sẽ được phát tài. Ông ta bảo: “Nếu phát tài, con nhất định sẽ xây một bệnh viện Phật giáo!”; sau khi quy y, ông ta lại nhờ tôi xem tướng giúp cho, lại còn muốn nhờ tôi chấm “Bát tự” dùm. Tôi bảo: “Giả như ông có tướng phát tài, thế nhưng nếu tâm ông không tốt, cũng không thể phát tài; bằng như ông không có tướng phát tài, nhưng nếu tâm ông tốt, cũng sẽ phát tài. Vì vậy, tướng này chỉ là giả, ông không nên tin vào nó!”
Sau đó, ông ta lại nhờ tôi chấm Bát tự (Bát tự hay Bát tự Hà Lạc: bói toán, tiên đoán vận mệnh dựa trên Kinh Dịch). Ông ta trông thấy sách vở của tôi, nên cho là “y thuật, bốc quẻ, chiêm tinh, tử vi, xem tướng” (y, bốc, tinh, tướng) cái gì tôi cũng biết – thật ra sách y học tôi cũng đã đọc qua; bốc quẻ, xem tướng tôi cũng đều biết; vì vậy ông ta biên trước, biên sau, nhờ tôi chấm bát tự giùm. Sau đó, gặp lại tôi, ông ta hỏi: Sư phụ chấm bát tự giùm con chưa?” Tôi đáp: “Ồ! Tờ giấy ông viết lạc mất rồi, không biết tôi đã để ở chỗ nào nữa!”. Ông ta nhanh nhẹn nói: “Không sao! Con sẽ viết lại tờ khác”, và ông ta viết lại một tờ khác. Nhưng tôi bảo: “Hiện giờ tôi rất bận, không có thời gian để làm việc này”. “Không sao, từ từ cũng được!”.
Một tháng sau, ông ta lại hỏi tôi: “Sư phụ! Ngài đã chấm bát tự cho con chưa?”. Tôi vờ hỏi lại: “Cái gì? Chấm cái gì?”. “Bát tự của con đó!”. “À! Hình như mấy vị quét dọn phòng của tôi, gom nhầm với mớ rác vụn đốt hết rồi thì phải.”. Ông ta vẫn chưa hiểu ra, lại viết thêm một tờ khác và bảo tôi chấm giúp; viết đi viết lại đến năm sáu lần mà tôi vẫn không chấm. Vì người xuất gia không thể làm những việc ấy, không được xem tướng, cũng không được chấm bát tự cho người khác; đấy đều là những việc làm của hạng giang hồ thuật sĩ, người tu hành chân chánh không nên thế.
Gần đây, ông ta bảo muốn đi New York , nên lại muốn nhờ tôi chấm bát tự giúp; đến lúc này, tôi không còn khách sáo nữa, liền bảo: “Ông đã quy y tôi, bây giờ tôi phải giáo huấn ông đây! Ông đến New York , nơi đó có rất nhiều người xuất gia, dù gặp bất cứ người xuất gia nào, ông cũng không được nhờ họ xem tướng, hay chấm bát tự. Nếu ông tướng chó, không cách gì có thể biến thành tướng cọp được; nếu tướng ông là cọp, cũng sẽ không bao giờ biến thành tướng chó. Ông xem nó làm gì! Chấm nó làm gì! Nếu như ông nghèo, tôi chấm nói ông sẽ phát tài, ông cũng không thể phát tài được; còn nếu như ông sẽ phát tài, tôi không nói, ông cũng vẫn phát tài như thường. Điều đáng nói ở đây là tại sao ông lại có thái độ như thế đối với người xuất gia? Ông làm vậy, chẳng khác nào sỉ nhục người xuất gia, không tôn trọng người xuất gia, quả là chẳng có lễ độ gì cả.”. Nghe thế, ông ta vội nói: “Ồ! Thế mà một số người trong nhóm bạn con đã nhờ những vị xuất gia xem tướng, chấm bát tự rồi đấy!” Tôi bảo: “Đấy đều là những hạng người đi đây đi đó, dùng việc bói toán kiếm sống. Người tu hành chân chính, không đề cập đến những vấn đề này.” Từ lần đó, ông ta không còn dám mở miệng nhờ tôi chấm bát tự nữa!
Ông ta nói: “Con phát nguyện muốn xây bệnh viện Phật giáo, nhưng đã mấy năm rồi, vẫn kiếm chẳng được bao nhiêu tiền, cứ đà này thì vĩnh viễn không được toại nguyện rồi!” Tôi bảo: “Nếu ông phát nguyện được thành công, thì người kia phát nguyện cũng thành công, người nọ phát nguyện cũng phải thành công, thế thì Đức Phật bận rộn ghê lắm, không có thời gian để lo đến nhiều việc không đâu như thế! Khi ông đi học, từ tiểu học mới lên đến trung học, rồi đến đại học, sau đó mới có thể đạt được học vị tiến sĩ, thế thì phải mất bao nhiêu năm? Ông muốn phát tài, chỉ mong đợi đôi ba ngày liền được toại ý chăng? Trên đời nếu có việc dễ dàng như vậy, thì mọi người đều đã phát nguyện, cũng không đến lượt ông!”. Ông ta nói: “À! Bây giờ thì con đã hơi hiểu ra rồi!”. Vâng! Đúng là đã hiểu ra một chút rồi!
Quý vị xem! Phát nguyện thì cũng phải chờ một thời gian, đâu thể hôm nay tôi phát nguyện, ngày mai liền được mãn nguyện. Không phải thế. Tôi bảo ông ta: “Nếu như ông phát nguyện thế này: Con nguyện đời này sẽ xây bệnh viện Phật giáo; nếu không có tiền, con sẽ đợi đến đời sau; nếu như đời sau cũng không có tiền, con sẽ đợi đến đời sau nữa! Bất luận thế nào con cũng phải tu phước, tu huệ, có tiền rồi, con sẽ xây bệnh viện Phật giáo. Đời đời kiếp kiếp ông đều phát nguyện như vậy thì mới được!”. Ông ta nói: “Ồ, được rồi! Sau này con sẽ làm thế!” Có vậy mới được xem là tạm hiểu đôi chút. Phải có tâm bền bỉ như vậy, chớ nên lúc thì dốc sức ra học Phật pháp, lúc lại không thèm học nữa, đó là tùy tiện. Phải có thành tâm, lại phải có hằng tâm; hằng tâm chính là tâm bền bỉ lâu dài.
Thành tâm, tức bất luận gặp phải đả kích gì, chẳng hạn như quý vị học Phật pháp, lại có người bạn muốn phá nên nói: “Anh học Phật pháp làm gì! Những người học Phật pháp đều là kẻ ngốc! Đầu óc cổ hủ! Rất mê tín! Còn anh là người trí thức, không nên học thứ đó!”; hoặc bảo: “Ối chào! Anh theo học Phật pháp với vị pháp sư đó à? Ông ta chẳng hiểu Phật pháp gì cả, anh không nên học với ông ấy!”. Họ tìm mọi cách để khiêu khích, chia rẽ, phá hoại, nhưng quý vị không dao động: “Tôi có mắt, tôi nhận biết Phật pháp, tôi cầu pháp Phật chơn chánh, không dễ gì bị người khác phá hoại đâu!” phải có tâm chân thành này. Thành tâm đến cực điểm, thậm chí có người giết chết tôi, bảo tôi không được học Phật pháp, tôi cũng không dao động; thành tâm đến cực độ, tức thậm chí mất cả mạng sống! Dầu có mất mạng đi nữa, quý vị cũng muốn học Phật pháp, đấy mới đích thực là tâm thành.
Trong kiếp quá khứ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã từng bố thí một ngàn thân. Thực trạng bố thí thực ra không hẳn ai cũng đều hoan hỷ, cũng có những trường hợp bất đắc dĩ. Nhưng cũng có trường hợp vì thương xót chúng sanh, rằng: “chúng không có gì để ăn, nên bố thí thân để chúng giữ được mạng sống”; vì vậy đã xả thân cho cọp ăn, cắt thịt cho diều hâu ăn. Lần nọ, có một con diều hâu đói, không còn đủ sức để bay, nên muốn ăn thịt bồ câu. Bồ câu liền bay sà vào lòng Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Thấy thế, diều dâu nói: “Ngài cứu bồ câu cũng được, nhưng nó sống thì tôi chết, vậy Ngài tính sao đây?”
Khi ấy Đức Phật đang ở thời điểm tu hành “gieo nhân” (nhân địa[1]), Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nghe thế liền nghĩ: “Cũng đúng! Ta cứu bồ câu thì diều hâu không có gì để ăn”, liền bảo: “Được lắm! Hiện giờ ngươi nhất định muốn ăn thịt bồ câu phải không? Vậy ta sẽ cắt thịt của ta cho ngươi ăn nhé!”. Thế là Ngài cắt một miếng thịt cho nó, nhưng diều hâu bảo ăn chưa no; Ngài lại cắt thêm một miếng nữa, diều hâu ăn xong bảo vẫn chưa no. Cho đến cắt hết thịt trên thân, diều hâu vẫn ăn chưa no. Ngài nói: “Được rồi! Ngươi thấy trên người Ta chỗ nào có thịt thì cứ đến mà rỉa! Ta khỏi phải cắt nữa!”. Nghe thế, diều hâu liền bay đi, bồ câu cũng bay đi; hóa ra là chư thiên đến thử Ngài, chứ không phải là diều hâu và bồ câu thật, và những chỗ thịt bị cắt của Ngài đều tự lành lại.
Theo nghiên cứu của khoa học, việc này không thể xảy ra; tôi cũng cho rằng việc này không thể xảy ra, nhưng không hiểu vì sao nó lại được như thế. Vì vậy, nếu có tâm thành thì mới có cảm ứng, đó chính là do lòng thành chiêu cảm ra. “Xả thân cho cọp, cắt thịt cho diều hâu”, cần phải bố thí như thế. Không nên chỉ mới bố thí vài ba đồng bạc đã cảm thấy đau lòng, thì quả là thứ chẳng ra gì, còn học Phật pháp gì nữa chứ? Học Phật pháp là phải bố thí thân mạng, đầu mắt, tủy não mới đúng chứ! Có người nghe thế liền nói: “Tôi đã học Phật pháp với vị Pháp sư này, thật là hối hận quá!”. Quý vị có hối hận cũng đã muộn rồi! Quý vị nên hối hận sớm hơn một chút; bây giờ quý vị đã gặp Pháp sư này rồi thì không cách nào chạy được. Ồ! Thật là buồn!
Ý của “như thật tướng” vẫn chưa nói xong, nên tôi nói thêm một chút. “Như thật tướng” chính là nói cảnh giới “quán thập pháp giới”, gọi đó là “thật tướng”. “Như” tức không rơi vào “không” và “có”. “Không, Giả, Trung” gọi là “Tam đế”[2] (chân lý về thật tướng của tất cả các pháp). Ba đế này không khác nhau, “không” cũng chính là “giả”, “giả” cũng chính là “trung” (Tức không, Tức giả, Tức trung); một giả tất cả giả, một không tất cả không, một trung tất cả trung. Ba đế này không có gì phân biệt, không có phân biệt chính là “như”. “Thật” tức không đồng với bảy phương tiện “Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ-tát thừa của Tạng giáo, Bồ-tát thừa của Thông giáo và Bồ-tát thừa của Biệt giáo[3]”; hoặc “Ngũ đình tâm quán[4], Biệt tướng niệm trụ[5], Tổng tướng niệm trụ[6], Noãn, Đảnh, Nhẫn và Thế đệ nhất[7]”, đó gọi là “quả vị của bảy phương tiện”[8]. Vì vượt khỏi bảy phương tiện này, nên gọi là “thật”; lấy thật làm tướng, tức lấy “thật” làm bản thể của nó, nên mới nói “như thật tướng”.
“Chẳng điên đảo” tức “trí huệ quán trung đạo”. Cái gì là “điên đảo”, cái gì là “chẳng điên đảo”? Nếu quý vị muốn không điên đảo thì trước nhất phải biết cái gì là điên đảo. Điên đảo của phàm phu tức là chẳng phải thường cho là thường, chẳng phải lạc cho là lạc, chẳng phải ngã cho là ngã, chẳng phải tịnh cho là tịnh, đây là bốn thứ điên đảo của phàm phu. Nhị thừa cũng có điên đảo của họ, là gì nào? Thường cho là vô thường, lạc cho là khổ, ngã cho là vô ngã, tịnh cho là bất tịnh, đấy chính là điên đảo của hàng Nhị thừa. Bồ-tát cũng có điên đảo “xuất Giả”[9], đấy cũng là một loại điên đảo; chỉ có Phật mới không còn điên đảo.
Chúng sanh ở chín cõi đều sống trong điên đảo; trong khi điên đảo, có lúc cho là tốt, có lúc cho là không tốt. Quý vị nên hiểu rằng chẳng có gì là tốt hay không tốt cả; tất cả đều do tâm điên đảo của chúng sanh mà khởi lên vọng chấp, vọng lường; nếu quý vị không điên đảo tức là đã thể hội “Trung Đạo”, là hợp với lý Trung Đạo rồi! Nếu nói một cách cặn kẽ, quý vị muốn học Phật pháp, tức là không điên đảo; quý vị không muốn học Phật pháp, tức đã đi trên con đường điên đảo rồi.
Nếu quý vị giữ phép tắc, tức là không điên đảo; bằng không thế, thì là điên đảo. Điên đảo và không điên đảo, chính là một bên chánh, một bên tà. Tà thì điên đảo, còn chánh thì không điên đảo. Bây giờ nói đến “chẳng điên đảo”, chúng ta phải nên xem thử mình có điên đảo hay không; nếu điên đảo thì phải mau mau học không điên đảo; nếu không điên đảo, thì cần phải không điên đảo nhiều thêm chút nữa.
“Chẳng động” chính là “định”; định cũng chính là “không sợ hãi”, không sợ bất cứ điều gì. Quý vị tĩnh tọa, đang ở trong định, chợt có một con cọp xuất hiện, há to miệng muốn nuốt chửng quý vị. Lúc này, nếu quý vị khởi tâm sợ hãi, tức là đã “động”; còn như tâm quý vị không hề sợ hãi, tức là “không động”. Nhưng không động, chẳng phải chỉ đơn thuần là không sợ cọp, mà là không sợ chết, cho rằng chết và sống cũng như nhau thôi, chẳng có gì khác biệt cả.
Có người bảo rằng: “Học Phật pháp là vì muốn chấm dứt sanh tử, nhưng tôi không sợ chết nên chẳng cần phải học Phật pháp làm gì!”. Quý vị không học Phật pháp, quý vị không sợ chết, nhưng sanh tử không chấm dứt. Nói “không sợ sanh tử, không bị sanh tử động!” là dùng cho người có định lực. Còn kiểu không sợ sanh tử của quý vị ở đây là một dạng liều lĩnh, là vô minh: “Chết có hề gì? Đọa địa ngục thì đọa! Chịu khổ thì chịu! Tôi chẳng sợ!” vậy thì không thể đoạn dứt được sanh tử.
Sanh tử có hai loại, có “nhị tử”. Có người thắc mắc: “nhị tử có phải là chết hai lần? Chết một lần, sống lại, rồi chết thêm lần nữa?”. Không phải thế. “Nhị tử” này chính là “phần đoạn sanh tử” và “biến dịch sanh tử”.
“Phần đoạn sanh tử” là của hạng phàm phu; tức anh có một phần của anh, tôi có một phần của tôi; anh có một đoạn của anh, tôi có một đoạn của tôi. Anh có thân thể của anh, là anh có một phần; tôi có thân thể của tôi, là tôi có một phần, đó gọi là “một phần”. Đoạn tức có hình đoạn, anh cao năm thước tám, tôi cao năm thước chín, người kia cao sáu thước, mỗi “đoạn” khác nhau; cũng có ý là: anh sống đến 80 tuổi là một giai đoạn của anh, tôi sống đến 90 tuổi là một giai đoạn của tôi, người kia sống đến 100 tuổi là một giai đoạn của họ, đây cũng là một đoạn. Tất cả phàm phu đều có loại sanh tử này. Thế còn hàng Nhị thừa? Họ chỉ có “biến dịch sanh tử” thôi. “Biến dịch sanh tử” tức niệm niệm (thoughts) của quý vị lưu chuyển không dừng; niệm niệm trôi qua, niệm niệm thay đổi. Một niệm thay đổi thì sanh tử trong một niệm; niệm niệm thay đổi thì sanh tử trong niệm niệm. Sanh tử biến dịch này chính là vọng tưởng của quý vị vẫn chưa dừng lại, chưa đạt được định. “Chẳng động” chính là đạt được định; vì đã có định nên không bị nhị tử chi phối.
“Chẳng thoái” là do đạt trí huệ nên không lui sụt vào chỗ ngu si. Tâm quý vị đã tịch diệt, không còn vọng tưởng nữa, nên sẽ có được một loại đại trí đại huệ, đấy gọi là “chẳng thoái” (bất thối), không thoái lui lại tâm ngu si; tức quý vị đã đạt được trí huệ Bát-nhã, sẽ không làm những việc ngu si nữa.
“Chẳng chuyển” tức không còn bị xoay vần trong luân hồi. Không giống như phàm phu, lưu chuyển trong sanh tử, qua lại trong đường sanh tử; cũng không giống Nhị thừa, chuyển phàm thành thánh; tức không có những thứ “chuyển” này.
“Như hư không” tức giống như hư không. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nếu ai muốn biết cảnh giới Phật, nên thanh tịnh ý như hư không” (Nhược nhân dục thức Phật cảnh giới, đương tịnh kỳ ý như hư không). Không có gì cả, đó gọi là hư không; tuy không chứa bất cứ một vật nào, nhưng hư không lại bao trùm tất cả vạn vật. Cái gọi “như hư không” chỉ có tên gọi, không có tự tánh; Trí quán Trung đạo – trí huệ tu Trung đạo, cũng chỉ là cái tên gọi, quý vị muốn tìm cầu một thực thể sẽ không có; chẳng có gì cả, vì vậy nói “như hư không”; quý vị chớ nên chồng thêm một cái đầu ở trên đầu, nói rằng: “Hư không là gì? Tìm thử hư không xem nó ra sao!” Hư không là cái gì cũng chẳng có, còn tìm cái gì nữa? Chớ phân vân “đầu này của tôi là cái gì đây?” rồi đặt lên trên nó thêm một cái đầu nữa. Cũng chớ giống như anh chàng Diễn-nhã-đạt-đa (Yajnadatta), soi mình trước gương, thấy người trong gương có một cái đầu, liền hốt hoảng: “Ồ! Vì sao tôi không có đầu?” thế rồi liền chạy ra đường, gặp ai cũng hỏi: “Các vị xem thử tôi có đầu không?” và chạy khắp nơi tìm cái đầu của mình. Không nên thế!
“Tánh vô sở hữu”, vô sở hữu tức không có; tánh vô sở hữu tức là không có tánh, không có một cái “tự tánh”, không có “tha tánh”, cũng không có một cái “cộng tánh” – không có tánh của mình, không có tánh của người kia, cũng không có một cái tánh chung – cũng không có một cái “tánh nhân”, không có một cái “tánh quả”, vì tất cả đều rỗng không, đây chính là nói đến cái “không” này.
Lúc này, “tất cả con đường của ngôn ngữ đều dứt bặt (nhất thiết ngôn ngữ đạo đoạn)”, cũng không suy nghĩ được, có muốn nói cũng nói không ra, không có cách gì nói được, con đường của ngôn ngữ đã bị cắt đứt, chính là chỗ “Miệng muốn nói mà từ ngữ đi đâu mất, tâm muốn duyên mà suy nghĩ chẳng còn” (khẩu dục ngôn nhi từ táng, tâm dục duyên nhi lự vong). Miệng muốn nói, nhưng nói không ra lời, không có ngôn từ để nói; tư tưởng muốn phan duyên, mà ý niệm cũng không có. Đấy chính là chỗ “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt” (bặt đường ngôn ngữ, dứt lối tâm hành), con đường để tâm chạy đến cũng diệt mất. Quý vị nói xem, đây là cảnh giới gì? Đấy chính là “ly tứ cú, tuyệt bách phi”[10]; chính là như bốn câu kệ này:
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bọt nước
Như sương, cũng như điện
Nên khởi quán như thế.
(Kinh Kim Cang)
“Tuyệt bách phi” tức một trăm kiểu không đúng, cũng đều chẳng còn.
“Ly tứ cú, tuyệt bách phi” là cảnh giới không thể nghĩ bàn. “Nhất thiết ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”, đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn; cảnh giới này không cách gì diễn bày được, nói cũng nói không ra, nghĩ cũng nghĩ không thấu, vì vậy gọi “không thể nghĩ bàn”. Không thể nghĩ bàn chính là “diệu”. Nếu quý vị lãnh hội được chữ “diệu” này thì có thể cảm nhận được mùi vị của “Kinh Pháp Hoa”, có thể nói là biết được một chút; bằng không, thì không cách gì nghe nổi “Kinh Pháp Hoa”. “Kinh Pháp Hoa” nói rất diệu, nói tới nói lui đều là diệu!
Thông thường dụng công, có người dụng đúng, nhưng có người vẫn còn vọng tưởng như thường lệ. Người nào còn vọng tưởng, mong rằng sẽ bớt đi một chút; người nào dụng công tốt, mong rằng sẽ dụng công tốt hơn một chút nữa, mỗi ngày một tiến bộ. Để mỗi ngày một tiến bộ, quý vị cần phải mỗi ngày một tự chủ hơn, tự thâu nhiếp thân tâm hơn; một khi đã thâu nhiếp được thân tâm thì sẽ không vọng tưởng nữa.
Sau khi mãn khóa tu mùa hè, sẽ bắt đầu khóa thiền mùa đông. Trong khóa thiền một trăm ngày này, mỗi ngày phải ngồi hai mươi mốt tiếng, chạy hương, tọa hương, không có thời gian nghỉ ngơi; nếu vị nào không sợ cực khổ thì nên đăng ký tham gia sớm. Ngồi thiền, chính là học cảnh giới không thể nghĩ bàn này; quý vị không cách gì có thể nghĩ thấu đến được chỗ diệu của cảnh giới “không thể nghĩ bàn” này.
“Chẳng sanh”, chẳng sanh cái gì? Chẳng sanh vô minh, chẳng sanh trí huệ. Không có trí huệ, cũng không có vô minh, quý vị nói xem đây là cái gì? Đó là “lý” thể. Quý vị không có vô minh nên cũng không có trí huệ; quý vị đã không có trí huệ vì vậy cũng không có vô minh. Trí huệ và vô minh là sự chấp trước đối lập nhau; bây giờ đã không sanh vô minh, lại không sanh trí huệ, đấy cũng chính là cảnh giới “không nghĩ thiện, không nghĩ ác”.
Quý vị có thiện, tức đã sanh ra cái “có”; quý vị có ác, cũng là sanh ra cái “có”. Nay, nếu quý vị có vô minh, cũng là sanh ra cái “có”; có trí huệ, cũng là sanh ra cái “có”. Trí huệ và vô minh đều không sanh, đó chính là cảnh giới diệu. Vì không có vô minh, không có trí huệ, đấy chính là “lý” – lý thể vốn sẵn có (bổn lai lý thể), chính là Đại Quang Minh Tạng của tự tánh xưa nay; vì vậy không có một đối tượng để phá, cũng không có một chủ thể phá, không cách gì phá nó được. Vì sao? Nó chính là lý bất sanh, vì thế ở trong cảnh giới này, “hành, vị, nhân, quả” v.v… đều không sanh; hành tức tu hành, vị là quả vị. Hành, vị, nhân, quả đều không sanh, đấy là ý “chẳng sanh”.
“Chẳng xuất”, chẳng có ra, tức cũng chẳng có vào; không ra, không vào, đấy là bản thể của Như Lai. Bản thể tu hành của Đức Như Lai đã đạt đến chỗ rốt ráo, vì vậy không có ra, cũng chẳng có vào, cũng tức là không có vô minh, không có trí huệ để luận bàn.
“Chẳng khởi”, sao gọi là “chẳng khởi”? Không khởi vì đã chứng được lý thể của Như Lai; lúc này, chỉ thuần một lý, vì vậy những giáo lý phương tiện, tức quyền pháp – đều vắng lặng, không còn sanh khởi nữa.
“Không danh”, thế nói đây có tên gọi (danh) là gì? Không có tên, chỉ có cái “lý”, chỉ là nói đến cái “lý” này. Sở dĩ nói “không danh”, vì không có tên nào có thể đại diện được cho “lý” này. Từ “chẳng điên đảo” đến “chẳng khởi”, không có một danh từ nào có thể dùng để đặt tên cho nó, vì vậy nói “không có tên để đặt”.
“Không tướng”, tức chẳng có tướng nào có thể phô bày được nó. Từ “chẳng điên đảo” đến “chẳng khởi”, chẳng có bất kỳ hình tướng nào có thể dùng để hình dung ra nó, vì vậy gọi “không tướng”. “Không danh” chính là “tánh không”, “không tướng” chính là “tướng không”.
“Thật vô sở hữu”, chỗ này nhằm khen ngợi “quán Trung đạo”. Quán Trung đạo, không rơi vào nhị biên – không rơi vào bên không, không rơi vào bên có; sở dĩ nói “thật vô sở hữu” vì không có bất cứ thứ gì.
“Vô lượng”, tức không có một pháp về số lượng. Thế nào là không có pháp số lượng? Năm ấm – sắc, thọ, tưởng, hành, thức thuộc loại có số lượng, có năm thứ. Sáu căn tức có sáu thứ; sáu trần cũng có sáu thứ, hợp chung lại, gọi là “mười hai nhập”, cũng gọi “mười hai xứ”, gồm có mười hai thứ, tức có danh từ “mười hai”. Giữa “sáu căn”, “sáu trần” lại cộng thêm “sáu thức”, trở thành “mười tám giới”. Năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới đều có số lượng. Quán Trung đạo này không có số lượng để đếm nên gọi “không có lượng” (vô lượng); không có lượng mới là “toàn lượng” mới là số lượng hoàn hảo, không thiếu không dư, nên gọi “vô lượng”.
“Vô biên” tức không có một giới hạn, bờ bến. Giới hạn này chỉ cho pháp Tiểu thừa, tất cả pháp đều có chỗ nhất định, đều có hạn độ. Có nhất định tức có giới hạn; không nhất định thì không có giới hạn. Hiện tại không có giới hạn, chính là “không có pháp cố định”.
“Không ngại” tức “biến nhập tất cả pháp”. Vì trí quán Trung đạo có thể thâm nhập tất cả pháp. Tuy thâm nhập trong tất cả pháp mà không chướng ngại, không ngăn ngại.
“Không chướng”, chướng là che lấp, không có một pháp nào có thể che lấp được trí quán Trung đạo này. Đoạn Kinh văn từ “Quán tất cả pháp không” cho đến“không chướng” gồm có mười chín câu. “Quán tất cả pháp không” là trí năng quán, đây là “tổng tiêu”, nêu tổng quát. Mười tám câu tiếp theo sau là giải thích riêng, gọi là “biệt thích”. Đạo lý này nếu nói ra sẽ vô cùng vô tận, hiện tại chỉ có thể giảng sơ lược ý. Trong mười chín câu này, trừ câu “quán tất cả pháp không” ở đầu, còn lại mười tám câu; đoạn Kinh văn mười tám câu này có thể y cứ vào “Mười tám không” (Thập bát không)[1] của “Kinh Đại Bát-nhã” để giải thích, cũng có thể dùng “Tất cả pháp” (Nhất thiết pháp) (của Đại Trí Độ Luận và Kinh Đại Bát Nhã) để giải thích.
Thế nào là dùng “Tất cả pháp” để giải thích? Tất cả pháp như thật tướng, tất cả pháp không điên đảo, tất cả pháp không động, tất cả pháp không thoái, tất cả pháp không chuyển, tất cả pháp như hư không, tất cả pháp vô sở hữu, tất cả pháp dứt bặt ngôn ngữ, tất cả pháp không sanh, tất cả pháp không xuất, tất cả pháp không khởi, tất cả pháp không danh, tất cả pháp không tướng, tất cả pháp không thật có, tất cả pháp vô lượng, tất cả pháp vô biên, tất cả pháp không ngại, tất cả pháp không chướng – đây là dùng “Tất cả pháp” để giải thích mười tám câu.
Thế nào là y cứ vào “Mười tám không” để giải thích?
1. “Như thật tướng” chính là “đệ nhất nghĩa không”; đệ nhất nghĩa không gọi là “như thật tướng”.
2. “Không điên đảo” chính là “nội không”. Nội không cái gì nào? Nội không lục nhập, mắt tai mũi lưỡi thân ý đều không. Nếu mắt tai mũi lưỡi thân ý của quý vị có thể không thì sẽ không có ngã (cái tôi), cũng không có cái chấp về ngã sở (cái của tôi). Bên trong không điên đảo tức không bị lục nhập chuyển.
3. “Không động” chính là “ngoại không”; không cái gì nào? Chính là bên ngoài sáu trần rỗng không, không bị sáu trần lay động, đây là nghĩa “không động”.
4. “Không thoái” chính là “không có nội ngoại không”, tức “nội ngoại không”. Trong ngoài đều không, tức mười hai nhập (12 xứ) đều không, vì vậy không thoái lui xuống địa vị phàm phu hay Nhị thừa.
5. “Không chuyển” tức không chuyển động. Cái gì “không chuyển động”? Quý vị thử đoán xem ở đây là cái gì không? Tôi tin rằng có vị biết. Mọi người đoán thử xem, để tôi xem trí huệ của quý vị thế nào! Không cần suy nghĩ, hãy nói. “Như hư không” là cái gì không? “Đương không” là “không bên trong”. (Một đệ tử khác đáp: “Trung không”). “Trung không” cũng chính là “Nội không”. Có người bảo “bốn đại đều không”, bốn đại thế nào không? Vì “Năm uẩn đều không”, năm uẩn không thế nào? Bởi vì “Soi thấy năm uẩn đều không”, quý vị soi thế nào? “Như hư không” là cái gì không? “Tánh vô sở hữu” là cái gì không? Hãy nói! Quý vị “không nói không” (quý vị im lặng), bởi vì nếu mở lời thì đã không phải là không rồi, đúng không? Đây chính là “bất thuyết không” (không nói không). Tốt lắm! Quả Ninh nói đúng rồi, quả là đã bị chú ấy đoán ra rồi!“Không chuyển” chính là “không không”. Tôi biết, nếu là người muốn nghiên cứu Phật pháp, dù chưa từng được nghe qua nhưng cũng có thể đoán được. Quý vị xem! Ở trướcĐệ nhất nghĩa cũng không (Đệ nhất nghĩa không), rồi trong cũng không (nội không), ngoài cũng không (ngoại không), trong ngoài đều không (nội ngoại không), hiện tại là “không không”, vì vậy chú đoán đúng rồi. Tôi muốn xem thử rốt cuộc chú biết hay không biết, nên hỏi thêm một câu: “Như hư không” là cái gì không? Nghe hỏi thế, chú ấy liền phát hoảng lên, cho rằng mình đã nói sai. Kỳ thật chú ấy nói không sai, nhưng chú ấy lại cho là sai, vì vốn dĩ vẫn chưa hiểu. Chú ấy vốn đoán đúng, nhưng bị tôi hỏi một câu lại không nhận ra được, thật đáng tiếc!
“Không chuyển” tức không bị lay chuyển, đây là “không không”. “Không” này có thể phá tất cả các pháp; tất cả các pháp đều bị phá, đã không rồi thì còn có pháp nào nữa? Nếu đã không, tức còn có một cái “không pháp” tồn tại, thế là vẫn chưa phá, vẫn còn chấp vào cái “không”. “Không không”, cái “không” đó cũng không luôn, tức tất cả các pháp đều bị phá. “Các pháp” là đối tượng bị phá, “không” là chủ thể phá; có thể phá trừ các pháp, tất cả các pháp đều chẳng có. Lúc này không còn chấp ngã, cũng không có chấp pháp; không có pháp để chấp, tức không có tất cả các pháp, lúc này mới có thể bàn đến “không không”.
Nếu khi quý vị đã đạt được không, nhưng lại không khiến cho cái “không” đó cũng không, tức quý vị vẫn còn lỗi lầm; chỉ khi cái không đó cũng không tồn tại, thì mới dứt hết mọi sai quấy, không cũng chẳng phải là không, lúc này tất cả các pháp mới bị phá dẹp. Chỗ gọi là “quét sạch tất cả pháp, lìa tất cả tướng” (tảo nhất thiết pháp, ly nhất thiết tướng); khi tất cả pháp đều đã không thì tất cả tướng cũng không cần bàn đến, vì vậy gọi là “không chuyển”, tức không bị chuyển động, đây chính là “không không”.
6. “Như hư không” là cái gì không? Nếu quý vị đã xem qua “Kinh Bát-nhã” sẽ nhận thấy kinh này nói về trí huệ, nói về bát-nhã; bát-nhã chính là luận về “không”, nghiên cứu “lý không” này. Vì Tôn giả Tu-bồ-đề giỏi giảng về lý bát-nhã, nên được tôn xưng là “Giải không đệ nhất”; Ngài chuyên nghiên cứu lý “không”, nên còn gọi Ngài là “Không Sanh”. Nhưng “Không Sanh” của Ngài lại chẳng phải là không sanh; nói “chẳng phải không sanh” (thì tức là “có” sanh), vậy Ngài có cái gì? Có một “Tu-bồ-đề”!
Có thể có nhiều người không biết tại sao Ngài có tên là “Không Sanh”? Nay tôi sẽ giảng sơ lược. Không Sanh chính là “Tu-bồ-đề”. Tu-bồ-đề là Phạn ngữ (Subhuti), Trung Hoa dịch là “Không Sanh”. Sao lại đặt tên này? Vì hôm Ngài ra đời, kho chứa tất cả vàng, bạc, châu báu của gia đình bỗng nhiên trống rỗng. Vừa trông thấy, cha Ngài liền thốt lên: Ồ! Trống rỗng cả rồi, là không sanh đây! Thế là liền đặt tên cho Ngài là “Không Sanh”. Kho đã trống rỗng, vàng, bạc, châu báu không còn, thế thì từ nay phải bị nghèo khổ chăng? Thế là cha Ngài liền tìm đến một ông thầy toán số nhờ xem cho một quẻ.
Người này bảo: “Vàng, bạc, châu báu trong nhà ông đều không còn, đây là điềm rất tốt! Chẳng có chỗ nào là không tốt cả, ông chớ buồn lo. Đây là điềm rất lành! Đứa bé này chắn chắn rất giỏi, không ai sánh kịp”. Vì vậy, cha Ngài đã đặt tên cho Ngài là “Thiện Kiết”, đã tốt lại còn lành. Bảy ngày sau, tất cả vàng, bạc, châu báu bỗng nhiên xuất hiện trở lại trong kho, vì vậy, Ngài còn có tên là “Thiện Hiện”. “Tu-bồ-đề” có ba ý nghĩa như thế.
Vì sao khi Tu-bồ-đề vừa chào đời, tất cả vàng, bạc, châu báu trong kho đều không còn? Vì nhiều đời nhiều kiếp Ngài đều nghiên cứu lý “không” này; không, tức không cần bất cứ thứ gì, không có bất cứ thứ gì, vì thế khi Ngài vừa chào đời thì ngay cả vàng, bạc, châu báu cũng không có. Đây là biểu hiện của “không”, biểu hiện “bát-nhã không”, vì vậy gọi “Không Sanh”.
“Như hư không”, đây là “đại không”, không có gì lớn hơn nó nữa. Rốt cuộc thì lớn cỡ nào? Không ai biết được. Vì sao? Vì nó quá lớn; nếu có người biết thì đã không phải là lớn.
7. “Tánh vô sở hữu”, đây là cái gì không? Quý vị lại đoán thử xem, để tôi xem trí huệ của quý vị ra sao. Rốt cuộc là không hay chẳng phải không? Đây là “tất cánh không”, rốt ráo không, triệt để không, bổn lai không. Về “tất cánh (rốt ráo) không” này có mấy câu kệ như vầy:
Như Lai như trăng mát,
Thường dạo tất cánh không.
Tâm người như nước lặng,
Bóng Bồ-đề hiện trong.
Như Lai thanh lương nguyệt
Thường du tất cánh không
Chúng sanh tâm thủy tịnh
Bồ-đề ảnh hiện trung.
Ánh trăng trên bầu trời vào buổi tối, làm cho người ta cảm thấy rất mát mẻ, rất dễ chịu. Đức Như Lai cũng giống như ánh trăng mát mẻ kia, thường dạo chơi trong “rốt ráo không” (tất cánh không). Nước trí huệ của chúng sanh hiện tiền, trong tâm đã thanh tịnh, Bồ-đề liền in bóng lờ mờ, không rõ rệt lắm, phảng phất có bóng dáng hiện lên.
Sao nói “tánh vô sở hữu” là “tất cánh không”? Tánh vô sở hữu, quý vị xem! Chẳng có gì cả (vô sở hữu), nó không phải “tất cánh không” thì là cái gì? Các pháp vốn không thiếu không dư – không thiếu tức không ít đi chút nào, không dư tức cũng không nhiều hơn chút nào. Không nhiều hơn một tí, cũng không ít hơn một tí, bản thể của các pháp là thế. Bởi bản thể của các pháp là “không thiếu không dư” cho nên các pháp cứu cánh vốn là không, do vậy nên gọi là “tất cánh không”; vì các pháp rốt ráo không, nên chính là “tánh vô sở hữu”, tánh của các pháp là không (vô sở hữu).
8. “Dứt bặt mọi con đường của ngôn ngữ” là cái gì không? Không này cũng rất dễ biết, vì trong một câu Kinh văn ở trên có nói đến ý này; không chỉ có một câu như thế, mà trong mỗi một câu của Kinh văn, đã mang ý nó vốn là không. Đây chính là “nhất thiết không”, tất cả mọi ngõ ngách của ngôn ngữ đều dứt sạch, vì vậy đấy chính là tất cả không; vì nó là nhất thiết không, nên cũng chẳng có lời nào để nói, ngôn ngữ đoạn dứt, chẳng còn nữa!
9. “Không sanh” là cái gì không? Quý vị có xem mười tám không, sẽ tin nó có sự phối hợp với mười tám câu, nhưng có vị biết, có vị không biết. Nếu nói biết, thế sao ban đầu Quả Tiền không biết nói “tánh vô sở hữu” là “đệ nhất nghĩa không”, cũng không biết nói là “tánh không”. “Tánh không” đã giảng ở trên rồi. “Không danh” chính là tánh không, “không tướng” chính là tướng không, “như thật tướng” chính là đệ nhất nghĩa không. Bây giờ “không sanh” này là cái gì không? Là “hữu vi không”. Do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra pháp hữu vi. Bây giờ thì không hòa hợp nữa, vì sao không hòa hợp? Vì nó không sanh, nên không hòa hợp; không hòa hợp, nên không sanh, đấy gọi là “hữu vi không”.
10. “Không xuất”, đây là cái gì không? Chính là “vô vi không”, “vô vi” cũng không. Chính là chỗ “vô vi không khởi diệt, chẳng thật như hoa đốm” (vô vi vô khởi hoặc, bất thật như không hoa). Từ “Vô vi” có nghĩa là, chính là “xuất ly”, xuất ly tất cả pháp; giờ đây, “xuất ly” này cũng là không, vì vậy không có chỗ để xuất, nên gọi là “vô vi không”.
11. “Không khởi”, đây lại là cái gì không? Trong “Kinh Đại Bát-nhã” gọi là “vô thủy không”, không có chỗ bắt đầu; nếu có chỗ khởi đầu, thế thì đã “khởi” rồi. Quý vị thử tìm một chỗ bắt đầu, một điểm khởi đầu của nó xem, hoàn toàn không thể được; vì không thể tìm được, nó là không, nên gọi “vô thủy không”.
12. “Không danh” chính là “tánh không”. 13. “Không tướng” chính là “tướng không”. Vậy thì “không danh không tướng” lại có thể giải thích câu “thật vô sở hữu”.
14. “Không thật có (Thật vô sở hữu)”, thế đây không phải lại gọi là “tất cánh không”, “vô thủy không”? Không phải! Đây là “bất khả đắc không”.
15. “Vô lượng”, đây lại là cái gì không? “Vô lượng” là “hữu pháp không”. “Hữu lượng” chính là “hữu pháp”, giờ đây “hữu lượng” đã không rồi, nên “vô lượng” này gọi là “hữu pháp không”.
16. “Vô biên” lại là cái gì không? “Vô biên” chính là “vô pháp không”. Có pháp tức là có biên tế, có bờ mé; bây giờ đã không có pháp, nên gọi vô biên, đây là “vô pháp không”.
17. “Vô ngại”, lại là cái gì không? “Hữu pháp vô pháp không”. Cả hữu pháp và vô pháp đều không thật có, đều là không, lại chẳng có ngăn ngại; vì không ngăn ngại nên hữu pháp cũng không, vô pháp cũng không, đây gọi là “hữu pháp vô pháp không”.
18. “Không chướng”, quý vị có biết “không chướng” là cái gì không hay không? Là cái không cuối cùng ở trong mười tám không đấy! Không biết à! Tôi sẽ nói cho quý vị biết, gọi là “tán không”; nó không có những chướng ngại và che lấp. Vì không thể che lấp, nên gọi “vô chướng”.
Mười tám không này, giải thích sơ lược ý của mười tám câu (Kinh văn); Đức Phật thường tu mười tám không, nên chiếu theo đó để giảng mười tám câu trong “Kinh Pháp Hoa” này.
“Quán tất cả pháp không” đã đề cập ở trên chính là “tướng chung” (Tổng tướng). Từ “như thật tướng” trở xuống đến “không chướng”, gồm mười tám câu, là“tướng riêng” (Biệt tướng). Các tướng này “chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sanh”, chỉ do các thứ nhân duyên mà có ra các thứ tướng, tất cả đều từ “điên đảo mà sanh ra”. Nên nói: “Thường ưa quán pháp tướng như thế, đó gọi là chỗ thân cận thứ hai của Đại Bồ-tát.”, vì vậy mới nói: thường nên ưa thích quán các loại pháp tướng như đã nói ở trên, thấy tất cả đều là không. Đây là chỗ cần nên gần gũi thứ hai của Đại Bồ-tát.
[1] Thập bát không: Theo kinh Đại phẩm Bát nhã quyển 3, kinh Đại tập quyển 54 và luận Đại trí độ quyển 31, thì “Không” có 18 loại: Nội không, Ngoại không, Nội ngoại không, Không không, Đại không, Đệ nhất nghĩa không, Hữu vi không, Vô vi không, Tất kính không, Vô thủy không, Tán không, Tính không, Tự tướng không, Chư pháp không, Bất khả đắc không, Vô pháp không, Hữu pháp không và Vô pháp hữu pháp không…
(Phật Quang Đại Từ Điển)
[1] Nhân địa 因地 Đối lại: Quả địa. Đồng nghĩa: Nhân vị. Chỉ cho các địa vị hoặc giai vị đạt được trong quá trình từ khi tu tập nhân hạnh (tu nhân) đến chứng quả vị (chứng quả).
[2] TAM ĐẾ 三諦 Chỉ cho Không đế, Giả đế và Trung đế là chân lý của thật tướng của các pháp theo thuyết của tông Thiên Thai. Cách chia Tam đế này có xuất xứ từ phẩm Hiền thánh học quán trong kinh Anh lạc bản nghiệp quyển thượng và phẩm Nhị đế trong kinh Nhân vương bát nhã quyển thượng.
Trong Pháp hoa huyền nghĩa quyển 1 thượng, 2 hạ và Ma-ha chỉ quán quyển 1 hạ, 3 thượng, 5 thượng… Trí Khải Đại sư nói về Tam đế như sau:
1. Không đế (cũng gọi Chân đến, Vô đế): Các pháp vốn không mà chúng sinh không rõ, chấp đó là thực nên sinh ra vọng kiến. Nếu dùng Không quán để đối trị thì tính chấp tự diệt, liền lìa các tướng, tỏ ngộ lý Chân không.
2. Giả đế (cũng gọi Tục đế, Hữu đế): Các pháp tuy vốn không nhưng khi nhân duyên hội tụ thì hiện ra có rõ ràng; ở trong chỗ không ấy mà giả lập ra tất cả các pháp, cho nên gọi là Giả đế.
3. Trung đế (cũng gọi Trung đạo đệ nhất nghĩa đế): Dùng Trung quán mà quán xét thì các pháp xưa nay chẳng lìa 2 bên, chẳng là 2 bên, chẳng phải chân chẳng phải tục, là Chân là Tục, thanh tịnh rỗng suốt, viên dung vô ngại, cho nên gọi là Trung đế. (theo Phật Quang Đại Từ Điển)
1. [3] Tạng giáo: Gọi đủ: Tam tạng (kinh, luật, luận) giáo, chỉ cho Tiểu thừa giáo. Tức là Đức Phật nói riêng Tứ đế sinh diệt cho hàng Tam thừa, phân tích Không quán cùng đoạn Kiến, Tư hoặc, khiến họ vào Niết-bàn vô dư.
2. Thông giáo: chỉ cho giáo pháp Bát-nhã, nghĩa dung thông cả Tiểu thừa và Đại thừa, bao hàm đạo lý vừa sâu xa kín nhiệm vừa rõ ràng dễ hiểu, tức là Đức Phật nói Tứ đế vô sinh cho hàng Tam thừa, khiến họ cũng vào Niết-bàn vô dư.
3. Biệt giáo: chỉ cho giáo pháp trong các kinh Phương đẳng (kinh Đại thừa). Tức là Đức Phật nói Tứ đế vô lượng riêng cho hàng Đại Bồ-tát, không chung cho hàng Nhị thừa, dùng Tam quán (Không quán, Giả quán, Trung quán) theo thứ tự phá Tam hoặc (Kiến tư hoặc, Trần sa hoặc & Vô minh hoặc), khiến họ chứng lý “Đãn trung” (lý Trung quán).
4. Viên giáo: chí cho giáo nghĩa kinh Hoa Nghiêm, tức là Đức Phật nói Tứ đế vô tác cho hàng Bồ-tát, dùng Tam quán viên dung (Tức không, Tức giả, Tức trung) cùng đoạn Tam hoặc, khiến chứng lý “Bất đãn trung” (lý Trung đạo).
(Phật Quang Đại Từ Điển)
[4] Cũng gọi Ngũ quán, Ngũ niệm, Ngũ đình tâm, Ngũ độ quán môn, Ngũ độ môn, Ngũ môn thiền. Là năm pháp quán dứt trừ phiền não mê hoặc. Đó là:
1. Bất tịnh quán: Quán tưởng thân mình và thân người là nhơ nhớp để trừ bỏ lòng tham muốn.
2. Từ bi quán: cũng gọi là Từ tâm quán, Từ mẫn quán. Quán tưởng lòng thương xót để đối trị với phiền não oán giận.
3. Duyên khởi quán: cũng gọi là Nhân duyên quán, Quán duyên quán. Quán tưởng 12 duyên khởi (12 nhân duyên) thuận và nghịch (theo chiều sinh khởi và hoàn diệt) để đối trị phiền não ngu si.
4. Giới phân biệt quán: cũng gọi Giới phương tiện quán, Tích giới quán, Phân tích quán, Vô ngã quán. Quán tưởng các pháp 18 giới đều do sự hòa hợp của đất, nước, lửa, gió, không và thức mà có thể đối trị ngã chấp.
5. Sổ tức quán: cũng gọi là An-na-ban-na quán, Trì tức niệm. Đếm số hơi thở ra, thở vào để đối trị tầm (Tầm, Phạn: vitara là tên của Tâm sở, 1 trong 100 pháp Duy thức, chính là tìm cầu suy xét, nhưng đây là tác dụng suy xét thô thiển đối với sự lý nên khiến tâm vội vàng, vụt chạc), tứ (Tứ, Phạn: vicara, cũng là tên của Tâm sở, 1 trong 100 pháp Duy thức, cũng chính là suy lường, suy xét nhưng là suy lường vi tế. Tính chất thô của tâm gọi là Tầm, tính chất tế của tâm gọi là Tứ. Do vì tìm cầu, suy xét lâu làm cho thân mỏi mệt, niệm tán loạn mà tâm cũng hao tổn, cho nên Tầm, Tứ đều là Tùy phiền não) tán loạn, giữ cho tâm dừng yên ở một cảnh.
(theo Phật Quang Đại Từ Điển & Luận Đại Thừa 100 Pháp Minh Môn Hòa Thượng Tuyên Hóa lược giảng)
[5] Biệt tướng niệm trụ: Quán xét tự tính và tướng chung của 4 đối tượng: Thân, thọ, tâm, pháp để đối trị 4 điên đảo: Tịnh, lạc, thường, ngã.
“Từ ngũ đình tâm vị, tiến lên biệt tướng niệm trụ vị, tức là quán riêng từng niệm thân, thọ, tâm hoặc pháp. Bởi tâm hay khởi lên vọng kiến điên đảo, duyên theo thân bất tịnh mà chấp tịnh, duyên theo thọ khổ mà chấp lạc, duyên theo tâm vô thường mà chấp thường, duyên theo pháp vô ngã mà chấp ngã. Nay muốn đối trị bốn vọng kiến điên đảo ấy, phải dùng trí lực năng quán để quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Lối quán này có hai cách là quán riêng tự tướng và quán riêng cộng tướng. Quán riêng tự tướng là quán tự tướng của thân chỉ là sắc chất do tứ đại tạo thành (đại chủng tạo sắc) gồm năm căn năm cảnh vốn là bất tịnh thì đối trị điên đảo chấp tịnh. Quán tự tướng của thọ chỉ là thọ tâm sở lãnh nạp cảnh thuận nghịch và phi thuận phi nghịch, vốn là khổ thì đối trị chấp lạc. Quán tự tướng của tâm chỉ là sáu thức tâm vương, vốn là vô thường thì đối trị điên đảo chấp thường. Quán tự tuớng của pháp chỉ do duyên hợp vốn là vô ngã thì đối trị điên đảo chấp ngã.”. (Câu-xá Luận, Abhidharma Kosa, phẩm Phân Biệt Hiền Thánh)
[6] Tổng tướng niệm trụ: Quán xét chung: thân, thọ, tưởng, tâm, pháp, và tu các hành tướng vô thường, khổ, không, vô ngã.
“Quán riêng cộng tướng là quán bốn thứ thân, thọ, tâm, pháp thứ nào cũng có đủ bốn tướng chung là thường, khổ, không, vô ngã. Như quán thân, thấy thân cùng các pháp hữu vi đồng là vô thường, cùng các pháp hữu lậu đồng là khổ, cùng tất cả các pháp duyên hợp đồng là vô ngã, đồng là không. Quán thọ, tâm, pháp cũng giống như vậy.” (Câu-xá Luận, Abhidharma Kosa, phẩm Phân Biệt Hiền Thánh)
[7] Đây là giai vị “Noãn, Đảnh, Nhẫn và Thế đệ nhất” của Thanh văn thừa hay Tiểu thừa, chớ không phải giai vị hay cảnh giới “Noãn, Đảnh, Nhẫn và Thế đệ nhất” trình bày trong Kinh Lăng Nghiêm.
[8] Cũng gọi Thất hiền, Thất hiền vị, Thất gia hạnh vị. Chỉ cho 7 giai vị Phương tiện từ Kiến đạo trở xuống của hàng Thanh văn do tông Câu-xá thuộc Tiểu thừa thành lập, đó là: Ngũ đình tâm quán, Biệt tướng niệm trụ, Tổng trước niệm trụ, Noãn pháp, Đỉnh pháp, Nhẫn pháp và Thế đệ nhất pháp.
(theo Phật Quang Đại Từ Điển)
[9] Tòng Không xuất Giả quán (từ Không đi ra mà vào Giả quán), đồng nghĩa với “xuất Giả hành” 出假行: Từ Không đi ra mà vào Giả. Nghĩa là trong 3 pháp quán Không, Giả, Trung thì Bồ-tát từ Không quán ra mà vào Giả quán, gọi là xuất Giả hành. Bồ-tát tu hành tuy đã chứng được lý Không, nhưng không chỉ dừng lại ở lý Không, mà từ lý Không một lần nữa bắt đầu quán Giả, mỗi mỗi rõ biết tướng sai khác của thế giới hiện tượng để giáo hóa làm lợi ích chúng sinh. (xem thêm “Tam Quán”).
(Phật Quang Đại Từ Điển, HT. Quảng Độ)
[10] TỨ CÚ BÁCH PHI 四句,百非 “Bốn câu, Trăm chẳng phải”. Thuật ngữ thường được sử dụng để thuyết minh lý chân không vô tướng dứt bặc nói năng, chẳng thể nghĩ bàn.
Tứ cú chỉ cho 4 câu: có; không; vừa có vừa không; và chẳng phải có chẳng phải không, hoặc chỉ cho 4 câu: khẳng định; phủ định; một phần phủ định một phần khẳng định; cả hai đều phủ định, để làm hình thức phán đoán các luận nghị nói chung.
Còn Bách phi thì chỉ cho 100 thứ phủ định, như Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 21 nói Niết-bàn của Như Lai là: Chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu, cho đến chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại… Do đó mà biết Tứ cú Bách phi đều là những khái niệm giả danh, căn cứ vào lập trường của tất cả sự phân đoán và nghị luận mà được thiết lập. Nhưng tông chỉ tột cùng của Phật giáo là ở chỗ vượt ngoài những khái niệm giả danh này mà đạt đến cảnh giới dứt bặc nói bàn, suy tưởng, cho nên câu nói: “Ly tứ cú tuyệt bách phi” rất nổi tiếng và thịnh hành trong Thiền lâm.
(theo Phật Quang Đại Từ Điển)
[1] tri Khổ, đoạn Tập, mộ Diệt, tu Đạo.
[2] Tính chất đặc trưng của thời Chánh Pháp là "thiền định kiên cố" tức là ưa thich tu hành, ưa thích hướng nội, phản bổn hoàn nguyên. Đến thời Tượng Pháp thì tính chất đặc trưng của thời này là bắt đầu hướng ngoại, chú trọng đến việc xây dựng tự viện, chùa chiền nên là “tự miếu kiên cố”. Và tính chất đặc trưng của thời Mạt Pháp chúng ta là “đấu tranh kiên cố”, ưa tranh đấu, giành giựt hơn là phước huệ song tu (của thời Chánh Pháp) hay chú trọng tu phước (của thời Tượng Pháp) mà bản chất của A-tu-la là ưa thích tranh đấu nên nói A-tu-la “đấu tranh kiên cố” là vậy.
[3] Vô sở hữu xứ無 所有處 (Cg: Vô sở hữu xứ thiên; S: Ākiñcanyāyatana, Ākiṃcanya-āyatana): tầng trời thứ ba trong bốn tấng trời cõi Vô sắc, cảnh giới siêu việt Thức vô biên xứ định, phát sanh nhờ quán sở duyên đều Vô sở hữu, tư duy tướng Vô sở hữu. (theo Phật Quang Đại Từ Điển)
[4] Trời Phi phi tưởng xứ 非 非想處天 (Cg: Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên; S: Nai va-saṃjñānāsaṃjñāyatana): tầng trời thứ tư, tầng tột đỉnh của cõi Vô sắc, là tầng cao hơn hết trong ba cõi, nên còn gọi Hữu đảnh thiên.
H2. TRÙNG TỤNG (có 3 phần)
I1. Kệ Tụng Nêu Chung Hành Xứ Và Thân Cận Xứ
I2. Kệ Tụng Giải Thích Riêng Hành Xứ Và Thân Cận Xứ
I3. Nói Rõ Thế Nào Hạnh Thân An Lạc Được Thành Tựu
I1. KỆ TỤNG NÊU CHUNG HÀNH XỨ VÀ THÂN CẬN XỨ
Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Nếu có vị Bồ-tát
Trong đời ác sau này
Tâm không hề sợ hãi
Mà muốn nói kinh này
Nên trụ trong “hành xứ”
Cùng với “thân cận xứ”.
Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:
Nhược hữu Bồ-tát
Ư hậu ác thế
Vô bố úy tâm
Dục thuyết thử kinh
Ưng nhập hành xứ
Cập thân cận xứ
Ngay lúc ấy, Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn muốn giảng ý này cặn kẽ hơn một chút, nên lại dùng kệ tụng để nói.
“Nếu có vị Bồ-tát”: giả sử có Bồ-tát Ma-ha-tát. Vị Bồ-tát Ma-ha-tát này cũng chính là hàng Bồ-tát phát tâm, Đại Bồ-tát hành Bồ-tát đạo.
“Trong đời ác sau này, tâm không hề sợ hãi, mà muốn nói kinh này”, tức vào đời ác ở tương lai, không có tâm lý sợ hãi, muốn nói bộ “Kinh Pháp Hoa” này, “nên trụ trong hành xứ, cùng với thân cận xứ”: cần vào chỗ an lạc mà hành đạo, và gần gũi chỗ nên gần gũi.
I2. KỆ TỤNG GIẢI THÍCH RIÊNG HÀNH XỨ VÀ THÂN CẬN XỨ (có 2 phần):
J1. Thân Cận Xứ Là Tránh Xa
J2. Thân Cận Xứ Là Không Tránh Xa Không Gần Gũi (Phi Viễn Phi Cận)
J1. THÂN CẬN XỨ LÀ XA RỜI
Thường xa rời quốc vương
Và con của quốc vương
Các đại thần, quan trưởng
Kẻ chơi trò hung hiểm
Cùng bọn Chiên-đà-la
Hàng ngoại đạo, Phạm-chí
Thường ly quốc vương
Cập quốc vương tử
Đại thần quan trưởng
Hung hiểm hý giả
Cập Chiên-đà-la
Ngoại đạo Phạm-chí.
Bồ-tát tu Bồ-tát đạo “thường xa rời quốc vương”: nên tránh xa nhà vua ra một chút, chớ gần gũi; “và con của quốc vương”: cũng không nên gần gũi thái tử con vua; “các đại thần, quan trưởng”: cũng không nên gần gũi những người làm quan; “kẻ chơi trò hung hiểm”: những người diễn các trò võ thuật; “cùng bọn Chiên-đà-la”: hạng người làm nghề đồ tể, giết heo, bò, dê, loại người này cũng không nên gần gũi. “Hàng ngoại đạo, Phạm-chí”: và tất cả hạng người ngoại đạo. Ngoại đạo tức là người tu theo pháp của đạo khác; Phạm-chí cũng là tên của một loại ngoại đạo, còn gọi là “Bà-la-môn”.
Cũng không nên gần gũi
Hạng người tăng thượng mạn
Hàng học giả tham đắm
Kinh, Luật, Luận Tiểu thừa.
Những Tỳ-kheo phá giới
Danh tự A-la-hán
Và những Tỳ-kheo-ni
Người thích chơi giỡn cười.
Kẻ đắm mê năm dục
Cầu hiện đời diệt độ
Cùng các Ưu-bà-di
Đều chớ có gần gũi.
Diệc bất thân cận
Tăng thượng mạn nhân
Tham trước Tiểu thừa
Tam Tạng học giả
Phá giới Tỳ-kheo
Danh tự La-hán
Cập Tỳ-kheo-ni
Hiếu hý tiếu giả
Thâm trước ngũ dục
Cầu hiện diệt độ
Chư Ưu-bà-di
Giai vật thân cận
“Cũng không nên gần gũi, hạng người tăng thượng mạn”: cũng nên tránh xa hạng người tăng thượng mạn ra một chút; “hàng học giả tham đắm; Kinh, Luật, Luận Tiểu thừa”: cũng không nên gần gũi những người tham đắm pháp Tiểu thừa, tu hạnh Thanh văn, Duyên giác, không phát tâm Đại thừa. Ba tạng giáo điển Kinh, Luật, Luận của Tạng giáo[1] chính là giáo pháp của Tiểu thừa; hạng người chuyên tu giáo lý Tam Tạng này, cũng không nên gần gũi.
“Những Tỳ-kheo phá giới, danh tự A-la-hán”: Tỳ-kheo không giữ giới luật, hoặc kẻ mạo xưng A-la-hán, chỉ có tên gọi A-la-hán mà không có đạo đức của bậc A-la-hán; “và những Tỳ-kheo-ni, người thích chơi giỡn cười”: cùng với hạng Tỳ-kheo-ni phá giới, và những người thích chơi đùa, thích nói cười. “Kẻ đắm mê năm dục, cầu hiện đời diệt độ”: vì những người này đắm trước ngũ dục, dính mắc nơi “sắc, thanh, hương, vị, xúc”, hoặc “tài, sắc, danh, thực, thùy”, muốn cầu được diệt độ trong hiện đời.“Cùng các Ưu-bà-di, đều chớ có gần gũi”: và các Ưu-bà-di; những hạng người này đều chớ nên gần gũi.
Nếu những hạng người này
Vì tâm tốt mà đến
Tại chỗ của Bồ-tát
Để cầu nghe Phật đạo.
Bồ-tát thời nên dùng
Tâm không chút sợ hãi
Cũng không lòng mong cầu
Mà vì họ nói pháp.
Nhược thị nhân đẳng
Dĩ hảo tâm lại
Đáo Bồ-tát sở
Vị văn Phật đạo
Bồ-tát tức dĩ
Vô sở úy tâm
Bất hoài hy vọng
Nhi vi thuyết pháp
“Nếu những hạng người này”: giả sử những hạng người này – hạng tăng thượng mạn, Tỳ-kheo phá giới, Tỳ-kheo-ni phá giới, Ưu-bà-tắc phá giới, Ưu-bà-di phá giới và hạng Chiên-đà-la làm nghề đồ tể nêu ở trên. “Vì tâm tốt mà đến, tại chỗ của Bồ-tát, để cầu nghe Phật đạo”: với tâm cầu đạo, muốn gần gũi Tam Bảo, những hạng người trên đến chỗ của vị tu tập Bồ-tát đạo, mong được nghe Phật pháp; “Bồ-tát thời nên dùng, tâm không chút sợ hãi”: vị tu hạnh Bồ-tát này phải nên dùng tâm không sợ hãi; “cũng không lòng mong cầu, mà vì họ nói pháp”: trong lúc này, không nên có tâm tham lam, tâm phan duyên, tâm ham muốn được cúng dường, tâm mong cầu mà nói pháp cho họ.
Những gái góa, gái trinh
Và các kẻ bất nam
Đều chớ có gần gũi
Kết giao hay bè bạn.
Cũng chớ có gần gũi
Kẻ đồ tể, khôi khoái
Săn bắn và chài lưới
Vì lợi mà giết hại.
Bán thịt để sinh sống
Kẻ bán sắc buôn hương
Những hạng người như thế
Đều chớ có gần gũi.
Quả nữ xử nữ
Cập chư bất nam
Giai vật thân cận
Dĩ vi thân hậu
Diệc mạc thân cận
Đồ nhi khôi quái
Điền liệp ngư bộ
Vị lợi sát hại
Phiến nhục tự hoạt
Huyễn mại nữ sắc
Như thị chi nhân
Giai vật thân cận
“Những gái góa, gái trinh”: gái góa tức là phụ nữ có chồng qua đời. Gái trinh là những cô gái chưa kết hôn, chưa từng gần gũi phái nam. “Và những kẻ bất nam”: năm hạng chẳng phải là người nam: sanh bất nam, đố bất nam, kiền bất nam, biến bất nam, bán bất nam. Những hạng người như thế “đều chớ có gần gũi, kết giao làm bè bạn”: đều không nên gần gũi và kết bạn với họ.
“Cũng chớ có gần gũi”: cũng không nên gần gũi”; “kẻ đồ tể, khôi khoái”: đồ tể, tức hạng người giết heo, bò… Khôi khoái, tức người đứng đầu, chỉ đạo giết; khoái, cũng là một loại người giết thịt bán. “Săn bắn và chài lưới”: những người săn bắn thú, chài cá, bắt chim. “Vì lợi mà giết hại”: vì liên quan đến lợi ích cá nhân mà giết hại chúng sanh. “Bán thịt để sinh sống”: hoặc loại người buôn bán các thứ thịt để duy trì cuộc sống của mình. “Kẻ bán sắc buôn hương”: những cô gái chuyên trang điểm thật đẹp để làm nghề bất chính. “Những hạng người như thế, đều chớ có gần gũi”: những hạng người giống như đã nói trên, đều không nên gần gũi.
Các trò chơi hung hiểm
Đùa cợt, chơi giỡn cười
Và những hạng dâm nữ
Tuyệt đối chớ nên gần.
Chớ riêng ở chỗ khuất
Nói pháp cho người nữ.
Nếu vì họ nói pháp
Chẳng được vui nói cười.
Khi vào xóm khất thực
Phải dắt một Tỳ-kheo
Nếu không có Tỳ-kheo
Phải một lòng niệm Phật.
Như thế thời gọi là
“Hành xứ”, “thân cận xứ”
Dùng hai xứ trên đây
Có thể an lạc nói.
Hung hiểm tương phác
Chủng chủng hy hý
Chư dâm nữ đẳng
Tận vật thân cận
Mạc độc bình xứ
Vị nữ thuyết pháp
Nhược thuyết pháp thời
Vô đắc hý tiếu
Nhập lý khất thực
Tương nhất Tỳ-kheo
Nhược vô Tỳ-kheo
Nhất tâm niệm Phật
Thị tắc danh vi
Hành xứ cận xứ
Dĩ thử nhị xứ
Năng an lạc thuyết
“Các trò chơi hung hiểm”: tức học võ nghệ đấu với nhau, anh đánh tôi, tôi đánh lại anh; “đùa cợt, chơi giỡn cười”: những hành vi nô đùa, chơi giỡn; “và những hạng dâm nữ”: cùng những người nữ buôn bán sắc đẹp không chính đáng. “Tuyệt đối chớ nên gần”: chớ nên gần gũi họ.
“Chớ riêng ở chỗ khuất, nói pháp cho người nữ”: khi chỉ có một mình người nam, không được ở chỗ khuất nói pháp cho người nữ nghe. Chỗ khuất (bình xứ) tức là nơi bị che chắn lại, người khác không trông thấy. “Nếu vì họ nói pháp, chẳng được vui nói cười”: nếu cần phải nói pháp, chớ nói cười vui vẻ, vừa giảng pháp vừa cười, vừa cười vừa nói pháp, chớ nên như thế!
“Khi vào xóm khất thực, phải dắt một Tỳ-kheo”: người tu Bồ-tát đạo, khi vào xóm làng hoặc ra phố chợ khất thực, cần phải đi hai người, tức là phải có một Tỳ-kheo khác cùng đi. “Nếu không có Tỳ-kheo, phải một lòng niệm Phật”: nếu không có Tỳ-kheo khác cùng đi thì nên trang nghiêm cung kính, nhất tâm niệm “ Nam mô A-di-đà Phật”, hoặc “ Nam mô Thích-ca Mâu-ni Phật”.
“Như thế thời gọi là: hành xứ, thân cận xứ”: những điều đã nêu trên, chính là chỗ tu hành và chỗ gần gũi của người tu tập Bồ-tát đạo. “Dùng hai xứ trên đây, có thể an lạc nói”: an trụ nơi hành xứ và thân cận xứ này, sẽ được an lạc, có thể thuyết pháp cho đại chúng mà không hề lo sợ.
Quý vị niệm “Chú Đại Bi”, nếu thành tâm thì việc mua đạo tràng của chúng ta sẽ thành công; bằng không thì sẽ không thành công. Không thành công, sẽ không có đạo tràng; nếu không có đạo tràng, thì không thể nào giảng kinh thuyết pháp. Tối hôm nay là buổi tối cực kỳ quan trọng. Bởi vì tối nay, nếu như thành tâm niệm “Chú Đại Bi”, ngày mai sẽ chiêu cảm khiến cho họ đồng ý giá cả của chúng ta; nếu họ đồng ý, chúng ta sẽ có một đạo tràng. Ý tôi là nhất định phải thành công, không được thất bại! Vì sao? Hơn ba mươi năm trước, tôi đã rất thích vùng đất này; nhưng bấy giờ giá của nó quá mắc, đến sáu mươi hai ngàn. Đến giờ, họ lại bảo sẽ giảm giá, còn năm mươi lăm ngàn; bây giờ, nếu giá khoảng chừng năm mươi ngàn thì chúng ta mua được. Chúng ta nhất định phải thành công, nếu không thì nơi này của chúng ta không đủ sử dụng; vì vậy, tôi hy vọng mọi người thành tâm hơn nữa khi niệm “Chú Đại Bi” vào buổi tối hôm nay.
Thêm nữa, chúng ta phải mời người vào làm hội viên ở chỗ chúng ta, người đã quy y, thì nhất định họ sẽ làm hội viên; còn người chưa quy y, nếu ai bằng lòng làm hội viên lâu dài, thì chúng ta vẫn rất hoan nghênh.
Đạo tràng xây dựng càng lớn càng tốt, có thể chứa được mấy trăm ngàn người, giống như một doanh trại lớn của quân đội vậy. Đạo tràng rộng lớn này của chúng ta cũng chứa được mấy trăm ngàn, mấy triệu, mấy chục triệu người, phải rộng lớn như thế.
Mỗi vị đều nên phát nguyện xây dựng đạo tràng. Đừng sợ nhiều, đạo tràng càng nhiều càng tốt! Mỗi gia đình đều biến thành một đạo tràng, như thế càng hay! Mỗi cá nhân biến thành một đạo tràng, được thế lại càng tốt! Thậm chí toàn thế giới đều biến thành một đạo tràng lớn, khi ấy, sẽ không một ai sát sanh, cũng không ai trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, cũng không có ai uống rượu! Những người bán rượu đều sẽ thất nghiệp, vì không còn người uống.
1. [1]Tạng giáo: Gọi đủ: Tam tạng (kinh, luật, luận) giáo, chỉ cho Tiểu thừa giáo. Tức là Đức Phật nói riêng Tứ đế sinh diệt cho hàng Tam thừa, phân tích Không quán cùng đoạn Kiến, Tư hoặc, khiến họ vào Niết-bàn vô dư.
2. Thông giáo: chỉ cho giáo pháp Bát-nhã, nghĩa dung thông cả Tiểu thừa và Đại thừa, bao hàm đạo lý vừa sâu xa kín nhiệm vừa rõ ràng dễ hiểu, tức là Đức Phật nói Tứ đế vô sinh cho hàng Tam thừa, khiến họ cũng vào Niết-bàn vô dư.
3. Biệt giáo: chỉ cho giáo pháp trong các kinh Phương đẳng (kinh Đại thừa). Tức là Đức Phật nói Tứ đế vô lượng riêng cho hàng Đại Bồ-tát, không chung cho hàng Nhị thừa, dùng Tam quán (Không quán, Giả quán, Trung quán) theo thứ tự phá Tam hoặc (Kiến tư hoặc, Trần sa hoặc & Vô minh hoặc), khiến họ chứng lý “Đãn trung” (lý Trung quán).
4. Viên giáo: chỉ cho giáo nghĩa kinh Hoa Nghiêm, tức là Đức Phật nói Tứ đế vô tác cho hàng Bồ-tát, dùng Tam quán viên dung (Tức không, Tức giả, Tức trung) cùng đoạn Tam hoặc, khiến chứng lý “Bất đãn trung” (lý Trung đạo).
(Phật Quang Đại Từ Điển)