GIẢI THÍCH SƠ LƯỢC
KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM
Tam tạng Sa Môn Thực Xoa Nan Đà người nước Vu Điền dịch vào đời Đường.
Tuyên Hóa Thượng Nhơn chùa Vạn Phật Thành Hoa Kỳ giảng thuật năm 1975 giảng tại Chùa Kim Sơn Thiền Tự, San Fransisco.
Phẩm Hiền Thủ
Quyển thứ 12
(Tiếp theo phần 1)
Hôm nay, chúng ta bắt đầu đả Thiền thất, tuần trước, chúng ta đả Đại Minh thất, tôi không biết quý vị đã “minh” (sáng, giác ngộ) hay chưa? Bây giờ, lại đả Thiền thất, Thiền thất này so với Đại Minh thất thì hơi vất vả, càng không dễ ngồi, nhưng quý vị vẫn phải thử một lần xem. Bây giờ tôi nói cho quý vị nghe phương pháp đả Thiền thất. Mỗi người nếu có thể ngồi kiết già thì tốt hơn, khi ngồi đừng sợ đau chân, có thể nhẫn chịu được thì nhẫn; nếu nhẫn chiu không được thì mới buông chân ra, nhưng tốt nhất là nên chịu đau, đây là vấn đề chân. Lưng ngồi phải thẳng, đầu cũng phải ngay, không cúi về trước mà cũng không ngửa về sau. Nếu buồn ngủ thì đứng lên một chút; nếu chân của quý vị đau quá thì cũng có thể đứng lên một chút, đứng cũng là tham thiền.
Đầu lưỡi chạm nóc họng, có nước bọt thì nuốt vào trong bụng. Nuốt vào chỗ nào trong bụng? Đó là nuốt vào đan điền, ở phía sau rốn, đem nó để ở chỗ đó. Nước bọt này gọi là tự gia thủy, ba chữ tự gia thủy này hợp lại gọi là chữ dược. Quý vị thường thường nuốt tự gia thủy này vào trong bụng thì có thể trị được trăm thứ bệnh, cho nên quý vị đừng xem nhẹ điểm này. Cần phải mắt quán mũi, mũi quán miệng, miệng thì quán tâm, quý vị nên quán sát như thế. Quý vị muốn thamthiền thì tham ‘Niệm Phật là ai’- người nào niệm Phật? Muốn niệm sáu chữ chú Đại Minh cũng được.
Tóm lại, bảo cái tâm của quý vị phải thành thật, đừng rời niệm tu đạo này. Quý vị cứ giữ một niệm tu đạo, một niệm tham thiền này miên mật thì quý vị ngồi đó chẳng phải ngủ gục, nhưng không biết việc xảy ra bên ngoài, mà bên trong luôn luôn tỉnh thức, niệm này cứ liên tiếp nhau không hề gián đoạn.
Cho nên, tôi nói cho quý vị nghe bốn câu kệ, quý vị tham gia Thiền thất thì phải căn cứ vào ý nghĩa này để tu hành, để tham thiền.
Đi đứng ngồi nằm
Không rời cái này
Hễ rời cái này
Thì bỏ lỡ ngay.
Hành trụ tọa ngọa
Bất ly giá cá
Ly liễu giá cá
Tiện thị thác quá.
Đi đứng nằm ngồi, không rời cái này tức là không rời niệm tham thiền này; nếu quý vị xa rời niệm này thì dù có Phật ở ngay trước mặt quý vị, quý vị cũng không nhận biết được, cũng để lỡ mất cơ hội. Cho nên mỗi người chúng ta đừng để ngay đó lỡ mất diệu dụng tham thiền. Một lát nữa, quý vị hãy chăm chỉ dụng công, hy vọng sẽ có khai ngộ, biết được chính mình đi đường là dùng chân hay là dùng đầu để đi? Biết rõ lý lẽ rồi, thì biết lỗ mũi của quý vị rốt cuộc là hướng lên trên hay hướng xuống dưới? Quý vị thanh toán xong món nợ này rồi thì không còn mơ hồ nữa.
Sau này, mỗi ngày cứ đến bảy giờ tối giảng kinh, trước khi giảng kinh không cần niệm chú, cũng không cần tụng kinh gì cả. Vì khi đả Thiền thất cũng không niệm kinh, cũng không niệm chú, những pháp sự khác cũng không làm. Bảy giờ tối là giảng khai thị, giảng đến tám giờ rưỡi hoặc chín giờ thì tiếp tục tham thiền.Khi hết giờ giảng thì mọi người có thể nhân lúc này để đi thay y phục.
Tốt nhất là quý vị hãy mặc thêm nhiều quần áo, có nóng nực một chút cũng không sao, đừng để bị lạnh. Mấy ngày trước, rất nhiều người bị lạnh, cảm thấy không được khỏe. Đả thất đừng để cơ thể đả ra bệnh, đả ra bệnh thì thật vất vả. Cho nên trong lúc giảng kinh xong, quý vị có thể phương tiện làm việc riêng của mình, hoặc là thay quần áo, hoặc là đến nhà vệ sinh rửa tay v.v… trong khoảng thời gian mười phút, sau đó thì tiếp tục tọa thiền.
Chúng ta tọa thiền thì phải dùng một chút sức lực, dùng một chút tâm nhẫn nại, ngồi một cách tinh tiến, đừng biếng nhác. Khi quý vị chưa khai ngộ, chưa đạt được đại trí tuệ thì không thể biếng nhác. Vậy thì sau khi khai ngộ, đạt được đại trí tuệ, dù có bảo quý vị biếng nhác thì quý vị cũng không biếng nhác. Cho nên hiện tại chúng ta phải nỗ lực phấn chấn tinh thần, xem thử ai khai ngộ trước? Ai khai ngộ trước, thì người đó là hạng nhất.
Có người nói: “Ồ! Tôi không muốn làm hạng nhất, cho nên tôi cũng không cần khai ngộ!”. Nói thế là quý vị sai rồi, quý vị có thể khai ngộ, nhưng cũng có thể không cần làm hạng nhất mà! Quý vị không cần hạng nhất cũng được, nhưng không thể không khai ngộ, đúng không? Cho nên đừng tính nhầm số, quý vị học toán phải học cho thật giỏi.
卍 卍 卍
Quả Đồng thích xem phim, tôi bảo với y: Thế giới này là một bộ phim. Nếu con hiểu thì biết là con đang đóng phim; nếu con không hiểu thì con đang đóng một bộ phim hồ đồ. Y nói: Dạ đúng thế! Tôi nói: Tôi diễn phim của tôi, con diễn phim của con, mỗi người đều diễn phim của chính họ. Y nói: Dạ đúng thế! Đây là phim trong phim. Phim, phim, tiếp tục diễn phim của mình. Tôi nói: Tiếp tục diễn phim của mình, thì chết rồi! Thì giống như nằm mộng, nằm mộng, lại nằm mộng, rồi sau đó tỉnh lại. Chúng ta ở trên thế giới này giống như một giấc mộng, tỉnh thì mộng này kết thúc, không tỉnh thì mộng này cứ tiếp tục kéo dài. Phim cũng giống như thế.
Nếu dùng trí tuệ làm tiên đạo
Thân, ngữ, ý nghiệp thường không lỗi
Thì nguyện lực kia được tự tại
Tùy ý hiện thân khắp các loài.
Nhược dĩ trí năng vi tiên đạo
Thân ngữ ý nghiệp hằng vô thất
Tắc kỳ nguyện lực đắc tự tại
Phổ tùy chư thú nhi hiện thân.
Nếu dùng trí tuệ làm tiên đạo: nếu quý vị dùng trí tuệ làm thầy dẫn đường, làm điều kiện trước nhất giáo hóa chúng sinh thì thân, ngữ, ý nghiệp thường không lỗi: nếu thân, ngữ, ý nghiệp của quý vị thường không phạm lỗi, thì có thể giáo hóa rất nhiều chúng sinh đều phát tâm bồ-đề.
Bài kệ tụng này có chỗ thì chỉ có nửa bài, tức là chỉ có hai câu; có chỗ thì một bài bốn câu, nhưng đều liên tiếp nhau, ý nghĩa nối liền xuyên suốt, tiếp tục không gián đoạn.
Thì nguyện lực kia được tự tại: đây là nói thân, ngữ, ý nghiệp của quý vị thường không lỗi, quý vị không tạo mười điều ác, phụng hành mười điều lành. Mười điều ác là những gì? Là thân có ba nghiệp ác: sát, đạo, dâm, đây là ba tội ác do thân nghiệp tạo ra. Sát sinh thì bao gồm tự sát, hoặc bảo người sát, hoặc nhân sát, duyên sát, pháp sát, nghiệp sát, đều bao gồm trong đó. Chúng ta sát sinh là mầm móng của chiến tranh thế giới, cho nên nói:
Nghìn trăm năm nay trong bát canh
Oán hận tợ biển khó lấp đầy
Muốn biết trên đời nạn đao binh
Lặng nghe tiếng rống lúc phanh thây.
Thiên bách niên lai uyển lý canh
Oán thâm tợ hải hận nan bình
Dục tri thế thượng đao binh kiếp
Thức thính đồ môn dạ bán thanh
Nghìn trăm năm nay trong bát canh : mà chúng ta đã ăn, canh tức là nước canh thịt, hoặc là canh thịt bò, hoặc là canh thịt dê, hoặc là canh thịt heo, hoặc là canh thịt ngựa, thịt lừa, thịt mèo, thịt chó… Các loại canh thịt mà trăm nghìn năm nay con người ăn đều là canh thịt của tất cả chúng sinh. đây gọi là Nghìn trămnăm nay trong bát canh.
Oán hận tợ biển khó lấp đầy: Oán khí trong bát canh đó sâu giống y như biển cả, anh giết tôi, tôi giết anh, giết qua giết lại không ngừng, không thể dừng nghỉ. Cũng giống y như đạo lý của việc xem phim vậy, anh giết tôi thì tôi giết anh. Anh giết tôi, ăn thịt tôi thì một lúc nào đó tôi giết lại anh, ăn thịt anh, ăn thịt lẫn nhau. Khi anh ăn thịt tôi thì tôi cảm thấy rất đau khổ, mà anh thì cảm thấy rất sung sướng; đến lúc tôi ăn thịt anh thì anh cảm thấy rất đau khổ, nhưng tôi thì cảm thấy rất sung sướng. Thế gian này chính là sự tuần hoàn của quả báo, cứ xoay mãi không dừng. Oán này chính là oán thù, thù hận này sâu giống như biển, cho nên không dễ dàng làm cho nó khỏa bằng lại được. Lúc nào cũng có một cái hố sâu, sâu thẳm không bằng phẳng, cho nên nói oán hận khó lấp đầy.
Muốn biết trên đời nạn đao binh: các nước trên thế giới chiến tranh giết hại lẫn nhau, anh giết tôi, tôi giết anh, quốc gia này đem quân đội đi đánh quốc gia khác, nhả đạn, thả đại bát đã giết không biết bao nhiêu sinh mạng, đây gọi là kiếp đao binh. Nếu quý vị muốn biết nhân duyên của người chết trong chiến tranh trên thế giới, vì sao phải bị kiếp số đao binh này, thì Lặng nghe tiếng rống phanh thây lúc nữa đêm.: Đêm khuya thanh vắng, quý vị nên lắng nghe thử âm thanh nơi lò mổ heo, lò giết bò, lò giết dê là những âm thanh gì! Đó là tiếng heo rống, bò rống, dê rống. Chúng nó rống rằng: “Ồ! Ngươi giết ta đi, tương lai nhất định ta cũng giết ngươi!”. Đây là giết qua giết lại, giết tới giết lui giết mãi không dừng.
Cho nên người tin Phật chúng ta đa số phải ăn chay, phải ăn rau cải. Rau cải vốn cũng có sinh mạng, nhưng sinh mạng đó nhẹ một chút, là vật vô tình. Vật có thịt, có khí huyết đều là hữu tình, chúng ta ăn cỏ cây rau quả vô tình này, tuy cũng có mang tính sát trong đó, cũng có nhân sát trong đó, cũng có pháp sát trong đó, cũng có nghiệp sát trong đó, nhưng không phải rõ ràng như thế, vẫn nhẹ hơn so với ăn thịt, cho nên người tu đạo đều ăn chay mà không ăn thịt.
Tôi giảng thêm một chút về chữ nhục (thịt) này, chữ nhục ở trong văn tự Trung Quốc có một cấu tạo rất đặc biệt:
Chữ nhục 「肉」bên trong có hai người 「人」
Người trong chụp tiếp người bên ngoài
Chúng sinh lại ăn thịt chúng sinh
Xét kỹ chính là người ăn người.
Nhục tự lý biên lưỡng cá nhân
Lý biên trạo trước ngoại biên nhân
Chúng sanh hoàn ngật chúng sanh nhục
Tử tế tư lượng nhân ngật nhân.
Chữ nhục bên trong có hai người: trong chữ nhục này có hai chữ nhân. ㄇ vốn là chữ khẩu, chữ khẩu này bên dưới không có một gạch ngang, cho nên cái miệng này hả ra. Miệng hả để làm gì? Để ăn người. Cho nên một người bị nuốt vào trong bụng, một người thì còn ở ngoài, đây chính là chữ nhục bên trong có hai người.
Người trong chụp tiếp người bên ngoài: người này ở trong thì tiếp tục chụp lấy người nọ ở ngoài, họ có một sự quan hệ với nhau.
Chúng sinh lại ăn thịt chúng sinh: chúng sinh này tuy là ăn thịt chúng sinh khác, nhưng Xét kỹ chính là người ăn người: nếu quý vị suy nghĩ kỹ một chút, ăn thịt chính là ăn người rồi còn gì! Chỉ chẳng qua người đó đi đầu thai làm súc sinh. Súc sinh và người đều muốn sống chứ không muốn chết. Bất luận là con vật nào, thậm chí đến những sinh vật nhỏ bé như con muỗi mà cũng muốn sống để uống máu người khác, chứ không muốn chết để làm con ma muỗi. Cho nên quý vị hãy xem con muỗi, khi nó cắn quý vị, quý vị vừa nhìn thấy nó thì nó liền bay mất. Chính là nó sợ bị quý vị đánh chết, cũng đồng lý lẽ như vậy. Cho nên nói: chữ nhụcbên trong có hai người, người trong chụp tiếp người bên ngoài, chúng sinh lại ăn thịt chúng sinh, xét kỹ chính là người ăn người.
Đã là người ăn người, quý vị thử nói người này có phải là hàng xóm của tôi không? Hoặc là bạn bè của tôi chăng? Điều này không thể biết được. Quý vị không biết người đã thác sinh làm heo, làm dê, làm trâu này là ai? Quý vị đi ăn thịt nó, nếu người này là bạn tốt đời trước của quý vị, hoặc là hàng xóm của quý vị thì còn coi là bình thường. Người này hoặc giả chính là bà con quyến thuộc, họ hàng thân thích của quý vị, mà bà con quyến thuộc thì cũng còn xem là xa. Người này đôi khi chính là cha hay mẹ đời trước của quý vị. Vì cha mẹ đời trước của quý vị đâu phải nhất định đều làm việc lành, có khi đời này ông ta làm heo, làm dê, làm trâu cũng không chừng.
Đức Phật nói: “Dê lại làm người”, dê đã có thể làm người, thì người đương nhiên cũng có thể làm dê thôi! Con người vì sao thông minh hơn tất cả chúng sinh? Là vì linh tánh của con người vẫn còn nguyên vẹn, linh tánh của súc sinh thì bị phân tách, phân tách thì bị ít đi. Cho nên người làm súc sinh này hoặc giả chính là cha mẹ đời trước của ta. Làm người thì phải hiếu thuận với cha mẹ, cha mẹ của quý vị biến thành heo, thành dê mà quý vị không biết lại đi ăn thịt họ, như vậy là không hiếu thảo. Đã không hiếu thảo thì làm người chẳng có ý nghĩa gì. Cho nên người học Phật chúng ta phải có tâm từ bi, thương yêu bảo hộ tất cả vạn vật chúng sinh, không ăn thịt chúng sinh.
Nói thế thì : “Đạo lý này có gì chứng minh?”. Hẳn có chứng minh, không thể nói một cách tùy tiện được. Vào thời Lương Võ Đế có Chí Công Tổ sư, Ngài đắc ngũ nhãn lục thông. Ngài được sinh ra như thế nào? Chim sinh Ngài ra trong tổ chim. Cho nên bàn tay của Chí Công tổ sư giống như móng của chim, không giống tay người; móng tay cũng rất nhọn giống như móng chim ưng.
Vì sao nói Ngài do chim sinh ra? Vì có một vị thầy nghe trong tổ chim có tiếng khóc của trẻ con, có lẽ ngài đã dùng cái thang leo lên cây, xem thử trong tổ chim kia. “Ô! Trong tổ chim sao lại có thể có đứa bé này? Ôi! Thật là kỳ lạ!” Đứa bé này vừa trắng vừa mập, tướng mạo cũng rất tốt, rất khôi ngô. Thế là, ngài liền ẳm đứa bé từ trong tổ chim đem về nuôi. Sau khi được nuôi lớn thì cậu ta xuất gia tu đạo, vừa tu đạo thì chứng quả, có thần thông, có thể ở trong hư không hiện ra mười tám phép thần biến, thân trên phun ra nước, thân dưới phóng ra lửa, thân dưới phun ra nước, thân trên phóng ra lửa, đạt được cảnh giới vi diệu không thể nói này. Ngài cũng có thần thông có thể bay trong hư không. .
Lúc ấy, có rất nhiều người tin tưởng Ngài Chí Công, biết ngài là một vị pháp sư có thần thông. Phong tục nơi đó là bất luận gia đình có việc gì cũng đều thỉnh chư Tăng đến tụng kinh, tụng kinh ở đây tức là nói những lời cát tường: “tốt lành ra sao, như ý thế nào, sống lâu trăm tuổi như thế nào…” Ví dụ như gặp đứa bé mới sinh thì nói: “Sống lâu trăm tuổi nha!”. Nếu gặp người chết thì nói: “Vãng sinh cực lạc thế giới!”, hoặc gặp người nào bệnh thì đến chỗ họ nói lời cát tường rằng: “Bệnh tình của ông, không dùng thuốc thì sẽ khỏi”, chỉ toàn là nói lời cát tường.
Hôm nọ, có một gia đình giàu có làm lễ kết hôn, cưới cô dâu mới, nên thỉnh Chí Công tổ sư đến nói lời cát tường. Chí Công Tổ sư cũng hằng thuận chúng sinh, “Được rồi, đi thôi!”. Vừa đến nơi, thấy ở trước cửa có đội nhạc công, lại thấy có một đứa bé gái đang ăn một cái móng heo, Chí Công Tổ sư liền nói:
Xưa nay lạ, lạ xưa nay
Cháu nội lấy bà nội
Con gái ăn thịt mẹ
Con đánh trống da cha
Heo dê ngồi vào bàn
Thân quyến hầm trong nồi
Mọi người đến chúc tụng
Tôi thấy thật đau khổ.
Cổ cổ quái,
Quái quái cổ,
Tôn tôn thú tổ mẫu
Nữ thực mẫu chi nhục,
Tử đả phụ bì cổ
Trư dương kháng thượng tọa,
Lục thân qua lý chử
Chúng nhân lai hạ hỷ,
Ngã khán chơn thị khổ.
“Xưa nay lạ, lạ xưa nay! Cháu nội lấy bà nội”: việc này thật lạ lùng từ xưa đến nay, rất là kỳ lạ, cũng thật lạ kỳ. Vì sao? Vì cháu nội đi lấy bà nội, cháu lại đi cưới bà nội về. Việc này như thế nào? Là nhân vì khi đứa cháu này chào đời, bà nội nó nắm tay nó nói: “Chao ôi! Bây giờ tôi không phải lo cho con gái, cũng không phải lo cho con trai, chúng nó đã thành gia thất hết rồi, chúng nói đều có thể tự lo cho bản thân, tôi không phải lo cho đứa nào cả. Chỉ còn đứa cháu này, ai sẽ chăm sóc nó đây? Tương lai ai sẽ giúp đỡ nó? Ôi! Ai sẽ chăm sóc cho nó?”. Bà nhắm mắt lìa đời mà không thể buông đứa cháu kia được. Sau khi bà mạng chung, Vua Diêm-la rất thông cảm nhân tình, nói: “Được rồi! Ngươi đã bỏ không được đứa cháu của ngươi thì ngươi cứ trở lại làm người, làm vợ của cháu ngươi vậy!”. Bà nội này cũng không phản đối, nói: “Có lẽ như vậy cũng tốt chứ!”. Thế là, thần thức bà liền đầu thai làm một đứa bé gái, đúng lúc đứa bé gái này lớn lên thì được đứa cháu trai xưa kia cưới về làm vợ, đây gọi là cháu lấy bà nội.
Chí Công tổ sư lại đến trước hiên nhà xem, nói: “Con gái ăn thịt mẹ”, thịt heo mà đứa bé gái này đang ăn chính là mẹ của cô ta đời trước, nay thác sinh làm heo, nay cô ta đang ăn thịt mẹ mình. Ngài lại đến chỗ ban nhạc, vừa thấy nhóm người tấu nhạc đó thì nói: “Ôi! Con đánh trống da cha”, cái trống mà đứa nhỏ đang đánh kia chính là người cha đời trước của nó, vì ông này đã tạo quá nhiều ác nghiệp, nên thác sinh làm lừa, rồi bị người giết, lột da căng làm trống để cho người tađánh. Quý vị xem, da trống đó kêu tùng tùng tùng, tùng tùng tùng, chính là bị người đánh. Vậy thì đứa con trai đang đánh cái trống chính là đứa con của người bị căng da làm trống.
Ngài lại nhìn đến các dãy bàn rồi nói: “Heo dê ngồi vào bàn”, nói những người thân thích bằng hữu đến chúc mừng gia đình ông ta đều là heo, dê, trâu ở đời quá khứ mà gia đình ông ta đã ăn, nay được thác sinh làm người, làm thân thích với ông ta, lại đến ăn thịt lục thân của ông ta. Ngài lại đến nhìn trong nồi thịt, nói: “Ôi! Thân quyến hầm trong nồi”. Lục thân chính là cha, mẹ, anh, em, vợ con của ông ta. Đời này họ đều làm trâu, làm ngựa, làm dê, làm heo, thịt chúng nó được hầm trong nồi, để cho người làm trâu, làm dê đời trước ngồi ăn, đây là ăn qua ăn lại. “Mọi người đến chúc tụng”, mọi người đến xem nói, hôn lễ này rất vui, là hỷ sự, nhưng “Tôi thấy thật đau khổ”, tôi thấy nhân quả báo ứng trong đây thật là đau khổ!
Vậy thì lấy việc này để chứng minh, người ăn thịt, đối với bản thân tuy là nói thịt dùng để nuôi dưỡng thân mạng, nhưng nếu xét về mặt nhân quả, gieo nhân trước gặt quả sau thì thật là nguy hiểm, quả báo không thể nghĩ bàn.
Nếu bất luận một ai trong chúng ta có thể không ăn thịt, thì sẽ giúp cho thế giới này không có chiến tranh; quý vị ăn thịt thì có thể tạo thành đại chiến của thế giới, đến lúc đó không biết bao nhiêu sinh mạng sẽ phải oan uổng. Tất cả chúng ta đều phải hiểu vấn đề này. Cho nên, nếu muốn thế giới không có chiến tranh, thì chúng sinh không ăn thịt. Chúng ta có thể duy trì thân thể này sinh tồn là được rồi, đâu cần thật mập mới được, cũng đâu cần cho nó ăn thật ngon.
Vì chúng ta ăn vào xuống khỏi cổ họng ba tấc thì đã biến thành đại tiểu tiện. Nếu quý vị ói ra mà bảo ăn vô lại thì làm sao ăn cho được, chứ đừng nói là sau khi đi đại tiện mà bảo ăn thì càng không thể ăn. Đã như vậy thì chúng ta không nên tham ăn món khoái khẩu để phải giết sinh mạng của tất cả chúng sinh. Thân có ba nghiệp ác là sát sinh, trộm cắp, dâm dục. Ý cũng có ba nghiệp ác là tham, sân, si. Chúng ta đừng sinh tâm tham, không luận là vật tốt đến mức nào, cũng không nên sinh tâm tham; không nên sinh tâm sân hận, không sân hận đối với tất cả mọi người; cũng đừng có ngu si, vô minh, phiền não. Miệng có bốn nghiệp ác là nói thêu dệt, nói dối, nói lời ác, nói hai lưỡi. Tổng cộng là mười nghiệp ác. Chúng ta phải phát nguyện đoạn trừ mười nghiệp ác này và vâng giữ mười nghiệp thiện. Nếu quý vị không làm mười nghiệp ác này thì chính là hành mười nghiệp thiện.
Cho nên, quý vị có thể không làm mười nghiệp ác, vâng giữ mười nghiệp thiện thì nguyện lực này của quý vị được tự tại. Nguyện lực của quý vị được tự tại, thì Tùy ý hiện thân khắp các cõi: chính là quý vị muốn thị hiện vào cõi nào cũng đều được. Quý vị muốn sinh lên cõi trời cũng được, muốn làm a-tu-la cũng được, muốn làm người cũng được, muốn làm địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh đều được cả; chẳng qua đó là sự quý vị hiện thân chứ không phải đi thọ báo. Hiện thân chính là thị hiện, là đồng sự trong bốn pháp nhiếp của Bồ-tát, dùng phương pháp đồng sự này đi giáo hóa tất cả chúng sinh, cho nên nói: Tùy ý hiện thân khắp các cõi . Quý vị không phải đi thọ báo mà là đi thị hiện làm chúng sinh trong các cõi , làm một tấm gương cho chúng sinh noi theo để phát tâm Bồ-đề.
Nếu nguyện lực kia được tự tại
Tùy ý hiện thân khắp các cõi
Thì khi vì chúng sinh nói pháp
Âm thanh tùy loại khó nghĩ bàn.
Nhược kỳ nguyện lực đắc tự tại
Phổ tùy chúng thú nhi hiện thân
Tắc năng vị chúng thuyết pháp thời
Âm thanh tùy loại nan tư nghì.
Nếu nguyện lực kia được tự tại: quý vị phát nguyện mà được tùy tâm mãn nguyện thì tức là nguyện lực tự tại. Quý vị có thể phát nguyện làm lợi ích cho người khác, giúp đỡ tất cả chúng sanh, thì nguyện lực này của quý vị sẽ được tự tại. Cũng có thể Tùy ý hiện thân khắp các cõi: quý vị dùng thần thông diệu dụng để tùy ý hiện thân vào khắp các cõi để giáo hóa chúng sanh.
Thì khi vì chúng sinh nói pháp: nếu quý vị có thể đạt được nguyện lực tự tại, Tùy ý hiện thân khắp các cõi, thì khi diễn thuyết diệu pháp cho tất cả chúng sanh nghe, Âm thanh tùy loại khó nghĩ bàn: âm thanh của quý vị tức là có thể dùng một âm diễn thuyết pháp, chúng sanh tùy loại đều được hiểu (Năng dĩ nhất âm diễn thuyết pháp, chúng sinh tùy loại các đắc giải). Quý vị có thể đạt được loại cảm ứng đạo giao này. Khi quý vị diễn thuyết diệu pháp thì tất cả chúng sanh đều đến nghe, đều được lợi ích, đây gọi là Âm thanh tùy loại khó nghĩ bàn.
Vừa rồi, tôi giảng về vấn đề thịt và không nên ăn thịt thì có người nói: “Hiện tại tôi ăn thịt là bởi vì lúc trước cũng đã bị người khác ăn thịt, cho nên bây giờ tôi cũng phải ăn thịt chúng sanh. Nếu bây giờ tôi không ăn thịt chúng sanh, thì việc trao đổi này sẽ không lấy được nợ cũ ư? Không có lợi nhuận ư?”. Đúng! Lúc trước quý vị bị người khác ăn, nên bây giờ quý vị phải ăn thịt chúng sanh, vậy thì ăn qua, ăn lại kiểu này chính là người ăn người rồi!
Lúc trước, tôi có một đệ tử quy y, ông này rất thích ăn thịt, thịt gì cũng ăn, hễ là thịt thì ăn. Không luận là thịt mèo, thịt chó, thịt chuột, thịt cóc, ếch, nhái, tất cả vật có thịt thì ông ta đều muốn ăn. Tôi hỏi ông ta: “Anh ăn thịt những chúng sanh đó, anh có thấy ngon không?”. “Rất ngon”. “Nếu như nó ăn thịt anh thì anh sẽ cảm thấy thế nào?”. “Thì con không vui, con chịu không được!”. “Vậy tại sao anh ăn thịt người ta thì anh chịu được, mà người ta ăn thịt anh thì anh không chịu được, như thế thật là bất công!”. Tôi vừa nói vậy thì người này tức khắc phát nguyện ăn chay, vĩnh viễn không còn ăn thịt.
Không chỉ đời này ông ta không ăn thịt mà ông ta phát nguyện đời đời đều không ăn thịt, muốn chấm dứt qua lại nơi lục đạo luân hồi. Nếu chúng ta ăn thịt mà không dụng công tu hành, thì cứ mãi ở trong lục đạo luân hồi để đi luân hồi. Nếu quý vị có thể không ăn thịt, thì sẽ xa rời dần dần với lục đạo luân hồi này.
Nhất là thịt chúng sanh thì ai cũng thích ăn, nhưng tại sao chúng ta lại không ăn? Bởi vì chúng ta muốn có tâm từ bi, muốn có tâm thương yêu bảo hộ chúng sanh. Hễ chúng ta có tâm từ bi thương yêu bảo hộ chúng sanh, thì không muốn ăn thịt chúng sanh, đây là một trong những lý do. Lại nữa, thân thể của chúng ta hễ ăn thịt gì vào thì sẽ biến hóa thành cái ấy. Nếu quý vị không tin, quý vị ăn thịt bò vào thì trên thân quý vị có mùi bò; quý vị ăn thịt heo thì trên thân có mùi heo; quý vị ăn thịt dê thì trên thân có mùi dê; quý vị ăn cá thì trên thân có mùi cá; quý vị ăn thịt mèo thì có mùi mèo, ăn thịt chó thì có mùi chó, ăn thịt chuột thì có mùi chuột.
Có người nói: “Việc này tôi không tin, tôi đã từng ăn rồi nhưng trên thân cũng đâu có mùi gì”. Quý vị không tin là vì quý vị không hiểu, quý vị không có nghiên cứu qua. Đừng nói là ăn thịt, cứ lấy việc ăn hành để nói, quý vị ăn hành thì khắp thân tiết ra mồ hôi đều là mùi hành; quý vị ăn tỏi thì trong miệng có mùi tỏi; quý vị uống sữa bò thì trên thân tiết ra mồ hôi đều là mùi sữa bò. Đã như thế thì quý vị ăn gì há không dễ dàng biến thành cái ấy hay sao?
Quý vị ăn thịt heo nhiều thì biến thành heo; ăn thịt chó nhiều thì biến thành chó; ăn thịt chuột nhiều thì biến thành chuột; ăn thịt mèo nhiều thì biến thành mèo; ăn thịt dê nhiều thì biến thành dê; ăn thịt bò nhiều thì biến thành bò. Đây là một đạo lý nhất định, vì quý vị kết giao với nó, kết thành đoàn thể với nó. Cho nên, nếu quý vị muốn chấm dứt luân hồi trong lục đạo, muốn tách rời với chúng sanh, tách rời với súc sinh, không làm súc sinh, thì trước tiên phải không ăn thịt chúng sanh. Ai có câu hỏi gì cần hỏi không?
Đệ tử:
- Lúc trước Sư Phụ nói: Người ăn cá thì không thể biến thành cá?
Thượng Nhân:
- Tôi nói như thế khi nào? Chuyện này cần nói rõ, giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào và ở đâu, khi tôi giảng kinh gì nói? Điều này phải có căn cứ, phải “Tôi nghe như vầy, một thời sư phụ ở chùa Kim Sơn, cùng Quả Ninh, Quả Hộ, Quả Thượng, Quả Hạ, Quả Đại, Quả Tiểu... nói….”. Hoặc là đôi khi quý vị nghe nhầm cũng không chừng. Người ta nói: “Đừng nói chuyện” thì quý vị lại bảo: “Ăn rồi không tiêu hóa”. Người ta nói: “Người nữ nước Anh kia” thì quý vị lại bảo: “Ồ! Sư phụ nói tôi đời trước là người nữ nước Anh”. Cho dù quý vị nói là tôi có nói, nhưng quý vị chưa nghe, thì phải tìm một bằng chứng. Bây giờ quý vị đem hỏi ngang như vậy thì tôi không biết đã nói như thế khi nào, sở dĩ anh muốn ăn cá ư?
Con người không chỉ có thể biến thành cá, mà còn có thể biến thành tất cả chúng sanh, chứ đừng nói là không thể biến thành cá. Cá cũng là một trong những chúng sanh mà! Cá đâu phải là ở ngoài vòng chúng sanh đâu. Nó cũng là loài có sinh mạng. Hoặc là vì biết quý vị thích ăn cá, nên mọi người nói với quý vị như thế, để quý vị ăn cá nhiều một chút, hiểu không? Tóm lại, thức ăn ngon chừng nào thì ăn vào nó sẽ hôi nhiều chừng nấy. Con người chính là cái máy tạo phân. Ví dụ như quý vị ăn thịt thì đại tiện kia hôi không thể chịu nổi, nhưng nếu quý vị ăn rau thì không hôi như thế. Tóm lại, vật ngon mà vào đến bụng thì cũng biến thành dở.
Nếu khi vì chúng sinh nói pháp
Âm thanh tùy loại khó nghĩ bàn
Thì với tâm tất cả chúng sanh
Một niệm biết hết không thừa sót.
Nhược năng vị chúng thuyết pháp thời
Âm thanh tùy loại nan tư nghì
Tắc ư nhất thiết chúng sanh tâm
Nhất niệm tất tri vô hữu dư.
Nếu khi vì chúng sinh nói pháp: đây là nói nếu khi quý vị có thể diễn nói vô lượng vô biên diệu pháp cho chúng sanh nghe, thì Âm thanh tùy loại khó nghĩ bàn: quý vị chỉ dùng một âm thanh diễn thuyết diệu pháp nhưng chúng sanh nào cũng hiểu được, các loại chúng sanh đều có thể hiểu rõ diệu pháp của quý vị thuyết, loại ngôn ngữ đó, loại âm thanh đó đều là của chủng loại của họ, họ đều nghe hiểu được.
Nếu quý vị có thể như thế, Thì với tâm tất cả chúng sanh: thì có thể hiểu rõ tâm của tất cả chúng sanh, Một niệm biết hết không thừa sót: không cần thời gian lâu để quán sát, chỉ cần trong một niệm, quý vị có thể hiểu rõ hết tâm của tất cả chúng sanh, hiểu rõ tâm niệm của tất cả chúng sanh tưởng gì, nghĩ gì ở đâu. Ngần ấy loại tâm của tất cả chúng sanh chứ không phải một loại tâm, thế nhưng trong một niệm mà quý vị có thể biết hết, thấy hết không còn sót, cũng tức là không có cái gì mà không biết.
Nếu với tâm tất cả chúng sanh
Một niệm biết hết không thừa sót
Thì biết phiền não không từ đâu
Không còn chìm đắm biển sinh tử.
Nhược ư nhất thiết chúng sanh tâm
Nhất niệm tất tri vô hữu dư
Tắc tri phiền não vô sở khởi
Vĩnh bất một nịch ư sanh tử.
Nếu đối với tâm tất cả chúng sanh: đây là nói, nếu quý vị có thể đối với tâm của tất cả chúng sanh, Một niệm biết hết không còn dư: trong một niệm, quý vị biết hết tâm niệm của tất cả chúng sanh, Thì biết phiền não không từ đâu: thì quý vị có thể biết rõ phiền não cũng là không. “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, phiền não thì chẳng có cùng tận, nhưng nếu quý vị có thể biết tâm niệm của chúng sanh, ngần ấy loại tâm, quý vị đều biết hết, thì quý vị biết “Phiền não tức Bồ-đề, sinh tử tức Niết-bàn”. Vốn không có phiền não, cho nên phiền não không có khởi. Vì tâm Bồ-đề của quý vị viên mãn thì tâm phiền não của quý vị cũng không khởi.
Không còn chìm đắm biển sinh tử: quý vị đã không có phiền não, thì sinh tử cũng chấm dứt. Cội gốc sinh tử của quý vị đã chấm dứt, không còn phiền não, thì không còn lưu lạc và không còn bị chết chìm trong biển khổ sinh tử. Quý vị không còn chìm đắm trong biển khổ sinh tử, thì chắc chắn sẽ vượt thoát sinh tử. Sinh tử đã liễu thoát thì niệm dục cũng không có. Điều quan trọng nhất trong việc tu đạo chứng quả chính là đoạn dục lìa ái, nếu quý vị không có phiền não, thì cũng không có dục, không có dục thì sinh tử cũng được liễu thoát, vì đây là một sự liên kết.
Nếu biết phiền não không từ đâu
Không còn chìm đắm biển sinh tử
Thì được thân Pháp tánh công đức
Dùng oai lực pháp hiện thế gian.
Nếu được thân Pháp tánh công đức
Dùng oaiy lực pháp hiện thế gian
Thì được Thập Địa, Thập Tự Tại
Tu hành các độ thắng giải thoát.
Nhược tri phiền não vô sở khởi
Vĩnh bất một nịch ư sanh tử
Tắc hoạch công đức Pháp tánh thân
Dĩ pháp oai lực hiện thế gian
Nhược hoạch công đức Pháp tánh thân
Dĩ pháp oai lực hiện thế gian
Tắc hoạch Thập Địa Thập Tự Tại
Tu hành chư độ thắng giải thoát.
Nếu biết phiền não không từ đâu: Nếu quý vị biết rõ phiền não là không có tự tính, nó không có sinh khởi, không có một nơi chốn sinh ra, thì phiền não biến thành Bồ-đề; quý vị không biết rõ như thế thì Bồ-đề cũng biến thành phiền não. Việc này dễ như trở bàn tay. Giống như con người chúng ta không duyên không cớ tự nhiên nổi giận, sinh phiền não, đây là vì vô minh quấy phá, vô minh đến trở ngại quý vị, khiến quý vị sinh phiền não. Nếu quý vị phá vỡ vô minh, thì phiền não tức Bồ-đề.
Không còn chìm đắm biển sinh tử: vĩnh viễn không còn trầm luân trong biển khổ sinh tử luân hồi nơi sáu đường.
Thì được thân Pháp tánh công đức, Dùng oai lực pháp hiện thế gian: lúc này, quý vị sẽ đạt được thân Pháp tánh công đức. Công đức cũng viên mãn, thân Pháp tánh cũng hiện ra. Quý vị dùng oai lực của Pháp tánh để thị hiện rộng khắp ở mười phương thế giới.
Nếu được thân Pháp tánh công đức, Dùng oai lực pháp hiện thế gian: nếu quý vị đạt được thân Pháp tánh công đức này, thì thân Pháp tánh sẽ hiện ở khắp thế giới, dùng oai lực của pháp công đức này hiện khắp thế gian.
Thì được Thập Địa, Thập Tự Tại: thì quý vị sẽ đạt được địa vị Thập Địa, Thập Tự Tại này. Có ai biết Thập Địa là gì không?
Hằng Hiền:
- Hoan Hỷ Địa, Ly Cấu Địa, Phát Quang Địa, Diệm Huệ Địa, Nan Thắng Địa, Hiện Tiền Địa, Viễn Hành Địa, Bất Động Địa, Thiện Huệ Địa, Pháp Vân Địa.
Thượng Nhân:
- Con hãy giải thích lại cho đại chúng nghe.
Hằng Hiền:
- Thập địa là mười giai vị tu hành của Bồ-tát. Giai vị của Bồ-tát vốn có rất nhiều. Trước tiên là có Thập tín, rồi đến Thập trụ, Thập hồi hướng, Thập hạnh, Thập địa. Nhưng khi ở Trụ thứ nhất là Bồ-tát sơ phát tâm Bồ-đề, sẽ viên mãn những giai vị kia, hoàn toàn viên mãn giai vị Thập địa này, đây là một cảnh giới bất khả tư nghị. Nhưng nói đến từng bước từng bước, thì phải tu ở mỗi giai vị như thế, giống như Thập địa:
1) Hoan Hỷ địa: ở giai vị này, Bồ-tát tu pháp môn mười ba-la-mật đáo bỉ ngạn, nhưng họ rất hoan hỷ tu bố-thí, đến đệ nhị địa thì Bồ-tát sẽ hoan hỷ tu trì giới ba-la-mật.
2) Ly Cấu địa: ở giai vị này, Bồ-tát trì giới rất thanh tịnh, không có trần cấu, họ luôn trì giới ở trong tâm niệm, chứ không phải chỉ trì giới ở bên ngoài.
3) Phát Quang địa: ở giai vị này, Bồ-tát có thể phát ra rất nhiều ánh sáng; thời gian này Bồ-tát rất hoan hỷ tu tinh tấn ba-la-mật.
4) Diệm Huệ địa: ở giai vị này, Bồ-tát tu nhẫn nhục ba-la-mật.
5) Nan Thắng địa: giai vị này rất khó đạt được nên Bồ-tát phải tu thiền định ba-la-mật.
6) Hiện Tiền địa: ở giai vị này, Bồ-tát có thể hiện ở trước Phật, nên họ rất hoan hỷ tu bát-nhã ba-la-mật. Có sáu ba-la-mật và mười ba-la-mật,
7)Viễn Hành địa: ở thời gian này, Bồ-tát tu phương tiện ba-la-mật, giai vị này còn gọi là Viễn hành ba-la-mật, giai vị này và giai vị trước hoàn toàn không đồng, nên phải đến địa vị bất thoái chuyển.
8) Bất Động địa: ở giai vị này, Bồ-tát tu nguyện ba-la-mật.
9) Thiện Huệ địa: ở giai vị này, Bồ-tát tu lực ba-la-mật.
10) Pháp Vân địa: giống như mây ở trên trời, một đám mây diệu pháp, ở giai vị này, Bồ-tát tu trí ba-la-mật.
Thượng Nhân:
- Quý vị thấy cô ta giảng đúng không? Lúc trước, khi tôi giảng kinh Kim Cang thì giảng Bát tự tại, bây giờ thì giảng Thập tự tại. Có ai biết Thập tự tại là gì không?
Hằng Hiền:
1. Mạng tự tại
2. Tâm tự tại
3. Tư cụ tự tại
4. Nghiệp tự tại
5. Thọ sinh tự tại
6. Giải tự tại
7. Nguyện tự tại
8. Thần lực tự tại
9. Pháp tự tại
10. Trí tự tại
Thượng Nhân:
- Quý vị hiểu chưa? Ý nghĩa tóm lược chính là như thế.
Tu hành các độ thắng giải thoát: quý vị có thể đạt được quả vị Thập Địa, lại có thể đạt được thần thông diệu dụng của Thập Tự Tại và có thể tu hành tất cả Ba-la-mật, cho nên gọi là Thập độ. Cảnh giới giải thoát thù thắng bất khả tư nghị này, quý vị đều có thể đạt được.
Nếu được Thập Địa, Thập Tự Tại
Tu hành các độ thắng giải thoát
Thì được quán đảnh đại thần thông
Trụ ở các tam-muội tối thắng.
Nhược đắc Thập Địa Thập Tự Tại
Tu hành chư độ thắng giải thoát
Tắc hoạch quán đỉnh đại thần thông
Trụ ư tối thắng chư tam muội.
Nếu được Thập Địa, Thập Tự Tại: quý vị có thể đạt được Thập Địa là từ Hoan Hỷ Địa cho đến quả vị Pháp Vân Địa này; lại đạt được Thập Tự Tại là từ Mạng Tự Tại cho đến Trí Tự Tại.
Tu hành các độ thắng giải thoát: quý vị lại có thể tu hết tất cả Thập độ. Các độ chính là Thập độ của Bồ-tát đã tu, là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, phương tiện, nguyện, lực, trí. Bồ-tát vốn đều tu viên mãn Thập độ này mà không hề xem nặng nhẹ (thiên trọng) độ nào. Nhưng trong Thập độ đó, Bồ-tát dùng một độ làm chính hạnh, còn các độ khác làm trợ hạnh. Ví dụ như Bồ-tát muốn tu trì giới độ thì dùng chín độ còn lại để hỗ trợ cho một độ này; vậy thì tu một độ nào đó, cũng phải dùng chín độ khác để hỗ trợ nó. Cho nên đây gọi là các độ của Bồ-tát tu hành. Thắng giải thoát là đạt được một loại giải thoát thù thắng.
Thì được quán đảnh đại thần thông: thì có thể đạt được thần thông quán đảnh này, cũng chính là mười phương chư Phật đến quán đảnh cho Bồ-tát ấy, Bồ-tát ấy tức khắc chứng đắc thần thông diệu dụng của Thập Địa, Thập Tự Tại này.
Trụ ở các tam-muội tối thắng: thì có thể đạt đến cảnh giới tam-muội tối cao thù thắng nhất, đạt được loại thụ dụng chánh định, chánh thọ này.
Nếu được quán đảnh đại thần thông
Trụ ở các tam-muội tối thắng
Thì ở chỗ chư Phật mười phương
Đáng thọ quán đảnh để thăng vị.
Nếu ở chỗ chư Phật mười phương
Đáng thọ quán đảnh để thăng vị
Thì được mười phương tất cả Phật
Tay lấy cam lồ rưới trên đảnh.
Nhược hoạch quán đỉnh đại thần thông
Trụ ư tối thắng chư tam-muội
Tắc ư thập phương chư Phật sở
Ưng thọ quán đỉnh nhi thăng vị
Nhược ư thập phương chư Phật sở
Ưng thọ quán đỉnh nhi thăng vị
Tắc mông thập phương nhất thiết Phật
Thủ dĩ cam lồ quán kỳ đỉnh.
Nếu được quán đảnh đại thần thông, Trụ ở các tam-muội tối thắng: nếu quý vị được mười phương chư Phật đến gia bị quý vị, đến quán đảnh cho quý vị, quán đảnh thì đạt được đại thần thông, thì quý vị có thể trụ ở trong tất cả các tam-muội thù thắng nhất, ở trong tất cả tất cả chánh định.
Thì ở chỗ chư Phật mười phương, Đáng thọ quán đảnh để thăng vị: thì quý vị được ở trong đạo tràng của chư Phật nơi mười phương thế giới, mười phương chư Phật đều đến quán đảnh cho quý vị để quý vị bước lên địa vị Đẳng Giác. Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, lại thêm Đẳng Giác, Diệu Giác là năm mươi hai quả vị của Pháp thân Đại sĩ. Quý vị trụ trong tất cả tam-muội, ở đạo tràng của mười phương chư Phật thọ quán đảnh mà bước lên địa vị, bước lên địa vị gì? Chính là địa vị Đẳng Giác. Địa vị Đẳng Giác này, lại tu thêm lên để đạt Diệu Giác, thành Phật. Đẳng Giác còn một phần sinh tướng vô minhchưa phá, tức là còn vô minh như sợi tóc vẫn chưa được phá. Nếu Bồ-tát phá được một phần sinh tướng vô minh này thì sẽ thành Phật.
Nếu ở chỗ chư Phật mười phương: nếu quý vị có thể ở đạo tràng của mười phương chư Phật, Đáng thọ quán đảnh để thăng vị: lại bước lên địa vị Đẳng Giác, Thì được mười phương tất cả Phật, Tay lấy cam lồ rưới trên đảnh: thì quý vị được mười phương chư Phật cầm bình cam lồ rưới lên đảnh quý vị. Trong 42 Thủ Nhãn, quý vị tu Cam Lồ Thủ Nhãn thành công rồi, thì có thể quán đảnh cho tất cả chúng sanh. Nhưng khi chúng ta tu pháp này thì trước tiên đừng có tâm tham, đừng khởi tâm hy vọng, nói tôi phải thành công. Bởi vì quý vị có ý tưởng muốn thành công, vọng niệm như thế xen tạp trong đầu, thì sẽ khó mà tương ưng được.
Nếu được mười phương tất cả Phật
Tay lấy cam lồ rưới trên đảnh
Thì thân đầy khắp như hư không
An trụ bất động khắp mười phương.
Nếu thân đầy khắp như hư không
An trụ bất động khắp mười phương
Thì sở hành kia không ai bằng
Chư thiên, thế nhân không thể biết.
Nhược mông thập phương nhất thiết Phật
Thủ dĩ cam lồ quán kỳ đỉnh
Tắc thân sung biến như hư không
An trụ bất động mãn thập phương
Nhược thân sung biến như hư không
An trụ bất động mãn thập phương
Tắc bỉ sở hành vô dữ đẳng
Chư thiên thế nhơn mạc năng tri.
Nếu được mười phương tất cả Phật, Tay lấy cam lồ rưới trên đảnh: mười phương chư Phật dùng cam lồ đến rưới trên đảnh của quý vị, một mặt là để tẩy sạch những tập khí xưa sẵn có trong quý vị, cũng giống như tắm gội cho quý vị; một mặt lại có thể thành tựu quả vị Bồ-đề của quý vị, phá trừ một phần củasanh tướng vô minh. Mông chính là thừa mông (nhận được); cảnh giới này không dễ đạt được, quý vị muốn được mười phương chư Phật đến rưới lên đảnh cho quý vị là một việc không dễ dàng. Giống như quý vị tu đạo thì mười phương chư Phật hoặc thiện tri thức cũng thường thường đến xoa đảnh, xoa đảnh chính là gia trì cho quý vị, khiến quý vị được thành tựu định lực, thành tựu tuệ lực, đây đều là ở trong âm thầm, quý vị không nhìn thấy được, nhưng có thể cảm giác được. Quý vị cảm giác được, hoặc giả khi quý vị ngồi ở đây, thì giống như có vật gì xoa chà ở trên đầu, đây đều là mười phương chư Phật, hoặc thiện tri thức đến gia trì cho quý vị! Khiến quý vị phát tâm Bồ-đề, tâm Bồ-đề tăng trưởng, cho nên đây gọi là mông. Mông, cảnh giới này rất khó đạt được, quý vị đạt được rồi, thì nên phát tâm Bồ-đề. Quý vị được mười phương chư Phật đến xoa đảnh thọ ký cho quý vị, lại dùng cam lồ rưới lên đảnh cho quý vị. Lợi ích của cam lồ rưới lên đảnh này là rất nhiều, nói không hết, khiến quý vị không còn đói khát, tất cả đều tùy tâm mãn nguyện. Cho nên được cam lồ rưới lên đảnh là một cảnh giới rất thù thắng.
Thì thân đầy khắp như hư không: quý vị có thể được mười phương chư Phật rưới lên đảnh (quán đảnh) cho quý vị, thì Pháp thân của quý vị đầy khắp như hư không, rộng lớn như hư không. Ở trong hư không, quý vị cũng có thể nói là một Pháp thân, cũng có thể nói là vô lượng vô biên Pháp thân, vô lượng vô biên Pháp thân này lại là một Pháp thân, một Pháp thân lại là vô lượng vô biên Pháp thân. Cho nên đầy khắp hư không, An trụ bất động khắp mười phương: an trụ bất động đầy khắp mười phương rồi, quý vị ở trong hư không an trụ bất động, nhưng Pháp thân của quý vị có thể đầy khắp mười phương thế giới.
Nếu thân đầy khắp như hư không, An trụ bất động khắp mười phương: giả sử Pháp thân của quý vị đầy khắp như hư không, không ở đâu và không đâu không có mặt (vô tại, vô bất tại), quý vị nói hư không có lớn không? Nếu chúng ta tu thành rồi thì Pháp thân và hư không là giống nhau. Nhưng Pháp thân của chúng ta giống như hư không, rồi Pháp thân của chư Phật cũng giống như hư không, thế thì làm sao có thể đều đầy khắp trong hư không được, quý vị gạt tôi ra khỏi hư không đi, hay tôi gạt quý vị ra ngoài hư không được chăng? Không phải vậy! Hỗ tương vô ngại, quý vị đầy khắp hư không của quý vị, Phật đầy khắp hư không của Phật, đầy khắp hư không lẫn nhau, vẫn hỗ tương vô ngại, hỗ tương đều là một Pháp thân, cũng hỗ tương đều là nhiều Pháp thân. Cảnh giới này thật là vi diệu không thể nói, nói không thể hết, quý vị không có cách nào dùng ngôn ngữ nói ra được, nhất định phải chứng đắc cảnh giới này mới có thể thể hội.
Một chính là nhiều, nhiều chính là một, một nhiều vô ngại, quý vị muốn nhiều cũng được, muốn một cũng được, không nhập mà không tự đắc, như thế nào cũng tốt, như thế nào cũng đều không có vấn đề, không có chướng ngại, tất cả đều không có chướng ngại. Cảnh giới hư không và cảnh giới địa ngục là như nhau, nhưng địa ngục thì thọ khổ, mà hư không thì an vui. Ở địa ngục, một người cũng đầy khắp cả một địa ngục mà nhiều người cũng đầy khắp cả một địa ngục, đó gọi là Vô gián địa ngục. Vô gián địa ngục chính là nơi mà một chút không gian cũng không có, chen chúc đầy khắp; hư không này cũng là chen chúc đầy khắp, nhưng nó là cảnh giới sung sướng an lạc, không phải thọ khổ, cũng là hỗ tương vô ngại, quý vị đầy khắp hư không của quý vị, tôi đầy khắp hư không của tôi, tận hư không, biến pháp giới đều là viên mãn vô ngại, viên dung vô ngại.
Cho nên Nếu thân đầy khắp như hư không, An trụ bất động khắp mười phương, Thì sở hành kia không ai bằng: chỗ tu hành của quý vị, chỗ tạo tác của quý vị không có ai có thể so sánh.
Chư thiên, thế nhân không thể biết: tất cả thiên thần và người thế gian đều không có cách nào để biết được cảnh giới của quý vị là như thế nào, cho nên đây gọi là cảnh giới bất khả tư nghị.
卍 卍 卍
Đệ tử:
- Con thường nghe sư phụ nói: có người trong quá trình học Phật đã hối hận thoái lui, con muốn biết do nhân duyên gì mà xảy ra trường hợp như thế? Và làm thế nào khi tu hành, gặp chướng ngại, mà không sinh hối hận thoái lui?
Thượng Nhân:
Tu Kim Luân Thủ Nhãn thì sẽ không sinh tâm hối hận thoái lui, không thoái thất tâm Bồ-đề; nhưng phải tu thường xuyên, chứ không phải tu một chút rồi bỏ. Tu đạo thì phải có tâm nhẫn nại, tâm nhẫn nại chính là tự mình phải có tâm kiên cố, thành thật, thường hằng, không thoái lui, không thoái chí nguyện này. Bất luận quý vị tu pháp gì mà tự mình không tinh tấn hướng về phía trước thì cũng sẽ thoái lui mà thôi. Chỉ có tự mình phấn phát tinh thần, tinh tấn tu tập hướng về phía trước, thì mới không thể thoái lui. Phải phát nguyện – tôi nguyện đời đời không thoái thất tâm Bồ-đề, dù khó khăn thế nào cũng không thoái thất tâm Bồ-đề, cũng phải phát tâm Bồ-đề. Cũng khẩn cầu mười phương chư Phật đến gia hộ, khiến cho mình không thoái thất tâm Bồ-đề.
4.1.2 TỔNG KẾT CHỖ Y CỨ CỦA ĐẠI DỤNG
Chúng sinh hình tướng chẳng đồng nhau
Hành nghiệp, âm thanh cũng vô lượng
Như vậy tất cả đều hiện được
Sức uy thần tam-muội Hải ấn.
Chúng sinh hình tướng các bất đồng
Hành nghiệp âm thanh diệc vô lượng
Như thị nhất thiết giai năng hiện
Hải ấn tam-muội uy thần lực.
Chúng sinh có đủ loại, đủ hình, đủ tướng, gồm có mười hai loại chúng sinh. Mười hai loại chúng sinh này, cho dù có đồng loại thì hình tướng cũng chẳngđồng; trong mười hai loại chúng sinh, hình tướng của mỗi loại lại càng không đồng nhau, cho nên nói Chúng sinh hình tướng chẳng đồng nhau. Nghiệp của chúng sinh đã hành, đã tạo, đã làm và thọ lãnh quả báo cũng hoàn toàn chẳng đồng, âm thanh của chúng cũng khác nhau, cho nên nói Hành nghiệp, âm thanh cũng vô lượng: vô lượng tức là ý chẳng đồng, có một số lượng chúng sinh chẳng đồng nhiều như thế.
Như vậy tất cả đều hiện được, Sức uy thần tam-muội Hải ấn: đủ thứ hình dáng, đủ thứ sắc màu khác nhau của tất cả chúng sinh đều có thể hiện trong tam-muội Hải ấn của Bồ-tát. Tam-muội Hải ấn chính là nói, biển lớn có thể hiện ra tất cả hình tướng của vạn vật, hình tướng của vạn vật đều ở trong nước biển đây mà hiện ra. Hiện này không phải là hữu tâm hiện, mà là vô tâm hiện. Do vô tâm hiện ra nên đây gọi là vô công dụng đạo, chẳng phân biệt pháp hiện ra. Không luận là năng hiện hay sở hiện cũng đều do vô công dụng đạo này mà thành tựu, cũng như bóng in trên vách. Vậy ở trong biển lớn đã hiện hình tướng của vạn vật, đây gọi là tam-muội Hải ấn. Tam-muội Hải ấn của Bồ-tát có thể hiện ra được tất cả chúng sinh, hình tướng của tất cả chúng sinh đều ở trong tam-muội Hải ấn của Bồ-tát hiện ra, cho nên nói: sức uy thần lớn của tam-muội Hải ấn này.
4.2. MÔN TAM-MUỘI HOA NGHIÊM DIỆU HẠNH
Thân nghiệp, ý nghiệp, khẩu nghiệp của quý vị đều thanh tịnh trang nghiêm thì bất khả tư nghì cõi nước chư Phật mới thanh tịnh trang nghiêm. Nếu ba nghiệp thân, khẩu, ý của quý vị không thanh tịnh thì không thể đến trang nghiêm được. Miệng của quý vị nói trang nghiêm mà trong tâm không trang nghiêm thì cũng không phải là trang nghiêm, ắt cần phải ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh thì mới trang nghiêm bất khả tư nghì cõi Phật.
Cúng dường tất cả chư Như Lai: thế nào gọi là cúng dường? Không phải chúng ta dùng một chút hương, một chút hoa, một chút trái cây để cúng dường Phật thì gọi là cúng dường đâu. Đúng! Đó cũng là cúng dường, nhưng cách cúng dường đó là cúng dường bên ngoài, là cúng dường hữu tướng. Cúng dường vô tướng là thế nào? Chính là:
Trên mặt không sân là cúng dường
Miệng không nói ác là diệu hương
Ý không giận dữ là chân bảo.
Diện thượng vô sân cúng dường cụ
Khẩu lý vô sân thổ diệu hương
Ý niệm vô sân thị chân bảo.
Trên mặt không sân là cúng dường: Nếu trên mặt của quý vị không hiện nét sân giận thì đây chính là cúng dường tất cả chư Như Lai. Trên mặt quý vị thường tươi vui hoan hỷ, niềm hoan hỷ toát ra từ nội tâm điềm tĩnh chứ không phải loại hoan hỷ cuồng nhiệt. Cho nên nói: “Hỷ nộ ai lạc chi vị phát, vị chi trung; phát nhi giai trung tiết, vị chi hòa. Trung dã giả, thiên hạ chi đại bản dã; hòa dã giả, thiên hạ chi đạt đạo dã. Trí trung hòa, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên. (Mừng giận buồn vui chưa phát thì gọi là trung; đã phát mà biết chế ngự thì gọi là hòa. Trung tức là căn bản tu đạo của thiên hạ; hòa tức là đạo xử thế của thiên hạ. Đạt được trung hòa thì trời đất ổn định, vạn vật sinh trưởng)”. Đạt được trung hòa tức là quý vị hợp với trung đạo, hợp với hòa khí, đạt được cái đạo tốt lành. Thiên địa vị tức là trời trụ ở vị trí của trời, không nổi cơn thịnh nộ, không sấm sét, không tuôn mưa lớn, không nổi gió lớn; đất trụ ở vị trí của đất, không giận dữ, không động đất, đây gọi là thiên địa vị yên. Trời đất đều an lập đúng ngay vị trí của mình, thì vạn vật đều được sinh trưởng, đều được năng lực sinh dưỡng của trời đất, đây gọi là vạn vật dục yên.
Miệng không nói ác là diệu hương: miệng quý vị không nói lời ác, không nói đâm thọc, không nói thêu dệt, không nói lời dối trá thì chính là tuôn ra hương thơm. Ý không giận dữ là chân bảo: trong tâm quý vị không sân giận, thì chính là châu báu quý giá. Cho nên, quý vị không có sân giận, luôn luôn hoan hỷ thì chính là chân chánh cúng dường tất cả chư Như Lai; nếu ai sân si giận dữ thì không có cúng dường tất cả chư Như Lai.
Các vị hiểu không? Quý vị muốn cúng dường tất cả chư Như Lai thì suốt ngày phải vui vẻ. Niềm vui này thật sự toát ra từ bên trong chứ không phải sự vui nhộn bên ngoài, cũng không phải giống như đạt được một cảnh giới ưa thích thì vui mừng hớn hở không thể tả. Hoặc là giống như được trúng số. Ồ! Trúng rồi, sung sướng quá! Quá vui mừng, vui mừng quá mà bị chết, quý vị nói trúng số như vậy thì có ích gì? Không phải loại vui đó. Vui này chính là trong tự tánh thường an vui, trong tự tánh không có sân, không có tham, không có si, đây là chân chánh cúng dường tất cả chư Như Lai.
Phóng ánh sáng lớn không ngằn mé: nếu quý vị không có tham thì không có sân; không có sân thì không có si; không có si thì không có tăm tối. Ba độc này tiêu diệt rồi thì sẽ phóng ánh sáng lớn, trí tuệ hiện tiền; trí tuệ của quý vị hiện tiền, thì chính là phóng ánh sáng lớn. Nói phóng ánh sáng lớn tức là quý vị không bị cảnh giới này làm mê; nếu quý vị bị cảnh giới làm mê, thì chính là u ám, không có ánh sáng. Nếu quý vị phá dẹp cảnh giới này, thì tức là phóng ánh sáng lớn không có ngằn mé. Các vị hiểu chưa? Ánh sáng đó không phải là Phật phóng ra. Đúng! Phật thì phóng ánh sáng của Phật, chúng ta cũng có ánh sáng của chúng ta! Ánh sáng của chúng ta chính là không có tham sân si, đây chính là phóng ánh sáng lớn. Không có ngằn mé tức là trí tuệ này vô lượng vô biên.
Độ thoát chúng sinh cũng vô hạn: độ thoát chúng sinh, bên ngoài thì độ chúng sinh ở bên ngoài, chúng sinh bên trong của quý vị cũng phải độ, cho nên nói Tự tánh chúng sinh thệ nguyện độ. Tự tánh bên trong của quý vị không có sân giận, không có phiền não, không có vô minh, thì chính là độ chúng sinh tự tánh vậy! Độ chúng sinh tự tánh được bao nhiêu? Cũng vô hạn, nhiều không có hạn lượng. Cho nên quý vị tu đạo, nghiên cứu Phật pháp, tất cả tất cả đều nên hồi quang phản chiếu, phản cầu chư kỷ, nhận thức chính mình là như thế nào.
Quý vị nhận thức bản lai diện mục của chính mình, bản lai diện mục vốn thanh tịnh, đã thanh tịnh thì không nên có các loại tà tri tà kiến, không nên có những tạp niệm nhiễm ô trong đó, đây gọi là Tự tánh chúng sinh thệ nguyện độ. Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn, tự tánh pháp môn thệ nguyện học, tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành. Chúng ta nghiên cứu Phật học, tất cả tất cả đều phải hướng vào chính mình để nghiên cứu, đừng hướng ra bên ngoài tìm cầu, chạy đi tìm bên ngoài, vì tám vạn bốn ngàn pháp môn đều không lìa tự tánh.
Đệ tử: Trung dã giả?
Thượng nhân: Trung dã giả, Trung này chính là Trung trong Trung Dung. “Hỷ nộ ai lạc chi vị phát” tức là mừng giận buồn vui khi chưa phát ra thì “vị chi trung”, đây là trung đạo; quý vị để cho mừng, giận phát ra, thì không phải là trung đạo. “Phát nhi giai trung tiết” tức là khi nên mừng thì quý vị mừng, khi nên giận thì quý vị giận, khi nên buồn thì quý vị buồn, khi nên vui vẻ thì quý vị vui vẻ, tức là cư xử phù hợp, chừng mực, không nhiều cũng không ít, phát ra đều hợp với lễ nghĩa pháp độ; tiết chính là từng mắc từng mắc. Phát nhi giai trung tiết, “vị chi hòa”, đây gọi là hòa, đạo trung hòa. “Trung dã giả, thiên hạ chi đại bản dã”, trungnày là căn bản tu đạo của thiên hạ.
Trí tuệ tự tại bất tư nghì
Nói pháp ngôn từ không ngăn ngại
Thí, giới, nhẫn, tấn và thiền định
Trí tuệ, phương tiện và thần thông
Như vậy tất cả đều tự tại
Do sức Phật Hoa Nghiêm tam-muội.
Trí năng tự tại bất tư nghị
Thuyết pháp ngôn từ vô hữu ngại
Thí, giới, nhẫn, tấn cập thiền định
Trí năng phương tiện thần thông đẳng
Như thị nhất thiết giai tự tại
Dĩ Phật Hoa Nghiêm tam-muội lực.
Trí tuệ tự tại bất tư nghì: cái gì gọi là trí tuệ? Trí tuệ chính là chân minh, chân giác ngộ. Chân giác ngộ thì có trí tuệ chân chính; nếu không giác ngộ thì ngu si, trí tuệ là để độ ngu si. Quý vị bị tất cả cảnh giới xoay chuyển mà không xoay chuyển được cảnh giới, đó chính là ngu si; quý vị có thể xoay chuyển được tất cả cảnh giới mà không bị tất cả cảnh giới xoay chuyển, thì chính là trí tuệ, dễ như trở bàn tay. Thế nào gọi là tự tại? Tự tại chính là không có phiền não, không hướng ra bên ngoài tìm cầu. Không có tất cả phiền não, không hướng ra ngoài tìm cầu thì đạt được tự tại chân chánh, cũng chính là đạt được an lạc chân chánh.
Tại sao quý vị đạt được an lạc này? Chính là do quý vị có trí tuệ, có trí tuệ thì mới có thể hiểu rõ cảnh giới an lạc chân chánh. Cảnh giới này chính là cảnh giới bất khả tư nghì. Quý vị thường thường được tự tại, thường thường có trí tuệ, thì mới biết tự tánh thường sinh trí tuệ, mới biết tự tánh vốn không dao động, mới biết tự tánh xưa nay thanh tịnh, mới biết tự tánh hay sinh muôn pháp (Kinh Pháp Bảo Đàn _ Phẩm Thứ Nhất). Đây đều là cảnh giới bất khả tư nghì.
Nói pháp ngôn từ không ngăn ngại: quý vị đạt được trí tuệ tự tại này, trí tuệ tự tại tức là cảnh giới bất khả tư nghì, thì pháp mà quý vị nói, ngôn từ phát ra đều chẳng có ngăn ngại. Cho nên đạt được đại trí tuệ thì đạt được đại tự tại; được đại tự tại thì được đại biện tài; được đại biện tài thì nói pháp không ngăn ngại; nói pháp không ngăn ngại thì có thể giáo hóa chúng sinh phát tâm Bồ-đề.
Thí, giới, nhẫn, tấn và thiền định: quý vị thường thực hành bố thí, bố thí là phải bố thí những gì? Phải bố thí nội tài, ngoại tài. Nội tài, ngoại tài bố thí rồi thì vô minh phiền não cũng phải đem bố thí. Bố thí cho ai? Bố thí cho biển trí tuệ (trí năng hải). Phải đem tham, sân, si đi bố thí cho biển trí tuệ này. Vì tham, sân, si vừa vào trong biển trí tuệ thì hóa thành quang minh. Giới là “Không làm các điều ác, vâng làm các điều thiện” tự mình thường xuyên ngăn ác phòng quấy, dừng tất cả điều ác, tu tất cả điều thiện, việc không đúng thì nhất định không làm.
Cho nên tôi thường nói:
Tánh định ma phục suốt ngày vui
Vọng dừng tâm không đâu cũng an.
Tánh định ma phục triều triều lạc
Vọng chỉ tâm không xứ xứ an.
Tánh định ma phục suốt ngày vui: nếu tánh của quý vị định thì ma tự nhiên hàng phục, ma nào cũng hàng phục. Ma không hàng phục tức là tánh của quý vị không định; nếu tánh của quý vị định rồi, như như bất động, liễu liễu thường minh, thì quý vị nói có ma gì? Ma có đến thì cũng phải chịu thua, không luận là ma vương niệm một loại thần chú nào, có ma sự ra sao, cũng không thể nhiễu loạn quý vị được, đây gọi là tánh định ma phục. Vì sao quý vị không thể hàng phục ma? Vì tánh của quý vị không định!
Bị tất cả hoàn cảnh xoay chuyển, chẳng khác với phàm phu tục tử, thì đương nhiên không hàng phục được ma!
Vọng dừng tâm không đâu cũng an: nếu vọng niệm của quý vị dừng, tâm tánh tợ như hư không, đâu cũng an, quý vị nói đến đâu mà không bình an, đến đâu còn phiền não? Không có! Vì tâm của quý vị đã rỗng không, tâm không mới được đậu. Cho nên nói:
Mười phương đồng tụ hội
Đều cùng học vô vi
Đây là trường tuyển Phật
Tâm không mới được đậu.
Hiện tại chúng ta đang đả thiền thất, chính là mười phương đồng tụ hội, người từ bốn phương tám hướng tập trung đến, đây gọi là mười phương đồng tụ hội. Đều cùng học vô vi tức là ở chỗ này học pháp vô vi. Đây là trường tuyển Phật, thiền đường này chính là trường tuyển Phật. Tâm không thi đỗ về tức là quý vị ai có thể tâm rỗng không, trong quán tâm kia, tâm cũng không có, ngoài quán thân kia, thân cũng không có; quán vật kia, vật cũng không có, ba loại này đều không, ngay cả không cũng chẳng có, thì đây gọi là tâm không mới được đậu.
Nếu tâm quý vị có thể rỗng không như thế, thì làm sao còn đau chân? Làm sao còn đau lưng? Quý vị vốn đã không, ”vô ngã vô nhân Quán Tự Tại, phi không phi sắc kiến Như Lai”, ngã cũng không có, nhân cũng không có, đây chính là Bồ-tát Quán Tự Tại; cũng chẳng chấp không, cũng chẳng chấp có, đây gọi là phi không phi sắc (sắc chính là có). Kiến Như Lai, quý vị chẳng rơi vào không, chẳng rơi vào có, thì sẽ hiểu rõ Phật là như thế nào.
Cho nên các vị hãy nhớ: tánh định ma phục suốt ngày vui, vọng dừng tâm không đâu cũng an, đây là một tấm đối, do tôi nói đại ra, nhưng nếu quý vị có thể thường ghi nhớ hai câu này thì rất có lợi ích đối với việc tu đạo. Đây là câu đại minh chú, cũng là đại thần chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú. Quý vị xem! Tánh định ma phục suốt ngày vui, vọng dừng tâm không đâu cũng an: Không còn vọng tưởng! Vọng tưởng của quý vị dừng rồi thì tâm cũng rỗng không, vậy thì đi đến đâu mà không an lạc. Dù quý vị ở bất kỳ chỗ nguy hiểm nào cũng đều thấy bình an, quý vị xem đây có tốt không!
Trí tuệ, phương tiện và thần thông: quý vị có trí tuệ, thì sẽ dùng pháp môn phương tiện, thì sẽ quan sát căn cơ phù hợp mà giáo hóa, xem người này nên dùng phương pháp gì để khiến họ phát tâm bồ-đề, thì liền dùng phương pháp đó. Đó là chỉ dạy một cách chân thành và kiên nhẫn (tuần tuần thiện dụ) giáo hóa chúng sinh từng ly từng tí một, khiến chúng sinh thành Vô thượng đạo, đây gọi là pháp môn phương tiện. Lại dùng các loại thần thông, thần thông có nhiều vô lượng vô biên, nhưng chung quy lại có sáu loại.
Đó là thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông, lậu tận thông.
1- Thiên nhãn thông: nếu quý vị đạt được thiên nhãn thông, thì từng lời nói, cử chỉ, hành động của người trên cõi trời, quý vị đều nhìn thấy cả.
2- Thiên nhĩ thông: nếu quý vị đắc thiên nhĩ thông thì có thể nghe được những gì chư thiên nói. Không chỉ chư thiên nói mà người ở thế gian nói, cách mấy muôn vạn dặm, nếu quý vị muốn nghe một người nào đó nói gì, chỉ cần khởi quán thì lập tức biết được. Thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông đều có thể quan sát tất cả mọi việc, nghe tất cả mọi việc.
3- Tha tâm thông: đừng bảo là có nói ra thì mới biết, mà là có thể biết được ngay quý vị đang định bụng sẽ nói những gì, đang khởi vọng tưởng nào. Tôi có một số đệ tử quá thông minh, nhân vì tôi giảng về thiên nhĩ thông, thiên nhãn thông, tha tâm thông, thì họ liền nói: “Ồ! Sư phụ chắc có tha tâm thông, tôi thưa chuyện với Sư Phụ chẳng cần gặp mặt Ngài, chỉ cần ở đây, như nói chuyện với ma quỷ vậy, thế thì họ đối trước tấm hình của tôi mà nói (chuyện): ‘Ô! Hiện tại con có việc cầu thỉnh Sư Phụ giúp đỡ; hoặc là có bệnh gì chữa chưa hết; hay là: A! Việc này phải làm sao? Vấn đề khó khăn này của con giải quyết thế nào?’ ”. Toàn nói tầm bậy. Họ cho rằng kiểu này thì tôi đã biết, kỳ thật tôi đâu có rảnh mà quan tâm đến những việc vớ vẩn này, đây đều là việc làm của người quá thông minh. Đặc biệt có một số người, khi lễ Phật rồi lại còn mong Sư Phụ bảo hộ họ, bảo hộ cho họ bớt bệnh! Bảo hộ hoàn cảnh gia đình họ thuận lợi. Ồ! Thật tức cười! Chính tôi còn không có cách nào để bảo hộ cho mình làm thế nào để thuận lợi, làm thế nào để cho tốt. Nếu tôi có bản lãnh như thế, thì tôi tự bảo hộ chính mình không tốt hơn sao?
4- Túc mạng thông: tức là biết việc đời trước. “Ồ! Đời trước tôi vốn làm trâu, sừng dài! Ai da! Thường húc nhau với con trâu khác, cho nên đời này còn nóng tánh như thế, thì ra đã từng làm trâu”. Lại vừa thấy, “A! Thảo nào tôi không chịu bố thí, vì vừa xong kiếp làm chó rồi đến đây mà”. Làm chó chính là do xan tham. Quý vị xem, người không chịu bố thí kia chính là đời trước đã từng làm chó. Chó thì giữ cửa cho người, nó sợ kẻ trộm đến trộm đồ. Vì sao vậy?
Khi còn tại thế, Phật đi đến một nhà cư sĩ nọ, trong nhà ông này có một con chó. Con chó này hễ ngủ thì nhất định nằm dưới giường, chứ không chịu ngủ chỗ khác. Quý vị bảo nó đi ra ngoài hoặc đi chỗ nào khác thì nó cũng không đi, suốt ngày cứ nằm dưới giường. Nếu có người lạ vừa muốn đến gần giường này, thì không được, nó sẽ cắn, không cho bất kỳ ai đến chỗ này.
Vị cư sĩ liền thỉnh hỏi Phật, đây là nhân duyên gì. Phật hỏi: “Ai ngủ trên cái giường này?”. “Khi cha tôi còn sống, ông thường ngủ ở cái giường này”. “Cha ông chết khi nào và từ khi nào ông có con chó này?”. “Sau khi cha tôi qua đời thì con chó mẹ trong nhà liền sinh con chó này; nó vừa sinh ra thì liền chạy đến đây ngủ, không chịu đi đâu cả. Những con chó khác cũng không được đến gần, chỉ có người trong nhà mới được đến gần, người lạ thì phải đứng cách xa”.
Phật nói: “Con chó này đời trước là cha ngươi. Khi còn sinh tiền ông ta đã cất giấu một số vàng, khoảng chừng ba trăm lượng. Trước lúc chết, ông ta đem vàng chôn dưới giường này, nhưng không có ai biết. Đến khi ông ta bệnh nặng qua đời mà không kịp nói với các ngươi, cho nên cứ nhớ mãi số vàng này và thế là liền tái sinh làm chó trong nhà ngươi, hằng ngày nằm đây để giữ số vàng này, không cho người lạ động đến, nó sợ mất đi số vàng này.”
Phật vừa nói xong thì con chó liền gật đầu, biểu thị thừa nhận đúng sự thật. Lúc đó, con ông ta liền lấy cuốc đào lên, quả nhiên có ba trăm lượng vàng chôn bên dưới. Sau khi số vàng này được đào lên thì con chó liền lăn ra chết, vì nó đã buông được ý niệm xan tham. Số vàng đã vào tay con ông ta, cho nên ông ta (con chó) cũng tức khắc bỏ thân. Từ công án này cho thấy, nhân quả tuần hoàn trong lục đạo luân hồi thật là bất khả tư nghị!
5- Thần túc thông: trong một niệm có thể du hành khắp pháp giới, ở trong một niệm này, có thể đi khắp mười phương thế giới, giáo hóa chúng sinh.
6- Lậu tận thông: chính là không rơi rớt. Một tách trà, nếu dưới đáy nứt một đường thì rót nước vào, nước sẽ rỉ chảy ra, đây gọi là hữu lậu. Như thế nào là vô lậu? Chính là không rỉ chảy. Không rỉ chảy cũng chính là không có những tập khí, không có phiền não, không có vô minh, không có tất cả niệm dục, đây là vô lậu.
Quý vị có niệm dục tức là hữu lậu, cho nên ba cõi là hữu lậu; vô lậu là vượt ngoài ba cõi, đây gọi là thần thông vô lậu. Lậu tận thông chẳng phải dễ đắc, vì tập khí nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta quá sâu nặng, quý vị bảo họ đoạn trừ tức khắc thì không phải dễ. Cho nên nếu chứng đắc lậu tận thông, thì tức là chân chánh tự tại, chân chánh có trí tuệ. Quý vị muốn đắc ngũ nhãn lục thông, thì phải làm thế nào? Thì phải nhẫn, đầu tiên là phải nhẫn, thứ hai là phải tinh tấn, thứ ba là phải tu thiền định. Quý vị có ba điều kiện này thì mới có thể đạt được ngũ nhãn lục thông.
Như vậy tất cả đều tự tại: giống như ở trước đã nói, trí tuệ tự tại bất khả tư nghì, âm thanh nói pháp cũng bất khả tư nghì, quý vị lại tu mười ba-la-mật gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, phương tiện, nguyện, lực, trí và tất cả thần thông v.v… giống như thế, tất cả tất cả đều vô cùng tự tại, đều thị hiện rất tự nhiên. Đây là nguyên nhân gì?
Do sức Phật Hoa Nghiêm tam-muội: đây chính là do Phật có sức Hoa Nghiêm tam-muội. Dùng nhân hoa của vạn hạnh, trang nghiêm quả đức vô thượng, nhập sức Hoa Nghiêm tam-muội này.
4.3 MÔN TAM-MUỘI NHÂN-ĐÀ-LA VÕNG
Trong một vi trần nhập tam-muội
Thành tựu tất cả vi trần định
Mà vi trần kia cũng chẳng tăng
Nơi một hiện khắp cõi khó nghĩ.
Nhất vi trần trung nhập tam-muội
Thành tựu nhất thiết vi trần định
Nhi bỉ vi trần diệc bất tăng
Ư nhất phổ hiện nan tư sát.
Trong một vi trần nhập tam-muội: tức là nhập tam-muội trong một hạt vi trần, chuyển đại pháp luân, hiện vô biên cõi Phật.
Thành tựu tất cả vi trần định: trong mỗi một hạt vi trần đều có thể nhập định, nhập định Hoa Nghiêm tam-muội này, một hạt vi trần cũng không thiếu, cũng không nhỏ, tất cả vi trần cũng không nhiều. Trong mỗi một hạt vi trần, Phật đều ở trong đó nhập định, chuyển pháp luân, Mà vi trần kia cũng chẳng tăng: vi trần tuy nhỏ, Phật ở trong vi trần để chuyển pháp luân, giáo hóa chúng sinh, nhưng hạt vi trần đó cũng chẳng phải phóng to lớn, rộng dài, cũng chẳng có tăng thêm.
Nơi một hiện khắp cõi khó nghĩ: ở trong một hạt vi trần này, hiện ra bất khả tư nghì cõi nước chư Phật, cảnh giới này chính là cảnh giới bất khả tư nghì, cõi khó nghĩ.
Cõi chúng sinh trong một trần kia
Hoặc là có Phật hoặc không Phật
Hoặc có tạp nhiễm hoặc thanh tịnh
Hoặc là rộng lớn hoặc nhỏ hẹp
Hoặc có cõi thành hoặc có hoại
Hoặc có chánh trụ hoặc bàng trụ
Hoặc như sóng nắng nơi đồng trống
Hoặc như nhân đà võng cõi trời
Như trong một trần đã thị hiện
Tất cả vi trần đều như thế
Các thánh nhân đại danh xưng này
Tam-muội giải thoát sức thần thông.
Bỉ nhất trần nội chúng sinh sát
Hoặc hữu hữu Phật hoặc vô Phật
Hoặc hữu tạp nhiễm hoặc thanh tịnh
Hoặc hữu quảng đại hoặc hiệp tiểu
Hoặc phục hữu thành hoặc hữu khôi
Hoặc hữu chính trụ hoặc bàng trụ
Hoặc như khoáng dã nhiệt thời diễm
Hoặc như thiên thượng nhân đà võng
Như nhất trần trung sở thị hiện
Nhất thiết vi trần tất diệc nhiên
Thử đại danh xưng chư thánh nhân
Tam-muội giải thoát thần thông lực.
Cõi chúng sinh trong một trần kia: trong một hạt vi trần, hiện ra vô lượng vô biên cõi nước chư Phật.
Hoặc là có Phật hoặc không Phật: trong mỗi một cõi nước, hoặc có cõi nước có Phật ở đó thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh; hoặc có cõi nước không có Phật ở đó giáo hóa chúng sinh, đây là một cảnh giới bất khả tư nghì.
Hoặc có tạp nhiễm hoặc thanh tịnh: cõi nước được thị hiện, hoặc có cõi có tạp nhiễm, giống như đời năm trược ác của chúng ta là thế giới tạp nhiễm; hoặc thị hiện một thế giới thanh tịnh giống như thế giới Cực Lạc.
Hoặc là rộng lớn hoặc nhỏ hẹp: hiện ra đủ loại cõi nước, hoặc có cõi nước thì rộng lớn, hoặc có cõi nước lại nhỏ hẹp.
Hoặc có cõi thành hoặc có hoại: hoặc có thế giới thì đang hình thành, hoặc có thế giới thì đang hoại diệt.
Hoặc có chánh trụ hoặc bàng trụ: hoặc có thế giới thì đang có chánh pháp trụ thế, Phật chuyển đại pháp luân. Hoặc bàng trụ, hoặc có thế giới thì đã đến thời Tượng pháp, hoặc Mạt pháp, đủ loại không đồng.
Hoặc như sóng nắng nơi đồng trống: hoặc có thế giới đã thị hiện giống như sóng nắng (dương diệm) ở giữa đồng trống.
Hoặc như nhân đà võng cõi trời: hoặc có thế giới giống y như lưới nhân-đà-la ở trước trời Đế Thích nơi cõi trời.
Như trong một trần đã thị hiện: không chỉ ở trong một hạt vi trần thị hiện cảnh giới này, tức là cõi nước chư Phật, mười phương thế giới đều hiện ra, màTất cả vi trần đều cũng vậy: trong mỗi một hạt vi trần đều hiện cảnh giới này, hiển hiện qua lại cõi nước chư Phật trong mười phương thế giới. Đều cũng vậytức là đều cùng một kiểu.
Các thánh nhân đại danh xưng này: đây chính là tất cả thánh nhân thị hiện cõi nước chư Phật, giáo hóa chúng sinh đã được nêu ở trên, đều có đại danh xưng.
Tam-muội giải thoát sức thần thông: họ đều có tam-muội, đều được giải thoát, cũng đạt được sức thần thông tối diệu này.
4.4 MÔN TAM-MUỘI THỦ XUẤT QUẢNG CÚNG
4.4.1 NÊU CHUNG
Nếu muốn cúng dường tất cả Phật
Thì nhập tam-muội khởi thần biến
Hay dùng một tay khắp tam thiên
Cúng khắp tất cả chư Như Lai.
Nhược dục cúng dường nhất thiết
Phật Nhập ư tam-muội khởi thần biến
Năng dĩ nhất thủ biến tam thiên
Phổ cúng nhất thiết chư Như Lai.
Nếu muốn cúng dường tất cả Phật: nếu khi họ muốn cúng dường tất cả chư Phật ba đời trong mười phương, Thì nhập tam-muội khởi thần biến: trước tiên phải nhập định, nhập định này rồi thì lại hiện ra đủ loại thần thông biến hóa.
Hay dùng một tay khắp tam thiên: họ đều có sức thần thông lớn, tức là dùng một tay cũng có thể đi cúng dường tất cả chư Phật ở tam thiên đại thiên thế giới trong ba đời khắp mười phương, cho nên cúng khắp tất cả chư Như Lai: cúng dường khắp cả chư Phật trong ba đời ở mười phương.
4.4.2 NÊU CHI TIẾT
Tất cả hoa đẹp khắp mười phương
Hương xoa, hương bột, bảo vô giá
Như vậy đều từ tay tuôn ra
Cúng dường đạo thọ Chư Tối Thắng.
Y Báu vô giá, đủ loại hương
Tràng phan, lọng báu đều nghiêm tốt
Vàng ròng làm hoa, báu làm trướng
Tất cả đều từ tay tuôn ra.
Thập phương sở hữu thắng diệu hoa
Đồ hương mạt hương vô giá bảo
Như thị giai tùng thủ trung xuất
Cúng dường đạo thọ chư tối thắng
Vô giá bảo y tạp diệu hương
Bảo tràng phan cái giai nghiêm hảo
Chân kim vi hoa bảo vi trướng
Mạc bất giai tùng chưởng trung vũ.
Tất cả hoa đẹp khắp mười phương: trong tay Bồ-tát tuôn ra đủ loại hoa, đủ loại hương thù thắng nhất ở khắp mười phương để cúng dường tất cả các đức Như Lai trong ba đời ở mười phương.
Hương xoa, hương bột, bảo vô giá: hoặc là hương xoa, hoặc là hương bột, hoặc là dùng trân bảo vô giá để cúng dường Phật.
Như vậy đều từ tay tuôn ra: tất cả những hoa đẹp, hương xoa, hương bột, hương đốt, các loại trân bảo vô giá này đều từ trong tay bậc thánh nhân đại danh xưng tuôn ra.
Cúng dường đạo thọ Chư Tối Thắng: họ cúng dường chư Phật trong đạo tràng Bồ-đề thọ vương. Chư Tối Thắng chính là chư Phật Như Lai.
Y báu vô giá, đủ loại hương: lại dùng y báu vô giá và đủ loại hương thơm để cúng dường Phật.
Tràng phan, lọng báu đều nghiêm tốt: lại dùng đủ loại tràng phan báu, đủ loại lọng báu để cúng dường chư Phật, trang nghiêm đạo tràng.
Vàng ròng làm hoa, báu làm trướng: trong tay Bồ-tát này đã tuôn ra đủ loại hoa đẹp, đều từ vàng ròng tạo thành; còn có trướng báu do bảy báu làm thành.
Tất cả đều từ tay tuôn ra: tất cả những hoa báu, trướng báu này đều từ trong tay Bồ-tát tuôn ra.
Tất cả vật tốt ở mười phương
Đều đem phụng hiến Vô Thượng Tôn
Trong tay tuôn ra đủ các loại
Trước cây Bồ-đề đem cúng Phật.
Mười phương tất cả các kỹ nhạc
Chuông trống cầm sắt chẳng phải một
Cùng tấu âm thanh diệu hòa nhã
Đều từ trong tay mà tuôn ra.
Ứng khả phụng hiến Vô Thượng Tôn
Chưởng trung tất vũ vô bất bị
Bồ-đề thọ tiền trì cúng Phật
Thập phương nhất thiết chư kỹ nhạc
Chung cổ cầm sắt phi nhất loại
Tất tấu hòa nhã diệu âm thanh
Mỹ bất tùng ư chưởng trung xuất.
Tất cả vật tốt ở mười phương: tất cả những vật quý giá đắc tiền trong mười phương thế giới, Đều đem phụng hiến Vô Thượng Tôn: bảo vật trong tay Bồ-tát này tuôn ra đều đem phụng hiến mười phương chư Phật.
Trong tay tuôn ra đủ các loại: trong tay Bồ-tát tuôn ra đủ loại hoa đẹp quý báu, còn có tất cả vật quý danh tiếng nhất thế gian, không có cái nào mà không đầy đủ.
Trước cây Bồ-đề đem cúng Phật: dùng những thứ này đến trước cây Bồ-đề, đạo tràng của đấng Pháp Vương để cúng dường Phật.
Kỹ nhạc ở mỗi một quốc gia trong mười phương thế giới không đồng nhau, cho nên nói, Mười phương tất cả các kỹ nhạc.
Chuông trống cầm sắt chẳng phải một: có lúc thì tiếng chuông, có lúc lại là tiếng trống, có lúc lại là tiếng đàn cầm, có lúc lại là tiếng đàn sắt, chẳng phải một loại. Đây không phải chỉ dùng một loại nhạc để cúng dường Phật, mà là dùng đủ loại nhạc để cúng dường Phật.
Cùng tấu âm thanh diệu hòa nhã: có đủ loại nhạc khí cùng diễn tấu âm thanh vi diệu hòa nhã, khiến quý vị nghe thì không thể dừng được mà cứ ưa thích nghe mãi.
Đều từ trong tay mà tuôn ra: tất cả âm nhạc, tất cả âm thanh vi diệu này cũng đều từ trong tay Bồ-tát lưu xuất ra.
Mười phương tất cả các tán tụng
Khen ngợi Như Lai thật công đức
Đủ loại ngôn từ hay như thế
Đều từ trong tay mà khai diễn.
Tay phải Bồ-tát phóng tịnh quang
Nước thơm trong quang từ không tuôn
Rưới khắp cõi Phật ở mười phương
Cúng dường tất cả Chiếu Thế Đăng.
Thập phương sở hữu chư tán tụng
Xưng thán Như Lai thật công đức
Như thị chủng chủng diệu ngôn từ
Giai tùng chưởng nội nhi khai diễn
Bồ-tát hữu thủ phóng tịnh quang
Quang trung hương thủy tùng không vũ
Phổ sái thập phương chư Phật độ
Cúng dường nhất thiết Chiếu Thế Đăng.
Mười phương tất cả các tán tụng: văn tự của mỗi một quốc gia ở tất cả thế giới trong mười phương, đã làm thành những bài tán tụng để Khen ngợi Như Lai thật công đức: đều là xưng dương khen ngợi công đức chân thật của Phật.
Đủ loại ngôn từ hay như thế: lại dùng đủ loại ngôn từ hay như thế, Đều từ trong tay mà khai diễn: đều từ trong tay Bồ-tát phát ra âm thanh, diễn thuyết diệu pháp. Tay này cũng có thể nói, quý vị đã từng thấy chưa, đã từng nghe chưa? Trong tay Bồ-tát cũng có thể nói, cũng có thể giảng kinh thuyết pháp, thì trong tay này, cũng có thể phát ra âm thanh, mà còn là âm thanh rất hay, khai diễn tất cả diệu pháp.
Tay phải Bồ-tát phóng tịnh quang: trong tay phải của Bồ-tát phóng ra ánh sáng thanh tịnh.
Nước thơm trong quang từ không tuôn: trong ánh sáng này lại tuôn ra đủ loại nước thơm, từ trong hư không rưới xuống mặt đất.
Rưới khắp cõi Phật ở mười phương: nước thơm này rưới khắp các cõi nước Phật ở mười phương.
Cúng dường tất cả Chiếu Thế Đăng: cúng dường tất cả chư Phật. Chiếu Thế Đăng là một danh xưng khác của Phật
Lại phóng ánh sáng diệu trang nghiêm
Sinh ra vô lượng hoa sen báu
Sắc tướng hoa ấy đều đẹp lạ
Dùng đây để cúng dường chư Phật.
Lại phóng ánh sáng hoa trang nghiêm
Đủ loại hoa đẹp hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Hựu phóng quang minh diệu trang nghiêm
Xuất sanh vô lượng bảo liên hoa
Kỳ hoa sắc tướng giai thù diệu
Dĩ thử cúng dường ư chư Phật.
Hựu phóng quang minh hoa trang nghiêm
Chủng chủng diệu hoa tập vi trướng
Phổ tán thập phương chư quốc độ
Cúng dường nhất thiết Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng diệu trang nghiêm: lại phóng ánh sáng lớn, trang nghiêm cõi nước chư Phật.
Sinh ra vô lượng hoa sen báu: lại sinh ra vô lượng hoa sen quý báu đẹp lạ.
Sắc tướng hoa ấy đều đẹp lạ: màu sắc và hình dáng của hoa này rất đẹp đẽ lạ thường.
Dùng đây để cúng dường chư Phật: dùng hoa hương này để cúng dường tất cả chư Phật ba đời ở khắp mười phương.
Lại phóng ánh sáng hoa trang nghiêm: tất cả đại thánh nhân này lại phóng ra một loại ánh sáng, có hoa ở trong ánh sáng này hiện ra làm trang nghiêm.
Đủ loại hoa đẹp hợp làm trướng: dùng đủ loại hoa đẹp cùng gom nhóm đến làm một trướng hoa báu.
Rải khắp cõi nước ở mười phương: dùng trướng hoa báu gom nhóm này rải khắp cõi nước chư Phật ở mười phương, để Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn: cũng chính là cúng dường tất cả chư Phật.
Lại phóng ánh sáng hương trang nghiêm
Đủ loại hương thơm hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng hương bột nghiêm
Đủ loại hương bột hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Chủng chủng diệu hoa tập vi trướng
Phổ tán thập phương chư quốc độ
Cúng dường nhất thiết Đại Đức Tôn.
Hựu phóng quang minh mạt hương nghiêm
Chủng chủng mạt hương tụ vi trướng
Phổ tán thập phương chư quốc độ
Cúng dường nhất thiết Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng hương trang nghiêm: dùng đủ loại hương này để trang nghiêm.
Đủ loại hương thơm hợp làm trướng: có đủ loại hương thơm gom nhóm làm trướng báu, Rải khắp cõi nước ở mười phương, Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng hương bột nghiêm: dùng bột hương để trang nghiêm. Đủ loại hương bột hợp làm trướng: nhóm làm trướng báu. Rải khắp cõi nước ở mười phương, Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng y trang nghiêm
Đủ loại y quý hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng báu trang nghiêm
Đủ loại báu quý hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Chủng chủng danh y tập vi trướng
Phổ tán thập phương chư quốc độ
Cúng dường nhất thiết Đại Đức Tôn.
Hựu phóng quang minh bảo trang nghiêm
Chủng chủng diệu bảo tập vi trướng
Phổ tán thập phương chư quốc độ
Cúng dường nhất thiết Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng y trang nghiêm: dùng y báu để trang nghiêm cõi Phật.
Đủ loại y quý hợp làm trướng: gom nhóm làm trướng báu.
Rải khắp cõi nước ở mười phương, Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng báu trang nghiêm: có đủ loại báu để trang nghiêm.
Đủ loại báu quý hợp làm trướng: gom nhóm làm trướng báu.
Rải khắp cõi nước ở mười phương, Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng sen trang nghiêm
Đủ loại hoa sen hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng ngọc trang nghiêm
Đủ loại ngọc đẹp hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Hựu phóng quang minh hương trang nghiêm
Hựu phóng quang minh y trang nghiêm
Hựu phóng quang minh liên trang nghiêm
Chủng chủng danh y tập vi trướng
Phổ tán thập phương chư quốc độ
Cúng dường nhất thiết Đại Đức Tôn.
Hựu phóng quang minh anh trang nghiêm
Chủng chủng diệu anh tập vi trướng
Phổ tán thập phương chư quốc độ
Cúng dường nhất thiết Đại Đức Tôn.
Đây là nguyện rộng lớn của Bồ-tát Phổ Hiền, cho nên rộng tu cúng dường. Lại phóng ánh sáng sen trang nghiêm: Bồ-tát lại phóng một loại ánh sáng, trong ánh sáng hiện ra hoa sen báu lớn, dùng hoa sen báu lớn để trang nghiêm cõi Phật. Đủ loại hoa sen hợp làm trướng: có hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng, hoa sen vàng, hoa sen tím, các loại hoa sen này hợp thành trướng báu. Rải khắp cõi nước ở mười phương: dùng hoa sen để cúng dường khắp, rải khắp cõi nước chư Phật ở mười phương, để Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn: cúng dường tất cả chư Phật nơi tất cả cõi nước trong ba đời ở khắp mười phương, rộng tu cúng dường.
Lại phóng ánh sáng ngọc trang nghiêm: Bồ-tát này lại phóng ra bất khả tư nghì ánh sáng, trong ánh sáng lại hiện ra ngọc quý, dùng ngọc quý để trang nghiêm cõi nước.
Đủ loại ngọc đẹp hợp làm trướng: ngọc quý này cũng có rất nhiều loại, dùng đủ loại ngọc quý gom nhóm làm thành một cái trướng báu, trướng báu này lại sinh ra vô lượng vô biên trướng báu như thế, cho nên Rải khắp cõi nước ở mười phương, Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn: lại rải khắp cõi nước chư Phật ở mười phương, cũng để rộng tu cúng dường tất cả chư Phật ba đời trong mười phương. Đây đều là do nguyện lực của Bồ-tát Phổ Hiền mà thành tựu.
Lại phóng ánh sáng tràng trang nghiêm
Tràng kia xen lẫn đủ các sắc
Đủ loại vô lượng đều đẹp lạ
Dùng đây trang nghiêm cõi nước Phật.
Đủ loại báu quý trang nghiêm lọng
Các phan lụa đẹp cùng rủ xuống
Chuông báu ma-ni diễn Phật âm
Đem đến cúng dường chư Như Lai.
Hựu phóng quang minh tràng trang nghiêm
Kỳ tràng huyến hoán bị chúng sắc
Chủng chủng vô lượng giai thù hảo
Dĩ thử trang nghiêm chư Phật độ.
Chủng chủng tạp bảo trang nghiêm cái
Chúng diệu tăng phan cộng thùy sức
Ma ni bảo đạc diễn Phật âm
Chấp trì cúng dường chư Như Lai.
Lại phóng ánh sáng tràng trang nghiêm: Bồ-tát lại phóng ánh sáng lớn, trong ánh sáng lại hiện ra tràng báu, dùng tràng báu để trang nghiêm cõi nước chư Phật.
Tràng kia xen lẫn đủ các sắc: tràng này ánh sáng thật rực rỡ, có một dạng ánh sáng rực rỡ, đây gọi là rực rỡ. Đủ các sắc, trong đây có đủ các loại màu sắc quý để trang nghiêm tràng báu này. Thế là ông ta dùng tràng báu này lại rải khắp tất cả cõi nước chư Phật ở mười phương, hóa ra vô lượng vô biên tràng báu như thế, Đủ loại vô lượng đều đẹp lạ: màu sắc vô lượng đủ loại đều đẹp lộng lẫy lạ thường.
Dùng đây trang nghiêm cõi nước Phật: dùng tràng báu vô cùng mỹ lệ này để trang nghiêm cõi nước chư Phật.
Đủ loại báu quý trang nghiêm lọng: lại có đủ loại báu xen lẫn, cũng chính là dùng bảy báu để trang nghiêm thành một lọng báu ở trong hư không. Trên cái lọng báu này, lại có
Các phan lụa đẹp cùng rủ xuống: các phan lụa đẹp, rất nhiều loại lụa, lụa chính là một loại vật thuộc tơ lụa rất danh quý, mặc vào rất ấm. Phan là dùng lụa để làm thành phan, treo hai bên điện Phật của chúng ta, đó gọi là phan. Cùng rủ xuống tức là từ trên lọng báu này lòng thòng xuống để làm trang nghiêm lọng báu.
Chuông báu ma-ni diễn Phật âm: lọng báu này thật trang nghiêm đẹp đẽ, còn có chuông báu ma-ni. Chuông báu chính là chuông gió, có tay cầm làm bằng gỗ, giống như cái linh ở trường thường rung mỗi khi vào lớp, linh đó gọi là chuông. Diễn Phật âm tức là trong cái chuông báu ma-ni có thể diễn nói Phật pháp, âm thanh này giống như âm thanh của Phật.
Đem đến cúng dường chư Như Lai: Bồ-tát dùng loại diệu cụ trang nghiêm này để cúng dường tất cả chư Phật Như Lai.
4.4.3 TỔNG KẾT CHUNG
Tay tuôn vật cúng khó nghĩ bàn
Như vậy cúng dường khắp Đạo Sư
Tất cả chỗ Phật đều như thế
Sức thần thông tam-muội đại sĩ.
Thủ xuất cúng cụ nan tư nghị
Như thị cúng dường nhất đạo sư
Nhất thiết Phật sở giai như thị
Đại sĩ tam-muội thần thông lực.
Tay tuôn vật cúng khó nghĩ bàn: tay Bồ-tát tuôn ra hoặc là hương, hoa, y phục, ngọc, đủ loại châu báu quý giá này, và tràng, đều gọi là vật cúng. Đây là một cảnh giới bất khả tư nghì.
Như vậy cúng dường khắp Đạo Sư: giống như vật cúng trang nghiêm đã nói ở trên, cúng dường tất cả chư Phật, tất cả Đạo Sư, Đạo Sư cũng chính là Phật.
Tất cả chỗ Phật đều như thế: tất cả cõi nước chư Phật, đạo tràng chư Phật ở tất cả mười phương thế giới đều là như thế để trang nghiêm cúng dường.
Sức thần thông tam-muội đại sĩ: đây chính là một đại nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền, sức thần thông tam-muội đã tu đạt được, mới có thể có cảnh giới bất khả tư nghì như thế.
4.5. HIỆN CÁC PHÁP MÔN TAM-MUỘI
4.5.1.NÊU CHUNG NHIỀU MÔN
Bồ-tát trụ trong môn tam-muội
Các loại tự tại nhiếp chúng sinh
Đem hết pháp công đức tu hành
Vô lượng phương tiện để dẫn dụ.
Bồ-tát trụ tại tam-muội trung
Chủng chủng tự tại nhiếp chúng sinh
Tất dĩ sở hành công đức pháp
Vô lượng phương tiện nhi khai dụ.
Bồ-tát trụ trong môn tam-muội: đây là nói Bồ-tát Phổ Hiền trụ trong tam-muội Phổ Hiền Vương, tức là nhập định này.
Các loại tự tại nhiếp chúng sinh: Ngài dùng đủ loại thần thông tự tại để nhiếp thụ tất cả chúng sinh trong mười phương.
Đem hết pháp công đức tu hành: Ngài đem hết nguyện vương của Bồ-tát Phổ Hiền tu hành và diệu pháp công đức này,
Vô lượng phương tiện để dẫn dụ: dùng vô lượng pháp môn phương tiện như thế để dẫn dụ chúng sinh, khiến tất cả chúng sinh đều phát tâm Bồ-đề.
4.5.2 NÊU RÕ HAI MƯƠI MÔN
Hoặc dùng môn cúng dường Như Lai
Hoặc dùng môn bố thí khó nghĩ
Hoặc dùng môn trì giới đầu đà
Hoặc dùng môn nhẫn nhục bất động.
Hoặc dĩ cúng dường Như Lai môn
Hoặc dĩ nan tư bố thí môn
Hoặc dĩ đầu đà trì giới môn
Hoặc dĩ bất động kham nhẫn môn.
Hoặc dùng môn cúng dường Như Lai: dùng đủ phương pháp để dẫn dụ chúng sinh, hóa độ chúng sinh. Chúng sinh nào thích hợp với môn rộng tu cúng dường các đức Như Lai, thì Bồ-tát nói pháp môn rộng tu cúng dường tất cả chư Phật ba đời trong mười phương, khiến chúng sinh đó tu hành.
Hoặc dùng môn bố thí khó nghĩ: hoặc dùng pháp môn bố thí bất khả tư nghì, khó bỏ mà bỏ được, khó làm mà làm được này để giáo hóa chúng sinh, khiến những chúng sinh xan tham đều phát tâm bố thí.
Hoặc dùng môn trì giới đầu đà: hoặc có chúng sinh nào thường hay phạm giới, thì Bồ-tát sẽ nói pháp môn mười hai hạnh đầu đà cho họ nghe, khiến họ trì giới tu hành, không còn hủy phạm.
Hoặc dùng môn nhẫn nhục bất động: hoặc có chúng sinh nào không nhẫn nhục được và thường nổi giận thì Bồ-tát nói môn nhẫn nhục bất động cho họ nghe, bất động chính là không nổi giận, không có lửa vô minh. Chuyện gì không nhẫn được cũng phải nhẫn, mới gọi là nhẫn nhục; chuyện gì không chịu được cũng phải chịu, mới gọi là nhẫn nhục. Chuyện gì nhẫn không được cũng phải nhẫn, chuyện gì chịu không được cũng phải chịu. Ví dụ như quý vị tu đạo, mà tự nhiên có người nào đó đến mắng chửi thì quý vị cũng phải nhẫn, nhẫn không được cũng phải nhẫn; chuyện mắng chửi này vẫn không đáng kể. Nếu có người nào đánh quý vị thì quý vị cũng phải nhẫn, không nên đấu tranh với người.
Người đánh hoặc chửi quý vị kia, biết đâu chính là chư Phật, Bồ-tát đến thử nghiệm, xem quý vị có nhẫn được không, có động tâm không? Đây cũng là một cảnh giới, cũng gọi là đối diện quan, tức là cửa ải ở trước mặt. Quý vị vượt qua được cửa này thì sẽ có được sự lợi ích; bằng không thì chẳng được gì cả. Cho nên, Bồ-tát dùng môn nhẫn nhục bất động để nhẫn chịu; điều gì xưa nay nhẫn không được cũng phải nhẫn, dùng pháp môn này để giáo hóa chúng sinh, khiến chúng sinh không có sân giận, không có nổi nóng.
Hoặc dùng môn khổ hạnh tinh tấn
Hoặc dùng môn thiền định tịch tịnh
Hoặc dùng môn trí tuệ quyết đoán
Hoặc dùng môn phương tiện tu hành.
Hoặc dĩ khổ hạnh tinh tấn môn
Hoặc dĩ tịch tĩnh thiền định môn
Hoặc dĩ quyết liễu trí năng môn
Hoặc dĩ sở hành phương tiện môn.
Hoặc dùng môn khổ hạnh tinh tấn: thiền thất mà hiện tại chúng ta đang đả đây chính là môn khổ hạnh tinh tấn. Quý vị xem, hai giờ rưỡi sáng thì chúng ta đã dậy, suốt ngày chỉ bào hương, tọa hương. Bào hương (lúc chạy) là vận động thân, tọa hương là vận động tâm; vận động thân cũng là điều phục thân, vận động tâm cũng là điều phục tâm, ngồi đó để hàng phục tâm mình là phương pháp tu hành tốt nhất.
Đả thiền thất là mọi người mới chỉ lập cho mình một nền tảng, có nền tảng rồi thì sau này dù ở đâu, lúc nào quý vị cũng có thể đả tọa tham thiền. Quý vị nếu có thể ngồi một giờ đồng hồ thì ngồi một giờ đồng hồ; có thể ngồi hai giờ đồng hồ thì ngồi hai giờ đồng hồ; có thể ngồi ba giờ đồng hồ thì ngồi ba giờ đồng hồ; có thể ngồi suốt ngày thì càng tốt! Không luận quý vị là ai, xuất gia hay tại gia, nếu có thể mỗi ngày không ngủ, ngồi suốt ở đây, hoặc là ban đêm ngủ chừng vài giờ đồng hồ, còn ban ngày thì thường xuyên tọa thiền, ai làm được như vậy thì cứ đến chùa Kim Sơn, ở đây sẽ giúp quý vị ăn, ở, sinh hoạt mà không cần phải tốn phí. Nói chung, chùa Kim Sơn sẽ hoan nghênh đón tiếp những ai có khả năng này. Nếu ai muốn đả tọa tham thiền tại nhà thì cũng được. Đây gọi là môn khổ hạnh tinh tấn; hành môn khổ hạnh tinh tấn này rất cực khổ, chân cũng đau, lưng cũng đau, ngủ cũng không đầy đủ. Cho nên làm cho cái hạnh đầu đà ngủ ngồi cũng muốn nằm xuống ngủ một giấc.
Môn khổ hạnh tinh tấn này thật không dễ vượt qua, không dễ tiến bước, nhưng không dễ tiến cũng phải tiến, không thể vượt qua cửa ải này cũng phải vượt qua, cho nên phải siêng tu môn khổ hạnh tinh tấn. Tinh tấn thì thân tinh tấn, tâm cũng tinh tấn, thân tinh tấn chính là siêng tu giới, định, tuệ; tâm tinh tấn chính là đoạn diệt tham, sân, si.
Năm ngoái đả thất, có người đả thiền thất, có người lại đả biểu thất. Sao gọi là đả biểu thất? Là ngồi đó mà cứ xem đồng hồ, thỉnh thoảng lại xem đồng hồ, thỉnh thoảng lại xem đồng hồ, ngồi một giờ đồng hồ mà anh ta xem đồng hồ cả trăm lần. Quý vị thấy, như vậy thì làm sao đả thất được! Cho nên lúc đó tôi khai thị rằng: “Sang năm đả thất, không cho ai được phép đeo đồng hồ, nếu ai đeo đồng hồ thì không được tham gia thiền thất”. Người này hiện tại cũng đang ở Mỹ, là một người xuất gia trẻ tuổi, anh ta chịu khổ không được, nhưng vẫn muốn gắng lì một phen.
Ở đây, anh ta chịu không nổi, bị tôi vừa nói như thế thì liền đỏ mặt tía tai, nên sau đó cũng ngại đến.
Thế nên, năm nay chúng ta đả thất, tôi không đi quan sát nữa, quý vị muốn xem đồng hồ suốt ngày cũng được, tôi cũng không quan tâm. Nhưng tôi tin rằng năm nay sẽ không có người nào xem đồng hồ. Điều này không phải dễ. Quý vị xem! Nói tu hành tu hành vậy chứ, nếu thật sự bị khảo nghiệm một chút thì đã không chịu nổi. Quý vị phải khắc cốt ghi tâm mấy câu tôi nói đây:
Tất cả là khảo nghiệm
Xem anh làm thế nào
Đối cảnh nếu không biết
Lại cần luyện từ đầu.
Nhất thiết thị khảo nghiệm
Khán nhĩ chẩm ma bạn
Đối cảnh nhược bất thức
Tu tái tùng đầu luyện
Đây là nói về phương pháp tọa thiền.
Thiền thất năm nay, người đến dự tuy không nhiều lắm, nhưng đều rất tinh tấn, mỗi người đều tự mình quản thúc mình, không giải đãi, lười biếng và nói nhiều giống như lúc trước. Nhất là Quả… (pháp danh người đệ tử) nào đó, năm ngoái đả thất đến cuối cùng, đã khai mở một chút tiểu ngộ; đả thất năm nay có lẽ đã khai mở một chút đại ngộ. Về sau, có lẽ sẽ ngộ ra: “A! Té ra mẹ mình là người nữ”, cho nên cái ngộ đã khai này cũng khá lắm!
Hoặc dùng môn thiền định tịch tịnh: tịch tịnh chính là thiền định, giống như hiện tại chúng ta đả thiền thất là môn khổ hạnh tinh tấn, cũng là môn thiền định tịch tịnh. Vì đả thất rất vất vả, không có ai giải đãi, đều rất tinh tấn, đây gọi là môn khổ hạnh tinh tấn. Tịch tịnh, tịch là tịch nhiên bất động; tịnh là thanh tịnh, rất thanh tịnh. Ngồi xuống thì “Chân không vô nhân ngã, đại đạo vô hình tướng”. Không nhân, không ngã, không chúng sinh, không thọ giả, tâm cũng không, pháp cũng không.
Tâm không thì không có ngã chấp; pháp không thì không có pháp chấp, không có tất cả chấp trước chính là tịch tịnh môn. Thiền là chữ đầu của hai chữ phiên âm tiếng Phạn – Thiền-na (dhyana); định là tam-muội (samadhi). Thiền tức thiền-na, dịch là tư duy tu, nghĩa là tư duy rồi tu hành; còn gọi là tĩnh lự, tức là dẹp đi vọng tưởng tạp niệm, không có tư lự (suy tư, nghĩ ngợi), tất cả tất cả đều không có. Quý vị có thể tĩnh lự thì trong tâm thanh tịnh; tâm thanh giống như trong nước hiện trăng sáng; ý đã định thì giống như trên trời không có mây. Đây là nói về môn thiền định.
Hoặc dùng môn trí tuệ quyết đoán: việc gì quý vị còn ngờ vực thì gọi là nhân nhu quả đoán, tức là rất nhút nhát. Quả đoán, quả là thiếu, đoán là quyết đoán; không có tâm quyết đoán, không thể phán đoán sự việc, thì gọi là quả đoán. Quý vị không thể quyết đoán chính là nhân nhu quả đoán. Gặp việc thì quý vị nhận định không rõ ràng, nghĩ muốn làm thế này thì lại không biết có tốt không, nghĩ muốn làm thế kia thì cũng không biết có tốt không, do dự hoài nghi, không thể quyết định. Quyết đoán chính là không có do dự, không có hoài nghi, không có ngờ vực thiếu tự tin.
Đừng giống như con hồ ly, lúc nào cũng hoài nghi. Hồ ly qua sông đi trên băng, bước một bước thì phải nghe ngóng một chút, nghe thử băng có tiếng động không, nếu băng có tiếng vang thì nó biết khối băng này đã mỏng, không nên đi tiếp; nếu đi nữa, ắt sẽ rơi xuống sông. Nó cẩn thận như thế, do cẩn thận như thế mà nó sinh ra hoài nghi; một khi đã hoài nghi, thì không biết nên làm thế nào mới phải. Đây gọi là do dự không quyết.
Thế nào là quyết đoán? Quyết đoán chính là có trí tuệ, có trí tuệ mới có thể quyết đoán, không có trí tuệ thì không thể quyết đoán. Quyết đoán chính là không hoài nghi, có trí tuệ, không ngu si, gặp việc thì quyết đoán được ngay, việc này nên làm thế nào, sau đó liền quyết định: “Tôi nhất định phải làm như thế!”. Đây gọi là môn trí tuệ quyết đoán.
Hoặc dùng môn phương tiện tu hành: hoặc là dùng các môn phương tiện do chính mình đã tu hành để giáo hóa chúng sinh.
Hoặc dùng môn phạm trụ thần thông
Hoặc dùng môn tứ nhiếp lợi ích
Hoặc dùng môn phước trí trang nghiêm
Hoặc dùng môn nhân duyên giải thoát.
Hoặc dĩ phạm trụ thần thông môn
Hoặc dĩ tứ nhiếp lợi ích môn
Hoặc dĩ phúc trí trang nghiêm môn
Hoặc dĩ nhân duyên giải thoát môn.
Hoặc dùng môn phạm trụ thần thông: phạm chính là thanh tịnh, thanh tịnh trụ; tu hạnh thanh tịnh, không có pháp nhiễm ô để mà đạt được một loại thần thông. Thần thông là do quý vị tu hạnh thanh tịnh mà đạt được, dùng pháp môn này để giáo hóa chúng sinh.
Hoặc dùng môn tứ nhiếp lợi ích: hoặc là dùng tứ nhiếp pháp.
1- Bố thí: Bồ-tát gặp chúng sinh nào xan tham thì dùng pháp môn phương tiện bố thí để giáo hóa.
2- Ái ngữ: Bồ-tát dùng những lời nào chúng sinh ưa thích nghe để nói cho họ nghe, khiến họ có cảm tình tốt, sau đó họ sẽ đột nhiên phát tâm Bồ-đề.
3- Lợi hành: chính là làm lợi ích cho người khác, hễ việc gì có lợi ích cho người khác thì Bồ-tát làm. Bồ-tát thỉnh thoảng cũng có nói dối, nhưng Bồ-tát nói dối là vì lợi ích cho chúng sinh; còn chúng sinh nói dối là vì lợi ích cho riêng mình. Cho nên ngay điểm này thì cũng đã có bấy nhiêu sự bất đồng, một đằng là vì lợi ích chúng sinh mà dùng pháp môn phương tiện; một đằng là vì lợi ích cá nhân mà nói dối để lừa gạt người. Tuy cùng nói dối nhưng giữa Bồ-tát và chúng sinh có sự khác biệt.
Không chỉ Bồ-tát nói dối, mà Phật cũng đã từng nắm tay không để độ đứa bé. Có đứa bé nọ sắp rơi xuống giếng, Phật thấy vậy liền nói: “Con nhanh chạy lại đây, trong tay ta có kẹo nè, ta cho con kẹo!”. Đứa nhỏ này vốn thích ăn kẹo, giống như bé Quả Phương, nếu quý vị có kẹo, thì quý vị bảo bé làm gì cũng được, cúi đầu cũng được, đảnh lễ cũng được, chắp tay chào hỏi thì càng không thành vấn đề. Phật nói trong tay có kẹo, gọi đứa nhỏ này chạy mau đến để nó không bị rơi xuống giếng.
Thực tế, lúc đó trong tay Ngài không có kẹo; không có kẹo, nhưng Ngài cũng không gạt đứa nhỏ này, vì sau đó Ngài liền tìm một viên kẹo cho nó. Thế là sinh mạng của đứa nhỏ này được cứu thoát. Chúng ta vọng ngữ không phải vì người, mà là vì chính mình; Phật và Bồ-tát vì độ chúng sinh mà phương tiện vọng ngữ để nhiếp thụ chúng sinh.
4- Đồng sự: chính là phải làm đồng loại với chúng sinh, Bồ-tát vì độ tất cả chúng sinh mà phát nguyện vào trong sáu đường luân hồi để tiếp cận với chúng sinh, đồng hình dạng, đồng giống loài với chúng sinh. Bồ-tát đã thị hiện đủ các pháp môn phương tiện, khiến chúng sinh phát tâm Bồ-đề.
Hoặc dùng môn phước trí trang nghiêm: quý vị phải tu phước và tu tuệ, nếu quý vị “Tu phước không tu tuệ, thân voi đeo anh lạc; tu tuệ không tu phước, La-hán ứng cúng ít”. Nếu quý vị chỉ biết tu trí tuệ mà không tu phước báo, thì dù chứng quả A-la-hán, đi khất thực hóa duyên cũng không có người cúng dường cho quý vị. Nếu quý vị chỉ tu phước mà không tu trí tuệ, thì giống như con voi to lớn, thân đeo anh lạc trang nghiêm xinh đẹp, nhưng không có lợi ích gì cả, vì không có trí tuệ, không thể dùng được. Phước tuệ phải song nghiêm, phước cũng trang nghiêm, tuệ cũng trang nghiêm, phước tuệ nhị nghiêm. Đây gọi là phước tuệ nhị nghiêm thân, hoặc là dùng phước để trang nghiêm thân, hoặc là dùng trí để trang nghiêm thân. Quý vị dùng pháp môn phương tiện này để giáo hóa chúng sinh.
Hoặc dùng môn nhân duyên giải thoát: hoặc là quán sát tất cả nhân duyên, xem nên dùng phương pháp nào, nhân duyên nào để độ chúng sinh nào, thì dùng pháp môn đó để giáo hóa chúng sinh đó, khiến họ nhờ sự liên hệ thành thục của nhân duyên này mà được giải thoát, thì dùng pháp môn phương tiện này để giáo hóa chúng sinh.
Hoặc dùng môn căn, lực, chánh đạo
Hoặc dùng môn Thanh văn giải thoát
Hoặc dùng môn Độc giác thanh tịnh
Hoặc dùng môn Đại thừa tự tại.
Hoặc dĩ căn, lực, chánh đạo môn
Hoặc dĩ Thanh văn giải thoát môn
Hoặc dĩ Độc giác thanh tịnh môn
Hoặc dĩ Đại thừa tự tại môn.
Hoặc dùng môn căn, lực, chánh đạo: hoặc dùng Năm Căn, Năm Lực; Hoặc Dùng Bốn Chánh Cần, Bốn Niệm Xứ, Bốn Như Ý Túc; hoặc dùng Bảy Bồ-Đề, Tám Chánh Đạo, đây là Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo.
Hoặc dùng môn Thanh văn giải thoát: hoặc dùng pháp Bốn Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo để giáo hóa Thanh văn, khiến Thanh văn đạt được giải thoát, dùng pháp môn phương tiện này để giáo hóa.
Hoặc dùng môn Độc giác thanh tịnh: hoặc dùng pháp Mười Hai Nhân Duyên giáo hóa A-la-hán của Duyên giác, giáo hóa Bích-chi-phật của Duyên giác, khiến họ đạt được pháp môn này, tu hạnh thanh tịnh, nhờ pháp môn này mà ngộ đạo.
Hoặc dùng môn Đại thừa tự tại: hoặc dùng pháp Đại thừa giáo hóa Bồ-tát, dùng pháp môn phương tiện được Phật hộ niệm này khiến Bồ-tát căn tánh Đại thừa đạt được tự tại, nhập pháp môn phương tiện này.
卍 卍 卍
Mười giờ tối nay thì thiền thất này giải, giải thất này rồi, lại tiếp tục mở thất khác. Chúng ta lấy khai ngộ làm kỳ hẹn, nên lúc nào chưa khai ngộ thì lúc đó còn phải đả thất; lúc nào khai ngộ rồi thì càng phải đả thất nhiều hơn, vì vậy mà thất của chúng ta không có lúc hoàn mãn. Quý vị đừng sợ, khi nào quý vị khai ngộ rồi, thì mới thấy điều tôi nói đây là quan trọng.
Hoặc dùng môn vô thường các khổ
Hoặc dùng môn vô ngã, vô thọ
Hoặc dùng môn bất tịnh, ly dục
Hoặc dùng môn diệt tận tam-muội.
Hoặc dĩ vô thường chúng khổ môn
Hoặc dĩ vô ngã thọ giả môn
Hoặc dĩ bất tịnh ly dục môn
Hoặc dĩ diệt tận tam-muội môn.
Hoặc dùng môn vô thường các khổ: tất cả vạn vật trên thế gian này đều vô thường, khổ, không, vô ngã, cho nên gọi là khổ, không, vô thường, vô ngã. Vô thường tức là tất cả đều biến hóa không dừng, không một vật nào tồn tại vĩnh hằng, vì vậy cho nên gọi là khổ. Khổ có ba loại, tám loại và vô lượng nỗi khổ khác.
I. Ba khổ: khổ khổ, hoại khổ, hành khổ.
1. Khổ khổ: là khổ trong khổ, khổ trên khổ, giống như chúng ta không có quần áo mặc là khổ, không có cơm ăn cũng là khổ, không có nhà ở cũng là khổ. Có quần áo mặc mà không có cơm ăn; có cơm ăn, có quần áo mặc nhưng không có nhà ở đều là khổ khổ. Thậm chí cả quần áo, cơm ăn, nhà ở đều không có, đây là khổ chồng thêm khổ. Khổ khổ tức là khốn khổ bần cùng, giống như những người nghèo thiếu, quần áo thì rách rưới, thức ăn thì chỉ là đồ thừa cặn, chỗ ở thì dột nát, mỗi ngày phải đi ăn xin để sống, đây là khổ khổ! Nếu gặp cuồng phong bão tố thì cái chòi ọp ẹp cũng bị tốc đi, bàn ghế trong nhà đều tan hoang, lúc này là khổ chồng thêm khổ.
Hoại khổ: Hoại khổ này thường chỉ cho người giàu có, không phải nghèo cùng khốn khổ, nhưng sự giàu sang kia không tồn tại mãi, hoặc là bị lửa cháy, hoặc bị giặc cướp cướp đoạt, hoặc có các phát sinh ngoài ý muốn, làm cho sự giàu sang này trở nên nghèo hoại đi. Như vậy, có người nói: “Bần cùng thì bị khổ khổ, giàu sang thì bị hoại khổ, tôi không nghèo, không giàu, nên không có khổ khổ, cũng không có hoại khổ.” Nhưng quý vị có hành khổ.
Hành khổ: chính là từ nhỏ đến lớn, từ lớn đến già, từ già đến chết, mỗi niệm trôi qua, niệm niệm không dừng, giống như con sóng, không thể dừng lại trong một đời này. Đây gọi là hành khổ. Quý vị không có bần cùng khổ khổ, cũng không có giàu sang hoại khổ, nhưng từ khi quý vị sanh đến khi chết có một chuỗi hành khổ, hành khổ này không ai tránh khỏi. Đây là nói về ba khổ.
II. Tám khổ: khổ sinh, khổ già, khổ bệnh, khổ chết, khổ thương nhau mà xa lìa, khổ ghét nhau mà lại gặp mặt, khổ mong cầu mà không toại ý, khổ vì năm ấm xí thạnh. Khi sanh đã rất khó chịu, khổ như rùa sống thoát xác, cho nên hài nhi vừa sinh ra, nó không nói gì khác ngoài: “Khổ a, khổ a, khổ a! Đến cái thế giới khổ này, thật khổ a, thật khổ a!”. Nó cứ kêu khổ, kêu khổ không ngớt. Và con người đến khi chết cũng không thoải mái. Lúc đến rất đau khổ, lúc đi cũng rất khổ đau, giống như cái gì? Giống như trâu sống bị lột da, trâu đang sống mà đem đi lột da, quý vị nói có đau đớn không? Cho nên đây cũng là khổ không thể nói.
Có người nói: “Thế, không có cái khổ nào khác ư?”. Còn có khổ già! Con người ta lúc trẻ thì không cảm thấy có vấn đề gì cả, nhưng đến lúc già thì mắt mờ, tai điếc, nghe không được, nó nói nó muốn nghỉ hưu. Mắt muốn nghỉ hưu, tai cũng muốn nghỉ hưu; cứng nhất là răng mà nó cũng muốn nghỉ hưu. Răng nói: “Tôi giúp anh đã nhiều năm rồi, bây giờ tôi muốn nghỉ hưu!”. Cho nên răng cũng rụng, nó cũng bỏ đi.
Răng rụng là hiện tượng già, đầu tóc cũng bạc. Hàn Dũ nói: “Nhi thị mang mang, nhi phát thương thương, nhi xỉ nha động diêu hĩ!”. Thị mang mang chính là nhìn không thấy rõ; phát thương thương chính là đầu tóc bạc trắng; nhi xỉ nha động diêu chính là răng cũng lung lay, âm thầm rụng hết. Như vậy bộ máy của thân thể này không còn làm việc nữa. Tay cũng run, quý vị cầm vật gì, vừa cầm lên thì tay run, cầm không được; chân cũng không nghe lời, quý vị muốn đi tới thì nó lại đi thụt lùi về phía sau. Nó nói: “Tôi muốn nghỉ ngơi, tôi muốn nghỉ ngơi”. Lúc này, bộ máy của toàn thân đều không muốn hoạt động. Đây là nỗi khổ già. Nhưng già thì cũng còn có thể gắng sức được, không sao, chỉ sợ bệnh. Bệnh này có người thì bệnh dạ dày, ăn thức ăn vô mà không cảm nhận được hương vị; có người thì bị các chứng bệnh khác. Đây là nỗi khổ bệnh. Tóm lại, sinh, già, bệnh, chết đều là khổ.
Lại có nỗi khổ thương nhau mà bị xa lìa. Quý vị càng muốn thương, mà người ta thì càng muốn xa lìa, quý vị nói đây có phải khổ không? Quý vị có một người bạn trai, người này thử thách quý vị rằng: “Em không phải là bạn gái tôi!”. Quý vị nói đây có khổ không? Đây là rất khổ, đêm ngủ không được, ngày ăn không ngon, khổ cực kỳ.
Khổ oán thù nhau mà gặp gỡ, tức là quý vị oán ghét ai đó, càng không muốn gặp họ thì lại càng gặp, càng va chạm.
Khổ mong cầu mà không được toại ý, tức là quý vị muốn cầu điều gì đó mà không được.
Khổ vì năm ấm xí thạnh, tức là năm ấm sắc, thụ, tưởng, hành, thức giống như lửa cháy hừng hực.
Ở đây chỉ nói giản lược, nếu nói chi tiết thì khổ này có rất nhiều.
Hoặc dùng môn vô ngã, vô thọ: trước dùng môn vô thường các khổ để giáo hóa chúng sinh, bây giờ lại dùng môn vô ngã này để giáo hóa, nói: “Quý vị đừng bị cái ngã làm cho chấp trước, cái ngã này là đãy da hôi! Quý vị giúp đỡ nó, đến lúc nào đó nó không cần quý vị, thì nó tự bỏ đi”. Vậy thì rốt cuộc môn vô ngã, vô thọ nghĩa là đã không có ngã, thì làm sao có thọ. Bồ-tát dùng pháp môn phương tiện không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có tướng chúng sinh, không có tướng thọ giả này để giáo hóa chúng sinh.
Hoặc dùng môn bất tịnh, ly dục: Bồ-tát bảo mọi người rằng: “Quý vị đừng nhớ nghĩ đến dục, dục này không thanh tịnh, quý vị nên bỏ dục đoạn ái. Quý vị muốn lìa khổ được vui, thì phải bỏ dục đoạn ái, chớ khởi pháp nhiễm ô này. Nếu quý vị cứ sống với pháp nhiễm ô này, thì không thể thoát khỏi ba cõi”. Cho nên Bồ-tát phải tu pháp quán bất tịnh, quán chín lỗ (hai mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi, miệng, đường đại tiện, đường tiểu tiện) thường chảy ra chất bất tịnh; mắt có ghèn, tai có ráy, mũi có nước mũi, miệng có nước miếng. Nếu mấy ngày mà quý vị không xúc miệng đánh răng thì mùi hôi trong miệng chẳng khác gì mùi hôi ở nhà xí. Không tin thì quý vị cứ thử xem, có gì khác biệt chăng? Đây thật là không thanh tịnh. Lại có chất đại tiện, tiểu tiện là thứ không sạch sẽ, chín lỗ này thường chảy ra chất bất tịnh. Bồ-tát phải tu pháp quán bất tịnh, dùng pháp môn phương tiện này để giáo hóa chúng sinh.
Hoặc dùng môn diệt tận tam-muội: hoặc dùng môn diệt tận tức là diệt tận định. Thế nào là diệt tận? Là không còn vọng tưởng, không còn tâm tham, không còn tâm sân, không còn tâm si, diệt tận tất cả bệnh tập khí. Đạt được định này thì quý vị rất dễ ra khỏi ba cõi, cho nên dùng pháp môn phương tiện diệt tận định này để giáo hóa chúng sinh. Bồ-tát dùng hai mươi môn (20) này để giáo hóa chúng sinh, môn nào cũng đều là pháp môn bất nhị.
4.5.3 TỔNG KẾT NHIỀU NGUYÊN NHÂN
Tùy bệnh chẳng đồng của chúng sinh
Đều dùng thuốc pháp để trị liệu
Tùy tâm ưa thích của chúng sinh
Đều dùng phương tiện khiến đầy đủ
Tùy nghiệp sai biệt của chúng sinh
Đều dùng thiện xảo khiến thành tựu.
Tùy chư chúng sinh bệnh bất đồng
Tất dĩ pháp dược nhi đối trị
Tùy chư chúng sinh tâm sở nhạo
Tất dĩ phương tiện nhi mãn túc
Tùy chư chúng sinh hành sai biệt
Tất dĩ thiện xảo nhi thành tựu.
Chúng sinh có tám vạn bốn ngàn chứng bệnh, nên Phật nói tám vạn bốn ngàn pháp môn. Cho nên nói Tùy bệnh chẳng đồng của chúng sinh: đôi khi một chúng sinh cũng có tám vạn bốn ngàn chứng bệnh; hoặc là có chúng sinh bệnh nhiều một chút, có chúng sinh bệnh ít một chút, nhiều chúng sinh cùng hợp lại nên thành ra tám vạn bốn ngàn chứng bệnh.
Đều dùng thuốc pháp để trị liệu: Phật dùng thuốc pháp này để điều trị tất cả bệnh khổ cho chúng sinh, tùy bệnh mà cho thuốc.
Tùy tâm ưa thích của chúng sinh: tùy sở thích của chúng sinh, chúng sinh thích gì, thì Ngài dùng pháp môn phương tiện đó để nói pháp cho họ nghe. Cho nên nói Đều dùng phương tiện khiến đầy đủ: dùng đủ các pháp môn phương tiện làm cho tất cả sở thích và điều mong cầu của chúng sinh được đầy đủ.
Trong mười đại nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền có một nguyện là “Hằng thuận chúng sinh”, hằng thuận chúng sinh cũng chính là tùy thuận chúng sinh; tùy thuận chúng sinh cũng chính là Tùy nghiệp sai biệt của chúng sinh: tùy thuận tất cả hành nghiệp bất đồng của chúng sinh. Chúng sinh có hành nghiệp khác nhau cho nên gọi là sai biệt.
Đều dùng thiện xảo khiến thành tựu: không luận hành vi tạo tác của chúng sinh thuộc loại hành nghiệp nào, chư Phật Bồ-tát cũng đều dùng thiện xảo; thiện xảo là tên khác của pháp môn phương tiện, thiện xảo chứ không phải ác xảo. Giáo hóa chúng sinh thì phải dùng phương tiện thiện xảo, chứ không phải áp bức chúng sinh. Cho nên, Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo này khiến tất cả chúng sinh thành tựu hành nghiệp.
4.5.4 TỔNG KẾT DỤNG KHÓ ĐO LƯỜNG
Những tướng tam-muội thần thông ấy
Tất cả trời người chẳng lường được.
Như thị tam-muội thần thông tướng
Nhất thiết thiên nhân mạc năng trắc.
Những tướng tam-muội thần thông ấy: giống như tướng của các tam-muội, các thần thông đã nói ở trước, Tất cả trời người chẳng lường được: đây là cảnh giới mà tất cả chư thiên, người trên cõi trời và người ở thế gian không thể suy đoán, không thể biết rõ.
4.6 TỨ NHIẾP NHIẾP SINH TAM-MUỘI MÔN
4.6.1 NÊU CHUNG TÊN VÀ DỤNG
Có diệu tam-muội tên Tùy lạc
Bồ-tát trụ đây, quán sát khắp
Tùy nghi thị hiện độ chúng sinh
Đều khiến vui lòng theo chánh pháp.
Hữu diệu tam-muội danh Tùy lạc
Bồ-tát trụ thử phổ quán sát
Tùy nghi thị hiện độ chúng sinh
Tất sử hoan tâm tùng pháp hóa.
Có diệu tam-muội tên Tùy lạc: lại có tam-muội tên là Tùy lạc. Diệu tam-muội Tùy lạc cũng chính là tam-muội làm cho tất cả chúng sinh vui, khiến chúng sinh đều hoan hỷ.
Bồ-tát trụ đây, quán sát khắp: đại Bồ-tát hành đạo Bồ-tát trụ ở tam-muội Tùy lạc, quán sát trùm khắp sở thích của tất cả chúng sinh. Cho nên nói Tùy nghi thị hiện độ chúng sinh: Bồ-tát có thể tùy căn cơ mà giáo hóa tất cả chúng sinh. Nghi nghĩa là nên, nên dùng nhân duyên gì độ được thì Bồ-tát dùng phương pháp đó để giáo hóa, đây gọi là tam-muội Tùy lạc. Chúng sinh nào hoan hỷ thì Bồ-tát dùng phương pháp này để giáo hóa. Đều khiến vui lòng theo chánh pháp: khiến chúng sinh sinh tâm hoan hỷ, ưa thích, y giáo tu hành theo giáo pháp của Phật.
4.6.2 NÊU CHI TIẾT
4.6.2.1 BỐ THÍ NHIẾP
Gặp kiếp đói khát, lúc tai nạn
Ban cho thế gian vật ưa thích
Tùy chỗ họ muốn đều khiến đủ
Vì khắp chúng sinh làm lợi ích.
Hoặc cho những vật uống ăn ngon
Y phục, tư trang, những vật tốt
Cả đến ngôi vua đều xả được
Khiến người ưa thí đều tùng hóa.
Kiếp trung cơ cận tai nạn thời
Tất dữ thế gian chư lạc cụ
Tùy kỳ sở dục giai linh mãn
Phổ vị chúng sinh tác nhiêu ích.
Hoặc dĩ ẩm thực thượng hảo vị
Bảo y nghiêm cụ chúng diệu vật
Nãi chí vương vị giai năng xả
Linh hiếu thí giả tất tùng hóa.
Gặp kiếp đói khát, lúc tai nạn: Bồ-tát trụ trong tam-muội Tùy lạc, gặp kiếp đói khát tức là không có cơm ăn, không có đồ vật sinh hoạt, đây gọi là kiếp đói khát. Lúc tai nạn tức là hoặc có họa sâu bệnh, họa gió bão, họa mưa đá, làm cho mất mùa không thâu hoạch được.
Ban cho thế gian vật ưa thích: lúc này, Bồ-tát sẽ hiển bày thần thông, ban cho chúng sinh những vật dụng ưa thích, Tùy chỗ họ muốn đều khiến đủ: tùy tâm chúng sinh ưa thích mà khiến họ được đầy đủ, tùy tâm mãn nguyện.
Vì khắp chúng sinh làm lợi ích: Làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến họ được an lạc.
Hoặc cho những vật uống ăn ngon: tất cả chúng sinh đều ưa thích ăn món ngon, nếu quý vị cho họ một chút vật gì ngon thì họ hoan hỷ; cho họ một bộ y phục đẹp thì họ cũng hoan hỷ; cho họ một ngôi nhà xinh thì họ cũng hoan hỷ. Cho nên ăn uống cũng là vấn đề rất quan trọng. Người Trung Hoa không có tài cán gì, chỉ có ăn là giỏi nhất, chuyên nghiên cứu việc chế biến thức ăn, làm thế nào điều hòa mùi vị của thức ăn, khiến người ăn rồi lại muốn ăn nữa, ăn nữa, ăn không biết chán. Hai ba ngàn năm về trước, người Trung Hoa đã chuyên nghiên cứu về món ăn, nghiên cứu đến bây giờ, vẫn còn biến đổi phương pháp, nghĩ cách chế biến thức ăn sao cho ngon nhất. Cho nên, nếu quý vị cho chúng sinh ăn, chúng sinh cũng hoan hỷ, thì ngay đó quý vị giảng một chút Phật pháp cho họ nghe, họ cũng rất hoan hỷ.
Y phục, tư trang, những vật tốt: y phục quý nhất là y báu giá trị nhất, thậm chí dùng kim cương, vàng ròng viền lên. Mặc bộ y phục này vào thì không cần đốt đèn, trong phòng cũng tỏa sáng. Cho nên dùng y phục, tư trang này để trang nghiêm thân, khiến thân cũng xinh đẹp. Những vật tốt tức là tất cả đồ vật có giá trị.
Cả đến ngôi vua đều xả được: làm hoàng đế, quốc vương, cái địa vị rất khó xả bỏ này đều có thể xả bỏ, đều có thể bố thí cho người khác.
Thuở xưa, ở Trung Hoa, có hai người ngu si như thế, một người gọi là Bá Di, một người gọi là Thúc Tề. Cha của họ là vua. Vua cha muốn trao vương vị cho người em thì người em nói: “Anh con lớn hơn, cha nên truyền ngôi cho anh ấy”. Người anh thì nói: “Con ngu si lắm, em con thông minh hơn, cha nên truyền ngôi cho em con!”. Hai người này cứ nhường qua nhường lại mãi, cuối cùng không ai chịu làm hoàng đế, nên vua cha đành truyền ngôi lại cho một người khác. Quý vị thấy hai người này có ngu si lắm không? Nhưng lịch sử lại cho rằng hai người họ là hiền nhân. Hai người họ có một điểm tốt, đó là “Bá Di, Thúc Tề không nhớ thù xưa” (Bá Di, Thúc Tề bất niệm cựu ác). Nếu ai đó trước kia đối xử không tốt với họ thì họ cũng không nhớ, không ghi.
Đến khi Vũ Vương phạt Trụ, hai người họ cưỡi ngựa đến nói với Vũ Vương: “Ngươi là một đại thần, không thể chinh phạt vua, không thể tác chiến với vua”. Vũ Vương không nghe, sau đó đánh bại Trụ Vương. Trụ Vương chết. Lúc này là triều đại nhà Ân, sau đổi quốc hiệu thành Châu. Hai người này về sau càng ngu si hơn, ngu đến mức độ nào? Họ nói: “Ngươi đã đổi quốc hiệu! Được! Từ nay bọn ta không ăn ngũ cốc của ngươi, bọn ta không ăn lương thực này”.
Thế là họ lên núi Thủ Dương hái rau dại ăn sinh sống. Sau đó, Chu Vũ Vương muốn dùng họ, bởi vì họ cũng có năng lực rất lớn, nhưng triệu thỉnh thế nào họ cũng không đến. Vũ Vương tức giận cho người phát bỏ hết rau dại, bỏ đói họ, tưởng làm thế thì hai người họ chắc chắn sẽ ra. Không ngờ họ chấp nhận chịu đói cho đến chết ở núi Thủ Dương. Trung Hoa có hai người này. Quý vị xem! Có phải họ quá ngu si không? Tuy vậy, nhưng người đời sau đều cho rằng hai người này là bậc thánh hiền. Đây là nói về việc xả bỏ vương vị.
Khiến người ưa thí đều tùng hóa: khiến chính là ảnh hưởng, ảnh hưởng tất cả những người ưa thích bố thí, đều tùng hóa tức là đều cùng hành bố thí với Bồ-tát.
Hoặc dùng tướng hảo trang nghiêm thân
Y phục thượng diệu, chuỗi ngọc báu
Tràng hoa nghiêm sức, hương thoa thân
Uy nghi đầy đủ độ chúng sinh.
Điều cả thế gian cùng ưa chuộng
Sắc tướng, dung nhan và y phục
Tùy nghi hiện khắp, vui lòng họ
Khiến kẻ ưa sắc theo chánh Đạo.
Hoặc dĩ tướng hảo trang nghiêm thân
Thượng diệu y phục bảo anh lạc
hoa man vi sức hương trà thể
Uy nghi cụ túc độ chúng sinh.
Nhất thiết thế gian sở hiếu thượng
Sắc tướng nhan dung cập y phục
Tùy ứng phổ hiện khiếp kỳ tâm
Tỷ nhạo sắc giả giai tùng Đạo.
Hoặc dùng tướng hảo trang nghiêm thân: hoặc là dùng tướng hảo này trang nghiêm thân,
Y phục thượng diệu, chuỗi ngọc báu: hoặc dùng y phục quý giá nhất, hoặc dùng chuỗi ngọc báu.
Tràng hoa nghiêm sức, hương thoa thân: hoặc đeo tràng hoa thơm, hoặc dùng hương để thoa chà trên thân,
Uy nghi đầy đủ độ chúng sinh: vì sao Bồ-tát phải làm như thế? Không phải Bồ-tát này thích đeo những vật trang sức, mà là muốn đầy đủ uy nghi để độ chúng sinh, giáo hóa chúng sinh.
Nếu quý vị có hình dạng xấu xí, tướng mạo thật dễ sợ giống như Bồ-đề Đạt Ma. Bồ-đề Đạt Ma trước kia vốn là một chàng trai tuấn tú, nhưng vì ngài quá sợ nữ nhân Trung Hoa, cho nên đã biến thành một người có hình dạng rất xấu xí để đến Trung Hoa. Quý vị xem, mắt của Ngài thì tròn tròn, râu ria dài rậm, hình dạng thật dễ sợ. Vì Bồ-đề Đạt Ma không muốn độ nhiều chúng sinh, cho nên chỉ độ một mình Nhị Tổ Thần Quang là đủ.
Điều cả thế gian cùng ưa chuộng: điều mà tất cả thế gian này đều hoan hỷ, ưa chuộng đó là Sắc tướng, dung nhan và y phục: hoặc là sắc tướng, tướng mạo đầy đặn, nhan sắc cũng rất xinh đẹp, y phục cũng rất xinh đẹp.
Tùy nghi hiện khắp, vui lòng họ: tùy tâm chúng sinh mà ứng hiện rộng khắp đến mọi nơi, khiến chúng sinh đều hoan hỷ, hài lòng.
Khiến kẻ ưa sắc theo chánh Đạo: như vậy mới có thể khiến cho những chúng sinh tham đắm sắc tướng, ưa thích sắc tướng phát tâm Bồ-đề, tu đạo vô thượng.
4.6.2.2 ÁI NGỮ NHIẾP
Tiếng ca-lăng-tần-già mỹ diệu
Âm thanh diệu câu-chỉ-la thảy
Các loại phạm âm đều đầy đủ
Tùy lòng họ thích vì thuyết pháp.
Ca-lăng-tần-già mỹ diệu âm
Câu-chỉ-la đẳng diệu âm thanh
Chủng chủng phạm âm giai cụ túc
Tùy kỳ tâm nhạo vị thuyết pháp.
Tiếng Ca-lăng-tần-già mỹ diệu: Ca-lăng-tần-già là tên một loài chim, âm thanh của nó rất hay, chim này còn gọi là chim hảo thanh. Vì âm thanh của nó hay hơn bất kỳ âm thanh nào, cho nên gọi âm thanh này là tiên âm. Ca-lăng-tần-già tiên âm tức là âm thanh của loài chim này được xem như âm thanh thần tiên.
Âm thanh diệu Câu-chỉ-la thảy: Câu-chỉ-la là Phạn ngữ, dịch là chúng thanh, các âm hòa hợp, có rất nhiều âm thanh khác nhau cùng hòa hợp, cho nên âm thanh này cũng rất hay.
Các loại phạm âm đều đầy đủ: không chỉ có âm thanh của chim Ca-lăng-tần-già này, mà còn có âm thanh của các âm hòa hợp, còn có các phạm âm, tức là âm thanh thanh tịnh. Các diệu âm này đều đầy đủ viên mãn.
Tùy lòng họ thích vì thuyết pháp: Bồ-tát dùng các diệu âm này, tùy tâm chúng sinh ưa thích âm thanh gì, thì dùng âm thanh đó nói pháp cho họ nghe, khiến chúng sinh nào nghe được âm thanh này liền phát tâm Bồ-đề; nếu được nghe pháp thì càng phát tâm Bồ-đề hơn. Cho nên mười phương chư Phật Bồ-tát dùng diệu âm này tùy tâm chúng sinh ưa thích mà thuyết pháp.
Tám vạn bốn ngàn các pháp môn
Chư Phật dùng đây độ chúng sinh
Kia cũng thuận theo pháp sai biệt
Tùy thế sở nghi mà hóa độ.
Bát vạn tứ thiên chư pháp môn
Chư Phật dĩ thử độ chúng sinh
Bỉ diệc như kỳ sai biệt pháp
Tùy thế sở nghi nhi hóa độ.
Tám vạn bốn ngàn các pháp môn: Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, nhưng pháp môn nào cũng là pháp môn đệ nhất, không phải pháp môn đệ nhị, cho nên tám vạn bốn ngàn pháp môn thì có tám vạn bốn ngàn pháp môn đệ nhất. Sở dĩ gọi đệ nhất là bởi vì phù hợp với căn cơ của chúng sinh. Phù hợp với căn cơ của chúng sinh thì là đệ nhất. Nếu không phù hợp với căn cơ của chúng sinh này thì phù hợp với căn cơ của chúng sinh khác, hễ phù hợp với căn cơ của một chúng sinh nào, thì đó chính là pháp môn đệ nhất.
Chúng sinh có vô lượng vô biên, pháp Phật đã thuyết cũng vô lượng vô biên, tám vạn bốn ngàn pháp môn đã nói đây chỉ là nói một cách tổng quát. Nếu phân tích kỹ ra, thì pháp môn có vô lượng vô biên, con số chẳng qua chỉ để đại khái như thế, cho nên gọi là các pháp môn. Sở dĩ gọi là các pháp môn là vì một pháp môn cũng gọi là các, tất cả pháp môn cũng gọi là các.
Chư Phật dùng đây độ chúng sinh: một đức Phật cũng gọi là chư Phật, mà tất cả chư Phật ba đời ở mười phương cùng tụ hội đến cũng gọi là chư Phật, cho nên chư Phật này chính là Phật Phật, tất cả Phật. Chư Phật dùng tám vạn bốn ngàn pháp môn để độ thoát tất cả chúng sinh, khiến tất cả chúng sinh đều phát tâm Bồ-đề, thành tựu Phật quả.
Kia cũng thuận theo pháp sai biệt: kia chính là tất cả chư Phật cũng tùy thuận chúng sinh, nói pháp môn bất đồng cho chúng sinh nghe, để giáo hóa chúng sinh bất đồng.
Tùy thế sở nghi mà hóa độ: tùy thế là tùy thuận pháp thế gian, sở nghi là phương pháp tốt nhất. Phương pháp nào lợi ích thích hợp, nên dùng để độ chúng sinh thì Phật nói pháp môn đó để độ tất cả chúng sinh. Tức là nên dùng pháp nào độ được thì Phật sẽ nói pháp đó cho chúng sinh nghe, khiến chúng sinh phát tâm Bồ-đề, thành tựu Phật quả.
4.6.2.3 ĐỒNG SỰ NHIẾP
Chúng sinh khổ, lạc, lợi, suy thảy
Những việc tạo tác của thế gian
Đều hay ứng hiện đồng kỳ sự
Dùng đây độ khắp các chúng sinh.
Chúng sinh khổ lạc lợi suy đẳng
Nhất thiết thế gian sở tác pháp
Tất năng ứng hiện đồng kỳ sự
Dĩ thử phổ độ chư chúng sinh.
Ở trên đã nói về bố thí, ái ngữ, bây giờ nói về đồng sự, đây là nói về tứ nhiếp pháp.
Chúng sinh khổ, lạc, lợi, suy thảy: khổ, lạc, lợi, suy là thuộc bát phong; bát phong gồm: xưng, cơ, khổ, lạc, lợi, suy, đắc, thất.
Xưng tức xưng tán, là khen quý vị tốt, dùng đủ thứ ngôn từ để khen ngợi quý vị: “Ồ! Ngài thật là một bậc đại tu hành, ngài là một bậc thánh. Ồ! Ngài là thiện tri thức khai ngộ”. “Ồ! Ngài thật giỏi, ngài thật là đệ nhất thế gian”.
Cơ tức cơ phúng, là chê bai mỉa mai. Quý vị không đủ trình độ này mà họ nói quý vị đủ, rõ ràng thấy là khen ngợi, trên thực tế thì chế nhạo mỉa mai, khiến quý vị nghe rất khó chịu.
Gió khen ngợi, gió chê bai, gió khổ, gió vui, gió lợi ích, gió suy bại, gió được, gió mất chính là tám ngọn gió.
Có người lại gọi là hủy dự, hủy chính là phỉ báng, dự chính là khen ngợi. Thế gian này là như thế, người dở thì cũng có kẻ khen ngợi; người giỏi thì cũng có kẻ chê bai, cho nên đây đều gọi là bát phong. Được mọi người khen ngợi mà quý vị vui mừng thì quý vị đã bị gió thổi động; bị mọi người chê bai mà quý vị buồn phiền thì quý vị cũng đã bị gió thổi động. Gió này cũng như một trận gió, thổi quý vị chao động muốn ngả nghiêng.
Những việc tạo tác của thế gian: các pháp mà thế gian đã tạo tác chính là các pháp hữu vi,
Đều hay ứng hiện đồng kỳ sự: chư Phật, Bồ-tát đều hay ứng hiện. Ngài có thể hiện ra tất cả pháp ở thế gian này, và còn nhận lấy những việc khổ nhọc. Đồng kỳ sự tức là đồng đi thụ khổ, lạc, xưng, cơ (hủy, dự), đắc, thất với quý vị.
Dùng đây độ khắp các chúng sinh: dùng đủ phương pháp đồng sự này để giáo hóa tất cả chúng sinh.
Nói bát phong, tôi lại nghĩ đến Tô Đông Pha. Tô Đông Pha là một người có học vấn uyên thâm và cũng có thực chất tu hành, dụng công cũng đạt được chút cảnh giới, chứ chẳng phải chỉ khẩu đầu thiền (thiền ở cửa miệng). Ngày nọ, đang tọa thiền, ông thấy mình có một pháp thân, pháp thân này hiện ra đảnh lễ chư Phật trong mười phương. Vì ông là người rất có học vấn, cho nên nói:
Kính lễ Thiên Trung Thiên
Hào quang chiếu đại thiên
Bát phong xuy bất động
Đoan tọa tử kim liên.
Kính lễ Thiên Trung Thiên, Hào quang chiếu đại thiên: Ồ! Lúc đó, ông ta nhìn thấy chư Phật ở mười phương phóng quang chiếu đến ông ta, ông ta được ánh sáng này chiếu thì lập tức có một phản xạ, cũng có ánh sáng, thế là ánh sáng và ánh sáng phản chiếu lẫn nhau. Ồ! Chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới, cảnh giới này thật tốt thay! Ông lại nhìn thấy chư Phật ở mười phương đều ngồi trên hoa sen màu vàng ròng. Ô! Ông cũng ngồi trên hoa sen vàng đó và nói: “Ồ! Ta ngồi vững vàng trên hoa sen vàng ròng thế này, bây giờ có tám gió thổi, ta cũng không động”.
Ông ta làm bài kệ tụng này xong, thầm nghĩ: “Ồ! Bài kệ tụng này thật hay, thật là kệ tụng khai ngộ”. Bấy giờ, đang ở Giang Nam , ông vội sai người cầm bài kệ tụng này chạy sang Giang Bắc đưa cho thiền sư Phật Ấn xem. Tự nhủ thầm: “Ông xem! Tôi đây cũng đã khai ngộ. Ồ! Tôi đã đạt được cảnh giới này! Chắc ông không có cảnh giới này đâu!”. Thiền sư Phật Ấn vừa xem bài kệ xong, liền phê vào bốn chữ: “Đánh rắm! Đánh rắm!”. Phê xong, thiền sư nói: “Ngươi cầm về đưa cho học sĩ của ngươi xem đi!”. Người đưa thư này vốn không biết chữ, chứ nếu biết chữ thì chắc ông ta cũng không dám cầm về đưa cho Tô Đông Pha xem. Vì không biết chữ cho nên cái đánh rắm mà ông ta cũng không cảm thấy thối, cũng không cảm thấy có quan hệ gì, liền cầm về cho Tô Đông Pha xem. Tô Đông Pha vừa xem xong liền nổi giận: “Đây là lời khai ngộ của ta, lời thành thật này mà ông bảo là đánh rắm, đánh rắm, thật vô lý! Ta mặc y phục đi đánh cái gã hòa thượng trọc đầu này mới được!”.
Từ Giang Nam , ông liền chạy sang Giang Bắc, nói: “Sao ông lại sỉ nhục tôi như vậy chứ? Tôi viết bài kệ tụng khai ngộ đó, mà ông lại bảo là đánh rắm, đánh rắm ư!”. Thiền sư Phật Ấn nói: “Ồ! Ông thật là bát phong xuy bất động mà! Có thể nào bị hai cái đánh rắm của tôi lại khiến ông từ Giang Nam chạy sang Giang Bắc! Tôi hỏi ông, hiện ông đã khai cái ngộ gì rồi?”. Tô Đông Pha gật gù: “Ồ! Thật là ông ta đánh rắm hai cái mà khiến ta từ Giang Nam chạy sang Giang Bắc, hai cái đánh rắm này cũng là một trận gió, ông ta không đốt pháo, chỉ đánh rắm hai cái thì ta liền chạy đến”. Thế nên, ông nguôi giận cúi đầu tự nhủ: “Ồ! Ta phải tu tập lại từ đầu”.
Tất cả khổ hoạn ở thế gian
Sâu rộng vô bờ như biển lớn
Đồng sự với họ, hành nhẫn nhục
Khiến họ lợi ích được an lạc.
Nhất thiết thế gian chúng khổ hoạn
Thâm quảng vô nhai như đại hải
Dữ bỉ đồng sự tất năng nhẫn
Linh kỳ lợi ích đắc an lạc.
Bốn câu kệ này là nói lên tinh thần Bồ-tát hay đồng sự.
Tất cả khổ hoạn ở thế gian: chính là nói tất cả khổ não ở thế gian, cái hoạn nạn làm cho đau khổ lẫn nhau này, Sâu rộng vô bờ như biển lớn: khổ nạn này có bao nhiêu? Nhiều không có bờ mé, giống như biển lớn, sâu không thể đo lường.
Đồng sự với họ, hành nhẫn nhục: chúng sinh thụ khổ ở đó, Bồ-tát cũng thị hiện cùng thụ khổ với chúng sinh và thực hành hạnh nhẫn nhục. Thấy Bồ-tát nhẫn nhục như thế, tất cả chúng sinh cũng đều nhẫn nhục.
Khiến họ lợi ích được an lạc: Bồ-tát khiến tất cả chúng sinh ở trong khổ nạn mà không cảm thấy khổ, lại còn được lợi ích, được an lạc; có thể thoát khỏi tất cả khổ nạn, đạt được an vui vĩnh viễn. Đây là phương pháp đồng sự của Bồ-tát.
4.6.2.4 LỢI HÀNH NHIẾP
Có người chẳng biết pháp xuất ly
Chẳng cầu giải thoát, lìa ồn náo
Vì họ, Bồ-tát hiện xả bỏ
Ưa thích xuất gia, tâm tịch tịnh.
Nhược hữu bất thức xuất ly pháp
Bất cầu giải thoát ly huyên hội
Bồ-tát vi hiện xả quốc tài
Thường lạc xuất gia tâm tịch tĩnh.
Có người chẳng biết pháp xuất ly: tất cả chúng sinh trên thế gian này không biết làm thế nào thoát khỏi cái biển khổ mênh mông không có bờ mé, không biết phương pháp thoát khỏi biển khổ này.
Chẳng cầu giải thoát, lìa ồn náo: họ cũng không muốn tìm phương pháp giải thoát, xa lìa sự ồn ào náo loạn của thế gian. Vì thế gian không thanh tịnh, quá ồn náo nên con người dường như cuồng loạn.
Vì họ, Bồ-tát hiện xả bỏ: vì chúng sinh nên Bồ-tát thị hiện xả bỏ đất nước, tài sản.
Ưa thích xuất gia, tâm tịch tịnh: Giống như Phật Thích-ca Mâu-ni vốn là một thái tử của quốc vương, tương lai sẽ làm quốc vương; không chỉ làm quốc vương mà ngài còn có thể làm Chuyển luân thánh vương, có bảy báu thường tùy thân. Nhưng ngài đã xả bỏ cái địa vị quốc vương này, không cần đến nó, hoan hỷ đi xuất gia, không muốn làm người thế tục. Tâm tịch tịnh, tâm ngài rất bình tĩnh, rất vắng lặng, rất thanh tịnh, không dao động.
Nhà là chốn tham ái, trói buộc
Muốn khiến chúng sinh đều lìa khỏi
Nên hiện xuất gia đắc giải thoát
Không hề ưa thích các dục lạc.
Gia thị tham ái hệ phược sở
Dục sử chúng sinh tất miễn ly
Cố thị xuất gia đắc giải thoát
Ư chư dục lạc vô sở thụ.
Nhà là chốn tham ái, trói buộc: cái nhà này chính là nơi làm cho chúng sinh sinh tham ái. Trói buộc chính là không được giải thoát. Cái nhà này là chỗ không được tự do, thường gông cùm chúng sinh.
Muốn khiến chúng sinh đều lìa khỏi: Bồ-tát vì muốn khiến tất cả chúng sinh đều lìa khỏi sự trói buộc, không tự do này,
Nên hiện xuất gia đắc giải thoát: cho nên thị hiện xuất gia tu đạo, đạt được giải thoát chân chánh, tự do chân chánh, để độ chúng sinh xuất gia.
Không hề ưa thích các dục lạc: Bồ-tát không có tham luyến thụ hưởng tất cả cảnh nhiễm ô, khoái lạc, thích thú ở thế gian.
Bồ-tát thị hiện hành mười hạnh
Và hành tất cả pháp đại nhân
Hành hạnh chư tiên đều không sót
Vì muốn lợi ích cho chúng sinh.
Bồ tát thị hành thập chủng hạnh
Diệc hành nhất thiết đại nhân pháp
Chư tiên hạnh đẳng tất vô dư
Vị dục lợi ích chúng sinh cố.
Bồ-tát thị hiện hành mười hạnh: Bồ-tát dạy cho chúng sinh mười hạnh tu. Mười hạnh tu này đều lợi ích cho chúng sinh. Mười hạnh thanh tịnh này chia làm hai phần: y ngoại thanh tịnh và y nội thanh tịnh.
Y ngoại thanh tịnh có năm:
1. Vô tội lợi hành
2. Bất chuyển lợi hành
3. Tiệm thứ lợi hành
4. Biến hành lợi hành
5. Như ứng lợi hành.
Y nội thanh tịnh cũng có năm:
1. Đối với hữu tình, chư Bồ-tát khởi tâm đại bị rộng lớn, ý vui hiện tiền mà hành lợi hành.
2. Đối với các hữu tình, chư Bồ-tát làm việc lợi ích, tuy thụ tất cả khổ nhọc, mà tâm không mỏi mệt, thâm tâm hoan hỷ, vì các hữu tình mà hành lợi hành.
3. An trụ ở địa vị và tiền tài tối thắng bậc nhất, mà tự khiêm hạ như con, như nô bộc, và lìa kiêu mạn mà hành lợi hành.
4. Tâm không ái nhiễm, không có hư ngụy, chân thật thương xót mà hành lợi hành.
5. Khởi tâm từ mẫn rốt ráo không còn thoái chuyển, mà hành lợi hành.
Và hành tất cả pháp đại nhân: và tu hành tất cả pháp mà bậc đại nhân đã tu.
Năm pháp của bậc đại nhân:
1) Đối với chân thật nghĩa khuyến đạo hữu tình.
2) Đối với ứng thời khuyến đạo hữu tình.
3) Đối với năng hành nhiếp thắng diệu nghĩa khuyến đạo hữu tình.
4) Đối với hữu tình nhu nhuyến khuyến đạo.
5) Đối với hữu tình từ tâm khuyến đạo.
Hành hạnh chư tiên đều không sót: Bồ-tát tu hành viên mãn đạo của tất cả chư tiên đã tu hành.
Vì muốn lợi ích cho chúng sinh: vì sao Bồ-tát phải tu mười hạnh và phải tu tất cả hạnh mà chư tiên đã tu hành? Sở dĩ Bồ-tát tu hành như thế là vì muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Có những chúng sinh thọ vô lượng
Phiền não vi tế, thường an vui
Trong đó Bồ-tát được tự tại
Hiện thụ các khổ già, bệnh, chết.
Nhược hữu chúng sinh thọ vô lượng
Phiền não vi tế, lạc cụ túc
Bồ-tát ư trung đắc tự tại
Thị thụ lão bệnh tử chúng hoạn.
Có những chúng sinh thọ vô lượng: có chúng sinh sống rất thọ, nên rất tự mãn, chấp vào tướng trường thọ. Tuy họ thọ vô lượng nhưng cũng không khỏi chết, cũng phải chịu sinh tử. Vì sao họ thọ vô lượng? Vì họ Phiền não vi tế, thường an vui: họ rất ít phiền não, thường sống an vui. Người nào rất ít phiền não thì tuổi thọ rất cao, ngược lại, người nào nhiều phiền não thì tuổi thọ ngắn đi. Tuy họ rất ít phiền não, nhưng không thể cho rằng như thế là hoàn toàn đã đoạn hết phiền não, vì vẫn còn phiền não vi tế. Chúng sinh như thế thường sống an vui, không có phiền não.
Trong đó Bồ-tát được tự tại: đối với bốn tướng (tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả) Bồ-tát được tự tại, mặc tình tự nhiên, tùy ý, mặc tình tu tập.
Hiện thụ các khổ già, bệnh, chết: Bồ-tát thị hiện cũng thụ khổ già, khổ bệnh, khổ chết, thụ những nỗi khổ này, khiến cho chúng sinh có thọ mạng vô lượng cũng phát tâm Bồ-đề, cầu đạo vô thượng.
Hoặc kẻ tham dục, sân nhuế, si
Lửa mạnh phiền não luôn hừng cháy
Bồ-tát vì hiện già, bệnh, chết
Khiến chúng sinh kia đều điều phục.
Hoặc hữu tham dục sân khuể si
Phiền não mãnh hỏa thường xí nhiên
Bồ-tát vị hiện lão bệnh tử
Linh bỉ chúng sinh tất điều phục.
Hoặc kẻ tham dục, sân nhuế, si: hoặc có chúng sinh nhiều tham lam, nhiều dục vọng, nhiều sân giận, nhiều ngu si. Sân nhuế chính là giận dữ thịnh nộ; si chính là ngu si, làm những việc điên đảo.
Lửa mạnh phiền não luôn hừng cháy: loại chúng sinh này phiền não rất nhiều, giống như lửa dữ thường thiêu đốt mãnh liệt.
Bồ-tát vì hiện già, bệnh, chết: vì loại chúng sinh nhiều tham, sân, si này mà Bồ-tát thị hiện khổ già, khổ bệnh, khổ chết.
Khiến chúng sinh kia đều điều phục: khiến chúng sinh cang cường khó điều khó phục này cũng được điều phục, dứt trừ tham, sân, si.
(còn tiếp)
KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM
Tam tạng Sa Môn Thực Xoa Nan Đà người nước Vu Điền dịch vào đời Đường.
Tuyên Hóa Thượng Nhơn chùa Vạn Phật Thành Hoa Kỳ giảng thuật năm 1975 giảng tại Chùa Kim Sơn Thiền Tự, San Fransisco.
Phẩm Hiền Thủ
Quyển thứ 12
(Tiếp theo phần 1)
Hôm nay, chúng ta bắt đầu đả Thiền thất, tuần trước, chúng ta đả Đại Minh thất, tôi không biết quý vị đã “minh” (sáng, giác ngộ) hay chưa? Bây giờ, lại đả Thiền thất, Thiền thất này so với Đại Minh thất thì hơi vất vả, càng không dễ ngồi, nhưng quý vị vẫn phải thử một lần xem. Bây giờ tôi nói cho quý vị nghe phương pháp đả Thiền thất. Mỗi người nếu có thể ngồi kiết già thì tốt hơn, khi ngồi đừng sợ đau chân, có thể nhẫn chịu được thì nhẫn; nếu nhẫn chiu không được thì mới buông chân ra, nhưng tốt nhất là nên chịu đau, đây là vấn đề chân. Lưng ngồi phải thẳng, đầu cũng phải ngay, không cúi về trước mà cũng không ngửa về sau. Nếu buồn ngủ thì đứng lên một chút; nếu chân của quý vị đau quá thì cũng có thể đứng lên một chút, đứng cũng là tham thiền.
Đầu lưỡi chạm nóc họng, có nước bọt thì nuốt vào trong bụng. Nuốt vào chỗ nào trong bụng? Đó là nuốt vào đan điền, ở phía sau rốn, đem nó để ở chỗ đó. Nước bọt này gọi là tự gia thủy, ba chữ tự gia thủy này hợp lại gọi là chữ dược. Quý vị thường thường nuốt tự gia thủy này vào trong bụng thì có thể trị được trăm thứ bệnh, cho nên quý vị đừng xem nhẹ điểm này. Cần phải mắt quán mũi, mũi quán miệng, miệng thì quán tâm, quý vị nên quán sát như thế. Quý vị muốn thamthiền thì tham ‘Niệm Phật là ai’- người nào niệm Phật? Muốn niệm sáu chữ chú Đại Minh cũng được.
Tóm lại, bảo cái tâm của quý vị phải thành thật, đừng rời niệm tu đạo này. Quý vị cứ giữ một niệm tu đạo, một niệm tham thiền này miên mật thì quý vị ngồi đó chẳng phải ngủ gục, nhưng không biết việc xảy ra bên ngoài, mà bên trong luôn luôn tỉnh thức, niệm này cứ liên tiếp nhau không hề gián đoạn.
Cho nên, tôi nói cho quý vị nghe bốn câu kệ, quý vị tham gia Thiền thất thì phải căn cứ vào ý nghĩa này để tu hành, để tham thiền.
Đi đứng ngồi nằm
Không rời cái này
Hễ rời cái này
Thì bỏ lỡ ngay.
Hành trụ tọa ngọa
Bất ly giá cá
Ly liễu giá cá
Tiện thị thác quá.
Đi đứng nằm ngồi, không rời cái này tức là không rời niệm tham thiền này; nếu quý vị xa rời niệm này thì dù có Phật ở ngay trước mặt quý vị, quý vị cũng không nhận biết được, cũng để lỡ mất cơ hội. Cho nên mỗi người chúng ta đừng để ngay đó lỡ mất diệu dụng tham thiền. Một lát nữa, quý vị hãy chăm chỉ dụng công, hy vọng sẽ có khai ngộ, biết được chính mình đi đường là dùng chân hay là dùng đầu để đi? Biết rõ lý lẽ rồi, thì biết lỗ mũi của quý vị rốt cuộc là hướng lên trên hay hướng xuống dưới? Quý vị thanh toán xong món nợ này rồi thì không còn mơ hồ nữa.
Sau này, mỗi ngày cứ đến bảy giờ tối giảng kinh, trước khi giảng kinh không cần niệm chú, cũng không cần tụng kinh gì cả. Vì khi đả Thiền thất cũng không niệm kinh, cũng không niệm chú, những pháp sự khác cũng không làm. Bảy giờ tối là giảng khai thị, giảng đến tám giờ rưỡi hoặc chín giờ thì tiếp tục tham thiền.Khi hết giờ giảng thì mọi người có thể nhân lúc này để đi thay y phục.
Tốt nhất là quý vị hãy mặc thêm nhiều quần áo, có nóng nực một chút cũng không sao, đừng để bị lạnh. Mấy ngày trước, rất nhiều người bị lạnh, cảm thấy không được khỏe. Đả thất đừng để cơ thể đả ra bệnh, đả ra bệnh thì thật vất vả. Cho nên trong lúc giảng kinh xong, quý vị có thể phương tiện làm việc riêng của mình, hoặc là thay quần áo, hoặc là đến nhà vệ sinh rửa tay v.v… trong khoảng thời gian mười phút, sau đó thì tiếp tục tọa thiền.
Chúng ta tọa thiền thì phải dùng một chút sức lực, dùng một chút tâm nhẫn nại, ngồi một cách tinh tiến, đừng biếng nhác. Khi quý vị chưa khai ngộ, chưa đạt được đại trí tuệ thì không thể biếng nhác. Vậy thì sau khi khai ngộ, đạt được đại trí tuệ, dù có bảo quý vị biếng nhác thì quý vị cũng không biếng nhác. Cho nên hiện tại chúng ta phải nỗ lực phấn chấn tinh thần, xem thử ai khai ngộ trước? Ai khai ngộ trước, thì người đó là hạng nhất.
Có người nói: “Ồ! Tôi không muốn làm hạng nhất, cho nên tôi cũng không cần khai ngộ!”. Nói thế là quý vị sai rồi, quý vị có thể khai ngộ, nhưng cũng có thể không cần làm hạng nhất mà! Quý vị không cần hạng nhất cũng được, nhưng không thể không khai ngộ, đúng không? Cho nên đừng tính nhầm số, quý vị học toán phải học cho thật giỏi.
卍 卍 卍
Quả Đồng thích xem phim, tôi bảo với y: Thế giới này là một bộ phim. Nếu con hiểu thì biết là con đang đóng phim; nếu con không hiểu thì con đang đóng một bộ phim hồ đồ. Y nói: Dạ đúng thế! Tôi nói: Tôi diễn phim của tôi, con diễn phim của con, mỗi người đều diễn phim của chính họ. Y nói: Dạ đúng thế! Đây là phim trong phim. Phim, phim, tiếp tục diễn phim của mình. Tôi nói: Tiếp tục diễn phim của mình, thì chết rồi! Thì giống như nằm mộng, nằm mộng, lại nằm mộng, rồi sau đó tỉnh lại. Chúng ta ở trên thế giới này giống như một giấc mộng, tỉnh thì mộng này kết thúc, không tỉnh thì mộng này cứ tiếp tục kéo dài. Phim cũng giống như thế.
Nếu dùng trí tuệ làm tiên đạo
Thân, ngữ, ý nghiệp thường không lỗi
Thì nguyện lực kia được tự tại
Tùy ý hiện thân khắp các loài.
Nhược dĩ trí năng vi tiên đạo
Thân ngữ ý nghiệp hằng vô thất
Tắc kỳ nguyện lực đắc tự tại
Phổ tùy chư thú nhi hiện thân.
Nếu dùng trí tuệ làm tiên đạo: nếu quý vị dùng trí tuệ làm thầy dẫn đường, làm điều kiện trước nhất giáo hóa chúng sinh thì thân, ngữ, ý nghiệp thường không lỗi: nếu thân, ngữ, ý nghiệp của quý vị thường không phạm lỗi, thì có thể giáo hóa rất nhiều chúng sinh đều phát tâm bồ-đề.
Bài kệ tụng này có chỗ thì chỉ có nửa bài, tức là chỉ có hai câu; có chỗ thì một bài bốn câu, nhưng đều liên tiếp nhau, ý nghĩa nối liền xuyên suốt, tiếp tục không gián đoạn.
Thì nguyện lực kia được tự tại: đây là nói thân, ngữ, ý nghiệp của quý vị thường không lỗi, quý vị không tạo mười điều ác, phụng hành mười điều lành. Mười điều ác là những gì? Là thân có ba nghiệp ác: sát, đạo, dâm, đây là ba tội ác do thân nghiệp tạo ra. Sát sinh thì bao gồm tự sát, hoặc bảo người sát, hoặc nhân sát, duyên sát, pháp sát, nghiệp sát, đều bao gồm trong đó. Chúng ta sát sinh là mầm móng của chiến tranh thế giới, cho nên nói:
Nghìn trăm năm nay trong bát canh
Oán hận tợ biển khó lấp đầy
Muốn biết trên đời nạn đao binh
Lặng nghe tiếng rống lúc phanh thây.
Thiên bách niên lai uyển lý canh
Oán thâm tợ hải hận nan bình
Dục tri thế thượng đao binh kiếp
Thức thính đồ môn dạ bán thanh
Nghìn trăm năm nay trong bát canh : mà chúng ta đã ăn, canh tức là nước canh thịt, hoặc là canh thịt bò, hoặc là canh thịt dê, hoặc là canh thịt heo, hoặc là canh thịt ngựa, thịt lừa, thịt mèo, thịt chó… Các loại canh thịt mà trăm nghìn năm nay con người ăn đều là canh thịt của tất cả chúng sinh. đây gọi là Nghìn trămnăm nay trong bát canh.
Oán hận tợ biển khó lấp đầy: Oán khí trong bát canh đó sâu giống y như biển cả, anh giết tôi, tôi giết anh, giết qua giết lại không ngừng, không thể dừng nghỉ. Cũng giống y như đạo lý của việc xem phim vậy, anh giết tôi thì tôi giết anh. Anh giết tôi, ăn thịt tôi thì một lúc nào đó tôi giết lại anh, ăn thịt anh, ăn thịt lẫn nhau. Khi anh ăn thịt tôi thì tôi cảm thấy rất đau khổ, mà anh thì cảm thấy rất sung sướng; đến lúc tôi ăn thịt anh thì anh cảm thấy rất đau khổ, nhưng tôi thì cảm thấy rất sung sướng. Thế gian này chính là sự tuần hoàn của quả báo, cứ xoay mãi không dừng. Oán này chính là oán thù, thù hận này sâu giống như biển, cho nên không dễ dàng làm cho nó khỏa bằng lại được. Lúc nào cũng có một cái hố sâu, sâu thẳm không bằng phẳng, cho nên nói oán hận khó lấp đầy.
Muốn biết trên đời nạn đao binh: các nước trên thế giới chiến tranh giết hại lẫn nhau, anh giết tôi, tôi giết anh, quốc gia này đem quân đội đi đánh quốc gia khác, nhả đạn, thả đại bát đã giết không biết bao nhiêu sinh mạng, đây gọi là kiếp đao binh. Nếu quý vị muốn biết nhân duyên của người chết trong chiến tranh trên thế giới, vì sao phải bị kiếp số đao binh này, thì Lặng nghe tiếng rống phanh thây lúc nữa đêm.: Đêm khuya thanh vắng, quý vị nên lắng nghe thử âm thanh nơi lò mổ heo, lò giết bò, lò giết dê là những âm thanh gì! Đó là tiếng heo rống, bò rống, dê rống. Chúng nó rống rằng: “Ồ! Ngươi giết ta đi, tương lai nhất định ta cũng giết ngươi!”. Đây là giết qua giết lại, giết tới giết lui giết mãi không dừng.
Cho nên người tin Phật chúng ta đa số phải ăn chay, phải ăn rau cải. Rau cải vốn cũng có sinh mạng, nhưng sinh mạng đó nhẹ một chút, là vật vô tình. Vật có thịt, có khí huyết đều là hữu tình, chúng ta ăn cỏ cây rau quả vô tình này, tuy cũng có mang tính sát trong đó, cũng có nhân sát trong đó, cũng có pháp sát trong đó, cũng có nghiệp sát trong đó, nhưng không phải rõ ràng như thế, vẫn nhẹ hơn so với ăn thịt, cho nên người tu đạo đều ăn chay mà không ăn thịt.
Tôi giảng thêm một chút về chữ nhục (thịt) này, chữ nhục ở trong văn tự Trung Quốc có một cấu tạo rất đặc biệt:
Chữ nhục 「肉」bên trong có hai người 「人」
Người trong chụp tiếp người bên ngoài
Chúng sinh lại ăn thịt chúng sinh
Xét kỹ chính là người ăn người.
Nhục tự lý biên lưỡng cá nhân
Lý biên trạo trước ngoại biên nhân
Chúng sanh hoàn ngật chúng sanh nhục
Tử tế tư lượng nhân ngật nhân.
Chữ nhục bên trong có hai người: trong chữ nhục này có hai chữ nhân. ㄇ vốn là chữ khẩu, chữ khẩu này bên dưới không có một gạch ngang, cho nên cái miệng này hả ra. Miệng hả để làm gì? Để ăn người. Cho nên một người bị nuốt vào trong bụng, một người thì còn ở ngoài, đây chính là chữ nhục bên trong có hai người.
Người trong chụp tiếp người bên ngoài: người này ở trong thì tiếp tục chụp lấy người nọ ở ngoài, họ có một sự quan hệ với nhau.
Chúng sinh lại ăn thịt chúng sinh: chúng sinh này tuy là ăn thịt chúng sinh khác, nhưng Xét kỹ chính là người ăn người: nếu quý vị suy nghĩ kỹ một chút, ăn thịt chính là ăn người rồi còn gì! Chỉ chẳng qua người đó đi đầu thai làm súc sinh. Súc sinh và người đều muốn sống chứ không muốn chết. Bất luận là con vật nào, thậm chí đến những sinh vật nhỏ bé như con muỗi mà cũng muốn sống để uống máu người khác, chứ không muốn chết để làm con ma muỗi. Cho nên quý vị hãy xem con muỗi, khi nó cắn quý vị, quý vị vừa nhìn thấy nó thì nó liền bay mất. Chính là nó sợ bị quý vị đánh chết, cũng đồng lý lẽ như vậy. Cho nên nói: chữ nhụcbên trong có hai người, người trong chụp tiếp người bên ngoài, chúng sinh lại ăn thịt chúng sinh, xét kỹ chính là người ăn người.
Đã là người ăn người, quý vị thử nói người này có phải là hàng xóm của tôi không? Hoặc là bạn bè của tôi chăng? Điều này không thể biết được. Quý vị không biết người đã thác sinh làm heo, làm dê, làm trâu này là ai? Quý vị đi ăn thịt nó, nếu người này là bạn tốt đời trước của quý vị, hoặc là hàng xóm của quý vị thì còn coi là bình thường. Người này hoặc giả chính là bà con quyến thuộc, họ hàng thân thích của quý vị, mà bà con quyến thuộc thì cũng còn xem là xa. Người này đôi khi chính là cha hay mẹ đời trước của quý vị. Vì cha mẹ đời trước của quý vị đâu phải nhất định đều làm việc lành, có khi đời này ông ta làm heo, làm dê, làm trâu cũng không chừng.
Đức Phật nói: “Dê lại làm người”, dê đã có thể làm người, thì người đương nhiên cũng có thể làm dê thôi! Con người vì sao thông minh hơn tất cả chúng sinh? Là vì linh tánh của con người vẫn còn nguyên vẹn, linh tánh của súc sinh thì bị phân tách, phân tách thì bị ít đi. Cho nên người làm súc sinh này hoặc giả chính là cha mẹ đời trước của ta. Làm người thì phải hiếu thuận với cha mẹ, cha mẹ của quý vị biến thành heo, thành dê mà quý vị không biết lại đi ăn thịt họ, như vậy là không hiếu thảo. Đã không hiếu thảo thì làm người chẳng có ý nghĩa gì. Cho nên người học Phật chúng ta phải có tâm từ bi, thương yêu bảo hộ tất cả vạn vật chúng sinh, không ăn thịt chúng sinh.
Nói thế thì : “Đạo lý này có gì chứng minh?”. Hẳn có chứng minh, không thể nói một cách tùy tiện được. Vào thời Lương Võ Đế có Chí Công Tổ sư, Ngài đắc ngũ nhãn lục thông. Ngài được sinh ra như thế nào? Chim sinh Ngài ra trong tổ chim. Cho nên bàn tay của Chí Công tổ sư giống như móng của chim, không giống tay người; móng tay cũng rất nhọn giống như móng chim ưng.
Vì sao nói Ngài do chim sinh ra? Vì có một vị thầy nghe trong tổ chim có tiếng khóc của trẻ con, có lẽ ngài đã dùng cái thang leo lên cây, xem thử trong tổ chim kia. “Ô! Trong tổ chim sao lại có thể có đứa bé này? Ôi! Thật là kỳ lạ!” Đứa bé này vừa trắng vừa mập, tướng mạo cũng rất tốt, rất khôi ngô. Thế là, ngài liền ẳm đứa bé từ trong tổ chim đem về nuôi. Sau khi được nuôi lớn thì cậu ta xuất gia tu đạo, vừa tu đạo thì chứng quả, có thần thông, có thể ở trong hư không hiện ra mười tám phép thần biến, thân trên phun ra nước, thân dưới phóng ra lửa, thân dưới phun ra nước, thân trên phóng ra lửa, đạt được cảnh giới vi diệu không thể nói này. Ngài cũng có thần thông có thể bay trong hư không. .
Lúc ấy, có rất nhiều người tin tưởng Ngài Chí Công, biết ngài là một vị pháp sư có thần thông. Phong tục nơi đó là bất luận gia đình có việc gì cũng đều thỉnh chư Tăng đến tụng kinh, tụng kinh ở đây tức là nói những lời cát tường: “tốt lành ra sao, như ý thế nào, sống lâu trăm tuổi như thế nào…” Ví dụ như gặp đứa bé mới sinh thì nói: “Sống lâu trăm tuổi nha!”. Nếu gặp người chết thì nói: “Vãng sinh cực lạc thế giới!”, hoặc gặp người nào bệnh thì đến chỗ họ nói lời cát tường rằng: “Bệnh tình của ông, không dùng thuốc thì sẽ khỏi”, chỉ toàn là nói lời cát tường.
Hôm nọ, có một gia đình giàu có làm lễ kết hôn, cưới cô dâu mới, nên thỉnh Chí Công tổ sư đến nói lời cát tường. Chí Công Tổ sư cũng hằng thuận chúng sinh, “Được rồi, đi thôi!”. Vừa đến nơi, thấy ở trước cửa có đội nhạc công, lại thấy có một đứa bé gái đang ăn một cái móng heo, Chí Công Tổ sư liền nói:
Xưa nay lạ, lạ xưa nay
Cháu nội lấy bà nội
Con gái ăn thịt mẹ
Con đánh trống da cha
Heo dê ngồi vào bàn
Thân quyến hầm trong nồi
Mọi người đến chúc tụng
Tôi thấy thật đau khổ.
Cổ cổ quái,
Quái quái cổ,
Tôn tôn thú tổ mẫu
Nữ thực mẫu chi nhục,
Tử đả phụ bì cổ
Trư dương kháng thượng tọa,
Lục thân qua lý chử
Chúng nhân lai hạ hỷ,
Ngã khán chơn thị khổ.
“Xưa nay lạ, lạ xưa nay! Cháu nội lấy bà nội”: việc này thật lạ lùng từ xưa đến nay, rất là kỳ lạ, cũng thật lạ kỳ. Vì sao? Vì cháu nội đi lấy bà nội, cháu lại đi cưới bà nội về. Việc này như thế nào? Là nhân vì khi đứa cháu này chào đời, bà nội nó nắm tay nó nói: “Chao ôi! Bây giờ tôi không phải lo cho con gái, cũng không phải lo cho con trai, chúng nó đã thành gia thất hết rồi, chúng nói đều có thể tự lo cho bản thân, tôi không phải lo cho đứa nào cả. Chỉ còn đứa cháu này, ai sẽ chăm sóc nó đây? Tương lai ai sẽ giúp đỡ nó? Ôi! Ai sẽ chăm sóc cho nó?”. Bà nhắm mắt lìa đời mà không thể buông đứa cháu kia được. Sau khi bà mạng chung, Vua Diêm-la rất thông cảm nhân tình, nói: “Được rồi! Ngươi đã bỏ không được đứa cháu của ngươi thì ngươi cứ trở lại làm người, làm vợ của cháu ngươi vậy!”. Bà nội này cũng không phản đối, nói: “Có lẽ như vậy cũng tốt chứ!”. Thế là, thần thức bà liền đầu thai làm một đứa bé gái, đúng lúc đứa bé gái này lớn lên thì được đứa cháu trai xưa kia cưới về làm vợ, đây gọi là cháu lấy bà nội.
Chí Công tổ sư lại đến trước hiên nhà xem, nói: “Con gái ăn thịt mẹ”, thịt heo mà đứa bé gái này đang ăn chính là mẹ của cô ta đời trước, nay thác sinh làm heo, nay cô ta đang ăn thịt mẹ mình. Ngài lại đến chỗ ban nhạc, vừa thấy nhóm người tấu nhạc đó thì nói: “Ôi! Con đánh trống da cha”, cái trống mà đứa nhỏ đang đánh kia chính là người cha đời trước của nó, vì ông này đã tạo quá nhiều ác nghiệp, nên thác sinh làm lừa, rồi bị người giết, lột da căng làm trống để cho người tađánh. Quý vị xem, da trống đó kêu tùng tùng tùng, tùng tùng tùng, chính là bị người đánh. Vậy thì đứa con trai đang đánh cái trống chính là đứa con của người bị căng da làm trống.
Ngài lại nhìn đến các dãy bàn rồi nói: “Heo dê ngồi vào bàn”, nói những người thân thích bằng hữu đến chúc mừng gia đình ông ta đều là heo, dê, trâu ở đời quá khứ mà gia đình ông ta đã ăn, nay được thác sinh làm người, làm thân thích với ông ta, lại đến ăn thịt lục thân của ông ta. Ngài lại đến nhìn trong nồi thịt, nói: “Ôi! Thân quyến hầm trong nồi”. Lục thân chính là cha, mẹ, anh, em, vợ con của ông ta. Đời này họ đều làm trâu, làm ngựa, làm dê, làm heo, thịt chúng nó được hầm trong nồi, để cho người làm trâu, làm dê đời trước ngồi ăn, đây là ăn qua ăn lại. “Mọi người đến chúc tụng”, mọi người đến xem nói, hôn lễ này rất vui, là hỷ sự, nhưng “Tôi thấy thật đau khổ”, tôi thấy nhân quả báo ứng trong đây thật là đau khổ!
Vậy thì lấy việc này để chứng minh, người ăn thịt, đối với bản thân tuy là nói thịt dùng để nuôi dưỡng thân mạng, nhưng nếu xét về mặt nhân quả, gieo nhân trước gặt quả sau thì thật là nguy hiểm, quả báo không thể nghĩ bàn.
Nếu bất luận một ai trong chúng ta có thể không ăn thịt, thì sẽ giúp cho thế giới này không có chiến tranh; quý vị ăn thịt thì có thể tạo thành đại chiến của thế giới, đến lúc đó không biết bao nhiêu sinh mạng sẽ phải oan uổng. Tất cả chúng ta đều phải hiểu vấn đề này. Cho nên, nếu muốn thế giới không có chiến tranh, thì chúng sinh không ăn thịt. Chúng ta có thể duy trì thân thể này sinh tồn là được rồi, đâu cần thật mập mới được, cũng đâu cần cho nó ăn thật ngon.
Vì chúng ta ăn vào xuống khỏi cổ họng ba tấc thì đã biến thành đại tiểu tiện. Nếu quý vị ói ra mà bảo ăn vô lại thì làm sao ăn cho được, chứ đừng nói là sau khi đi đại tiện mà bảo ăn thì càng không thể ăn. Đã như vậy thì chúng ta không nên tham ăn món khoái khẩu để phải giết sinh mạng của tất cả chúng sinh. Thân có ba nghiệp ác là sát sinh, trộm cắp, dâm dục. Ý cũng có ba nghiệp ác là tham, sân, si. Chúng ta đừng sinh tâm tham, không luận là vật tốt đến mức nào, cũng không nên sinh tâm tham; không nên sinh tâm sân hận, không sân hận đối với tất cả mọi người; cũng đừng có ngu si, vô minh, phiền não. Miệng có bốn nghiệp ác là nói thêu dệt, nói dối, nói lời ác, nói hai lưỡi. Tổng cộng là mười nghiệp ác. Chúng ta phải phát nguyện đoạn trừ mười nghiệp ác này và vâng giữ mười nghiệp thiện. Nếu quý vị không làm mười nghiệp ác này thì chính là hành mười nghiệp thiện.
Cho nên, quý vị có thể không làm mười nghiệp ác, vâng giữ mười nghiệp thiện thì nguyện lực này của quý vị được tự tại. Nguyện lực của quý vị được tự tại, thì Tùy ý hiện thân khắp các cõi: chính là quý vị muốn thị hiện vào cõi nào cũng đều được. Quý vị muốn sinh lên cõi trời cũng được, muốn làm a-tu-la cũng được, muốn làm người cũng được, muốn làm địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh đều được cả; chẳng qua đó là sự quý vị hiện thân chứ không phải đi thọ báo. Hiện thân chính là thị hiện, là đồng sự trong bốn pháp nhiếp của Bồ-tát, dùng phương pháp đồng sự này đi giáo hóa tất cả chúng sinh, cho nên nói: Tùy ý hiện thân khắp các cõi . Quý vị không phải đi thọ báo mà là đi thị hiện làm chúng sinh trong các cõi , làm một tấm gương cho chúng sinh noi theo để phát tâm Bồ-đề.
Nếu nguyện lực kia được tự tại
Tùy ý hiện thân khắp các cõi
Thì khi vì chúng sinh nói pháp
Âm thanh tùy loại khó nghĩ bàn.
Nhược kỳ nguyện lực đắc tự tại
Phổ tùy chúng thú nhi hiện thân
Tắc năng vị chúng thuyết pháp thời
Âm thanh tùy loại nan tư nghì.
Nếu nguyện lực kia được tự tại: quý vị phát nguyện mà được tùy tâm mãn nguyện thì tức là nguyện lực tự tại. Quý vị có thể phát nguyện làm lợi ích cho người khác, giúp đỡ tất cả chúng sanh, thì nguyện lực này của quý vị sẽ được tự tại. Cũng có thể Tùy ý hiện thân khắp các cõi: quý vị dùng thần thông diệu dụng để tùy ý hiện thân vào khắp các cõi để giáo hóa chúng sanh.
Thì khi vì chúng sinh nói pháp: nếu quý vị có thể đạt được nguyện lực tự tại, Tùy ý hiện thân khắp các cõi, thì khi diễn thuyết diệu pháp cho tất cả chúng sanh nghe, Âm thanh tùy loại khó nghĩ bàn: âm thanh của quý vị tức là có thể dùng một âm diễn thuyết pháp, chúng sanh tùy loại đều được hiểu (Năng dĩ nhất âm diễn thuyết pháp, chúng sinh tùy loại các đắc giải). Quý vị có thể đạt được loại cảm ứng đạo giao này. Khi quý vị diễn thuyết diệu pháp thì tất cả chúng sanh đều đến nghe, đều được lợi ích, đây gọi là Âm thanh tùy loại khó nghĩ bàn.
Vừa rồi, tôi giảng về vấn đề thịt và không nên ăn thịt thì có người nói: “Hiện tại tôi ăn thịt là bởi vì lúc trước cũng đã bị người khác ăn thịt, cho nên bây giờ tôi cũng phải ăn thịt chúng sanh. Nếu bây giờ tôi không ăn thịt chúng sanh, thì việc trao đổi này sẽ không lấy được nợ cũ ư? Không có lợi nhuận ư?”. Đúng! Lúc trước quý vị bị người khác ăn, nên bây giờ quý vị phải ăn thịt chúng sanh, vậy thì ăn qua, ăn lại kiểu này chính là người ăn người rồi!
Lúc trước, tôi có một đệ tử quy y, ông này rất thích ăn thịt, thịt gì cũng ăn, hễ là thịt thì ăn. Không luận là thịt mèo, thịt chó, thịt chuột, thịt cóc, ếch, nhái, tất cả vật có thịt thì ông ta đều muốn ăn. Tôi hỏi ông ta: “Anh ăn thịt những chúng sanh đó, anh có thấy ngon không?”. “Rất ngon”. “Nếu như nó ăn thịt anh thì anh sẽ cảm thấy thế nào?”. “Thì con không vui, con chịu không được!”. “Vậy tại sao anh ăn thịt người ta thì anh chịu được, mà người ta ăn thịt anh thì anh không chịu được, như thế thật là bất công!”. Tôi vừa nói vậy thì người này tức khắc phát nguyện ăn chay, vĩnh viễn không còn ăn thịt.
Không chỉ đời này ông ta không ăn thịt mà ông ta phát nguyện đời đời đều không ăn thịt, muốn chấm dứt qua lại nơi lục đạo luân hồi. Nếu chúng ta ăn thịt mà không dụng công tu hành, thì cứ mãi ở trong lục đạo luân hồi để đi luân hồi. Nếu quý vị có thể không ăn thịt, thì sẽ xa rời dần dần với lục đạo luân hồi này.
Nhất là thịt chúng sanh thì ai cũng thích ăn, nhưng tại sao chúng ta lại không ăn? Bởi vì chúng ta muốn có tâm từ bi, muốn có tâm thương yêu bảo hộ chúng sanh. Hễ chúng ta có tâm từ bi thương yêu bảo hộ chúng sanh, thì không muốn ăn thịt chúng sanh, đây là một trong những lý do. Lại nữa, thân thể của chúng ta hễ ăn thịt gì vào thì sẽ biến hóa thành cái ấy. Nếu quý vị không tin, quý vị ăn thịt bò vào thì trên thân quý vị có mùi bò; quý vị ăn thịt heo thì trên thân có mùi heo; quý vị ăn thịt dê thì trên thân có mùi dê; quý vị ăn cá thì trên thân có mùi cá; quý vị ăn thịt mèo thì có mùi mèo, ăn thịt chó thì có mùi chó, ăn thịt chuột thì có mùi chuột.
Có người nói: “Việc này tôi không tin, tôi đã từng ăn rồi nhưng trên thân cũng đâu có mùi gì”. Quý vị không tin là vì quý vị không hiểu, quý vị không có nghiên cứu qua. Đừng nói là ăn thịt, cứ lấy việc ăn hành để nói, quý vị ăn hành thì khắp thân tiết ra mồ hôi đều là mùi hành; quý vị ăn tỏi thì trong miệng có mùi tỏi; quý vị uống sữa bò thì trên thân tiết ra mồ hôi đều là mùi sữa bò. Đã như thế thì quý vị ăn gì há không dễ dàng biến thành cái ấy hay sao?
Quý vị ăn thịt heo nhiều thì biến thành heo; ăn thịt chó nhiều thì biến thành chó; ăn thịt chuột nhiều thì biến thành chuột; ăn thịt mèo nhiều thì biến thành mèo; ăn thịt dê nhiều thì biến thành dê; ăn thịt bò nhiều thì biến thành bò. Đây là một đạo lý nhất định, vì quý vị kết giao với nó, kết thành đoàn thể với nó. Cho nên, nếu quý vị muốn chấm dứt luân hồi trong lục đạo, muốn tách rời với chúng sanh, tách rời với súc sinh, không làm súc sinh, thì trước tiên phải không ăn thịt chúng sanh. Ai có câu hỏi gì cần hỏi không?
Đệ tử:
- Lúc trước Sư Phụ nói: Người ăn cá thì không thể biến thành cá?
Thượng Nhân:
- Tôi nói như thế khi nào? Chuyện này cần nói rõ, giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào và ở đâu, khi tôi giảng kinh gì nói? Điều này phải có căn cứ, phải “Tôi nghe như vầy, một thời sư phụ ở chùa Kim Sơn, cùng Quả Ninh, Quả Hộ, Quả Thượng, Quả Hạ, Quả Đại, Quả Tiểu... nói….”. Hoặc là đôi khi quý vị nghe nhầm cũng không chừng. Người ta nói: “Đừng nói chuyện” thì quý vị lại bảo: “Ăn rồi không tiêu hóa”. Người ta nói: “Người nữ nước Anh kia” thì quý vị lại bảo: “Ồ! Sư phụ nói tôi đời trước là người nữ nước Anh”. Cho dù quý vị nói là tôi có nói, nhưng quý vị chưa nghe, thì phải tìm một bằng chứng. Bây giờ quý vị đem hỏi ngang như vậy thì tôi không biết đã nói như thế khi nào, sở dĩ anh muốn ăn cá ư?
Con người không chỉ có thể biến thành cá, mà còn có thể biến thành tất cả chúng sanh, chứ đừng nói là không thể biến thành cá. Cá cũng là một trong những chúng sanh mà! Cá đâu phải là ở ngoài vòng chúng sanh đâu. Nó cũng là loài có sinh mạng. Hoặc là vì biết quý vị thích ăn cá, nên mọi người nói với quý vị như thế, để quý vị ăn cá nhiều một chút, hiểu không? Tóm lại, thức ăn ngon chừng nào thì ăn vào nó sẽ hôi nhiều chừng nấy. Con người chính là cái máy tạo phân. Ví dụ như quý vị ăn thịt thì đại tiện kia hôi không thể chịu nổi, nhưng nếu quý vị ăn rau thì không hôi như thế. Tóm lại, vật ngon mà vào đến bụng thì cũng biến thành dở.
Nếu khi vì chúng sinh nói pháp
Âm thanh tùy loại khó nghĩ bàn
Thì với tâm tất cả chúng sanh
Một niệm biết hết không thừa sót.
Nhược năng vị chúng thuyết pháp thời
Âm thanh tùy loại nan tư nghì
Tắc ư nhất thiết chúng sanh tâm
Nhất niệm tất tri vô hữu dư.
Nếu khi vì chúng sinh nói pháp: đây là nói nếu khi quý vị có thể diễn nói vô lượng vô biên diệu pháp cho chúng sanh nghe, thì Âm thanh tùy loại khó nghĩ bàn: quý vị chỉ dùng một âm thanh diễn thuyết diệu pháp nhưng chúng sanh nào cũng hiểu được, các loại chúng sanh đều có thể hiểu rõ diệu pháp của quý vị thuyết, loại ngôn ngữ đó, loại âm thanh đó đều là của chủng loại của họ, họ đều nghe hiểu được.
Nếu quý vị có thể như thế, Thì với tâm tất cả chúng sanh: thì có thể hiểu rõ tâm của tất cả chúng sanh, Một niệm biết hết không thừa sót: không cần thời gian lâu để quán sát, chỉ cần trong một niệm, quý vị có thể hiểu rõ hết tâm của tất cả chúng sanh, hiểu rõ tâm niệm của tất cả chúng sanh tưởng gì, nghĩ gì ở đâu. Ngần ấy loại tâm của tất cả chúng sanh chứ không phải một loại tâm, thế nhưng trong một niệm mà quý vị có thể biết hết, thấy hết không còn sót, cũng tức là không có cái gì mà không biết.
Nếu với tâm tất cả chúng sanh
Một niệm biết hết không thừa sót
Thì biết phiền não không từ đâu
Không còn chìm đắm biển sinh tử.
Nhược ư nhất thiết chúng sanh tâm
Nhất niệm tất tri vô hữu dư
Tắc tri phiền não vô sở khởi
Vĩnh bất một nịch ư sanh tử.
Nếu đối với tâm tất cả chúng sanh: đây là nói, nếu quý vị có thể đối với tâm của tất cả chúng sanh, Một niệm biết hết không còn dư: trong một niệm, quý vị biết hết tâm niệm của tất cả chúng sanh, Thì biết phiền não không từ đâu: thì quý vị có thể biết rõ phiền não cũng là không. “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, phiền não thì chẳng có cùng tận, nhưng nếu quý vị có thể biết tâm niệm của chúng sanh, ngần ấy loại tâm, quý vị đều biết hết, thì quý vị biết “Phiền não tức Bồ-đề, sinh tử tức Niết-bàn”. Vốn không có phiền não, cho nên phiền não không có khởi. Vì tâm Bồ-đề của quý vị viên mãn thì tâm phiền não của quý vị cũng không khởi.
Không còn chìm đắm biển sinh tử: quý vị đã không có phiền não, thì sinh tử cũng chấm dứt. Cội gốc sinh tử của quý vị đã chấm dứt, không còn phiền não, thì không còn lưu lạc và không còn bị chết chìm trong biển khổ sinh tử. Quý vị không còn chìm đắm trong biển khổ sinh tử, thì chắc chắn sẽ vượt thoát sinh tử. Sinh tử đã liễu thoát thì niệm dục cũng không có. Điều quan trọng nhất trong việc tu đạo chứng quả chính là đoạn dục lìa ái, nếu quý vị không có phiền não, thì cũng không có dục, không có dục thì sinh tử cũng được liễu thoát, vì đây là một sự liên kết.
Nếu biết phiền não không từ đâu
Không còn chìm đắm biển sinh tử
Thì được thân Pháp tánh công đức
Dùng oai lực pháp hiện thế gian.
Nếu được thân Pháp tánh công đức
Dùng oaiy lực pháp hiện thế gian
Thì được Thập Địa, Thập Tự Tại
Tu hành các độ thắng giải thoát.
Nhược tri phiền não vô sở khởi
Vĩnh bất một nịch ư sanh tử
Tắc hoạch công đức Pháp tánh thân
Dĩ pháp oai lực hiện thế gian
Nhược hoạch công đức Pháp tánh thân
Dĩ pháp oai lực hiện thế gian
Tắc hoạch Thập Địa Thập Tự Tại
Tu hành chư độ thắng giải thoát.
Nếu biết phiền não không từ đâu: Nếu quý vị biết rõ phiền não là không có tự tính, nó không có sinh khởi, không có một nơi chốn sinh ra, thì phiền não biến thành Bồ-đề; quý vị không biết rõ như thế thì Bồ-đề cũng biến thành phiền não. Việc này dễ như trở bàn tay. Giống như con người chúng ta không duyên không cớ tự nhiên nổi giận, sinh phiền não, đây là vì vô minh quấy phá, vô minh đến trở ngại quý vị, khiến quý vị sinh phiền não. Nếu quý vị phá vỡ vô minh, thì phiền não tức Bồ-đề.
Không còn chìm đắm biển sinh tử: vĩnh viễn không còn trầm luân trong biển khổ sinh tử luân hồi nơi sáu đường.
Thì được thân Pháp tánh công đức, Dùng oai lực pháp hiện thế gian: lúc này, quý vị sẽ đạt được thân Pháp tánh công đức. Công đức cũng viên mãn, thân Pháp tánh cũng hiện ra. Quý vị dùng oai lực của Pháp tánh để thị hiện rộng khắp ở mười phương thế giới.
Nếu được thân Pháp tánh công đức, Dùng oai lực pháp hiện thế gian: nếu quý vị đạt được thân Pháp tánh công đức này, thì thân Pháp tánh sẽ hiện ở khắp thế giới, dùng oai lực của pháp công đức này hiện khắp thế gian.
Thì được Thập Địa, Thập Tự Tại: thì quý vị sẽ đạt được địa vị Thập Địa, Thập Tự Tại này. Có ai biết Thập Địa là gì không?
Hằng Hiền:
- Hoan Hỷ Địa, Ly Cấu Địa, Phát Quang Địa, Diệm Huệ Địa, Nan Thắng Địa, Hiện Tiền Địa, Viễn Hành Địa, Bất Động Địa, Thiện Huệ Địa, Pháp Vân Địa.
Thượng Nhân:
- Con hãy giải thích lại cho đại chúng nghe.
Hằng Hiền:
- Thập địa là mười giai vị tu hành của Bồ-tát. Giai vị của Bồ-tát vốn có rất nhiều. Trước tiên là có Thập tín, rồi đến Thập trụ, Thập hồi hướng, Thập hạnh, Thập địa. Nhưng khi ở Trụ thứ nhất là Bồ-tát sơ phát tâm Bồ-đề, sẽ viên mãn những giai vị kia, hoàn toàn viên mãn giai vị Thập địa này, đây là một cảnh giới bất khả tư nghị. Nhưng nói đến từng bước từng bước, thì phải tu ở mỗi giai vị như thế, giống như Thập địa:
1) Hoan Hỷ địa: ở giai vị này, Bồ-tát tu pháp môn mười ba-la-mật đáo bỉ ngạn, nhưng họ rất hoan hỷ tu bố-thí, đến đệ nhị địa thì Bồ-tát sẽ hoan hỷ tu trì giới ba-la-mật.
2) Ly Cấu địa: ở giai vị này, Bồ-tát trì giới rất thanh tịnh, không có trần cấu, họ luôn trì giới ở trong tâm niệm, chứ không phải chỉ trì giới ở bên ngoài.
3) Phát Quang địa: ở giai vị này, Bồ-tát có thể phát ra rất nhiều ánh sáng; thời gian này Bồ-tát rất hoan hỷ tu tinh tấn ba-la-mật.
4) Diệm Huệ địa: ở giai vị này, Bồ-tát tu nhẫn nhục ba-la-mật.
5) Nan Thắng địa: giai vị này rất khó đạt được nên Bồ-tát phải tu thiền định ba-la-mật.
6) Hiện Tiền địa: ở giai vị này, Bồ-tát có thể hiện ở trước Phật, nên họ rất hoan hỷ tu bát-nhã ba-la-mật. Có sáu ba-la-mật và mười ba-la-mật,
7)Viễn Hành địa: ở thời gian này, Bồ-tát tu phương tiện ba-la-mật, giai vị này còn gọi là Viễn hành ba-la-mật, giai vị này và giai vị trước hoàn toàn không đồng, nên phải đến địa vị bất thoái chuyển.
8) Bất Động địa: ở giai vị này, Bồ-tát tu nguyện ba-la-mật.
9) Thiện Huệ địa: ở giai vị này, Bồ-tát tu lực ba-la-mật.
10) Pháp Vân địa: giống như mây ở trên trời, một đám mây diệu pháp, ở giai vị này, Bồ-tát tu trí ba-la-mật.
Thượng Nhân:
- Quý vị thấy cô ta giảng đúng không? Lúc trước, khi tôi giảng kinh Kim Cang thì giảng Bát tự tại, bây giờ thì giảng Thập tự tại. Có ai biết Thập tự tại là gì không?
Hằng Hiền:
1. Mạng tự tại
2. Tâm tự tại
3. Tư cụ tự tại
4. Nghiệp tự tại
5. Thọ sinh tự tại
6. Giải tự tại
7. Nguyện tự tại
8. Thần lực tự tại
9. Pháp tự tại
10. Trí tự tại
Thượng Nhân:
- Quý vị hiểu chưa? Ý nghĩa tóm lược chính là như thế.
Tu hành các độ thắng giải thoát: quý vị có thể đạt được quả vị Thập Địa, lại có thể đạt được thần thông diệu dụng của Thập Tự Tại và có thể tu hành tất cả Ba-la-mật, cho nên gọi là Thập độ. Cảnh giới giải thoát thù thắng bất khả tư nghị này, quý vị đều có thể đạt được.
Nếu được Thập Địa, Thập Tự Tại
Tu hành các độ thắng giải thoát
Thì được quán đảnh đại thần thông
Trụ ở các tam-muội tối thắng.
Nhược đắc Thập Địa Thập Tự Tại
Tu hành chư độ thắng giải thoát
Tắc hoạch quán đỉnh đại thần thông
Trụ ư tối thắng chư tam muội.
Nếu được Thập Địa, Thập Tự Tại: quý vị có thể đạt được Thập Địa là từ Hoan Hỷ Địa cho đến quả vị Pháp Vân Địa này; lại đạt được Thập Tự Tại là từ Mạng Tự Tại cho đến Trí Tự Tại.
Tu hành các độ thắng giải thoát: quý vị lại có thể tu hết tất cả Thập độ. Các độ chính là Thập độ của Bồ-tát đã tu, là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, phương tiện, nguyện, lực, trí. Bồ-tát vốn đều tu viên mãn Thập độ này mà không hề xem nặng nhẹ (thiên trọng) độ nào. Nhưng trong Thập độ đó, Bồ-tát dùng một độ làm chính hạnh, còn các độ khác làm trợ hạnh. Ví dụ như Bồ-tát muốn tu trì giới độ thì dùng chín độ còn lại để hỗ trợ cho một độ này; vậy thì tu một độ nào đó, cũng phải dùng chín độ khác để hỗ trợ nó. Cho nên đây gọi là các độ của Bồ-tát tu hành. Thắng giải thoát là đạt được một loại giải thoát thù thắng.
Thì được quán đảnh đại thần thông: thì có thể đạt được thần thông quán đảnh này, cũng chính là mười phương chư Phật đến quán đảnh cho Bồ-tát ấy, Bồ-tát ấy tức khắc chứng đắc thần thông diệu dụng của Thập Địa, Thập Tự Tại này.
Trụ ở các tam-muội tối thắng: thì có thể đạt đến cảnh giới tam-muội tối cao thù thắng nhất, đạt được loại thụ dụng chánh định, chánh thọ này.
Nếu được quán đảnh đại thần thông
Trụ ở các tam-muội tối thắng
Thì ở chỗ chư Phật mười phương
Đáng thọ quán đảnh để thăng vị.
Nếu ở chỗ chư Phật mười phương
Đáng thọ quán đảnh để thăng vị
Thì được mười phương tất cả Phật
Tay lấy cam lồ rưới trên đảnh.
Nhược hoạch quán đỉnh đại thần thông
Trụ ư tối thắng chư tam-muội
Tắc ư thập phương chư Phật sở
Ưng thọ quán đỉnh nhi thăng vị
Nhược ư thập phương chư Phật sở
Ưng thọ quán đỉnh nhi thăng vị
Tắc mông thập phương nhất thiết Phật
Thủ dĩ cam lồ quán kỳ đỉnh.
Nếu được quán đảnh đại thần thông, Trụ ở các tam-muội tối thắng: nếu quý vị được mười phương chư Phật đến gia bị quý vị, đến quán đảnh cho quý vị, quán đảnh thì đạt được đại thần thông, thì quý vị có thể trụ ở trong tất cả các tam-muội thù thắng nhất, ở trong tất cả tất cả chánh định.
Thì ở chỗ chư Phật mười phương, Đáng thọ quán đảnh để thăng vị: thì quý vị được ở trong đạo tràng của chư Phật nơi mười phương thế giới, mười phương chư Phật đều đến quán đảnh cho quý vị để quý vị bước lên địa vị Đẳng Giác. Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, lại thêm Đẳng Giác, Diệu Giác là năm mươi hai quả vị của Pháp thân Đại sĩ. Quý vị trụ trong tất cả tam-muội, ở đạo tràng của mười phương chư Phật thọ quán đảnh mà bước lên địa vị, bước lên địa vị gì? Chính là địa vị Đẳng Giác. Địa vị Đẳng Giác này, lại tu thêm lên để đạt Diệu Giác, thành Phật. Đẳng Giác còn một phần sinh tướng vô minhchưa phá, tức là còn vô minh như sợi tóc vẫn chưa được phá. Nếu Bồ-tát phá được một phần sinh tướng vô minh này thì sẽ thành Phật.
Nếu ở chỗ chư Phật mười phương: nếu quý vị có thể ở đạo tràng của mười phương chư Phật, Đáng thọ quán đảnh để thăng vị: lại bước lên địa vị Đẳng Giác, Thì được mười phương tất cả Phật, Tay lấy cam lồ rưới trên đảnh: thì quý vị được mười phương chư Phật cầm bình cam lồ rưới lên đảnh quý vị. Trong 42 Thủ Nhãn, quý vị tu Cam Lồ Thủ Nhãn thành công rồi, thì có thể quán đảnh cho tất cả chúng sanh. Nhưng khi chúng ta tu pháp này thì trước tiên đừng có tâm tham, đừng khởi tâm hy vọng, nói tôi phải thành công. Bởi vì quý vị có ý tưởng muốn thành công, vọng niệm như thế xen tạp trong đầu, thì sẽ khó mà tương ưng được.
Nếu được mười phương tất cả Phật
Tay lấy cam lồ rưới trên đảnh
Thì thân đầy khắp như hư không
An trụ bất động khắp mười phương.
Nếu thân đầy khắp như hư không
An trụ bất động khắp mười phương
Thì sở hành kia không ai bằng
Chư thiên, thế nhân không thể biết.
Nhược mông thập phương nhất thiết Phật
Thủ dĩ cam lồ quán kỳ đỉnh
Tắc thân sung biến như hư không
An trụ bất động mãn thập phương
Nhược thân sung biến như hư không
An trụ bất động mãn thập phương
Tắc bỉ sở hành vô dữ đẳng
Chư thiên thế nhơn mạc năng tri.
Nếu được mười phương tất cả Phật, Tay lấy cam lồ rưới trên đảnh: mười phương chư Phật dùng cam lồ đến rưới trên đảnh của quý vị, một mặt là để tẩy sạch những tập khí xưa sẵn có trong quý vị, cũng giống như tắm gội cho quý vị; một mặt lại có thể thành tựu quả vị Bồ-đề của quý vị, phá trừ một phần củasanh tướng vô minh. Mông chính là thừa mông (nhận được); cảnh giới này không dễ đạt được, quý vị muốn được mười phương chư Phật đến rưới lên đảnh cho quý vị là một việc không dễ dàng. Giống như quý vị tu đạo thì mười phương chư Phật hoặc thiện tri thức cũng thường thường đến xoa đảnh, xoa đảnh chính là gia trì cho quý vị, khiến quý vị được thành tựu định lực, thành tựu tuệ lực, đây đều là ở trong âm thầm, quý vị không nhìn thấy được, nhưng có thể cảm giác được. Quý vị cảm giác được, hoặc giả khi quý vị ngồi ở đây, thì giống như có vật gì xoa chà ở trên đầu, đây đều là mười phương chư Phật, hoặc thiện tri thức đến gia trì cho quý vị! Khiến quý vị phát tâm Bồ-đề, tâm Bồ-đề tăng trưởng, cho nên đây gọi là mông. Mông, cảnh giới này rất khó đạt được, quý vị đạt được rồi, thì nên phát tâm Bồ-đề. Quý vị được mười phương chư Phật đến xoa đảnh thọ ký cho quý vị, lại dùng cam lồ rưới lên đảnh cho quý vị. Lợi ích của cam lồ rưới lên đảnh này là rất nhiều, nói không hết, khiến quý vị không còn đói khát, tất cả đều tùy tâm mãn nguyện. Cho nên được cam lồ rưới lên đảnh là một cảnh giới rất thù thắng.
Thì thân đầy khắp như hư không: quý vị có thể được mười phương chư Phật rưới lên đảnh (quán đảnh) cho quý vị, thì Pháp thân của quý vị đầy khắp như hư không, rộng lớn như hư không. Ở trong hư không, quý vị cũng có thể nói là một Pháp thân, cũng có thể nói là vô lượng vô biên Pháp thân, vô lượng vô biên Pháp thân này lại là một Pháp thân, một Pháp thân lại là vô lượng vô biên Pháp thân. Cho nên đầy khắp hư không, An trụ bất động khắp mười phương: an trụ bất động đầy khắp mười phương rồi, quý vị ở trong hư không an trụ bất động, nhưng Pháp thân của quý vị có thể đầy khắp mười phương thế giới.
Nếu thân đầy khắp như hư không, An trụ bất động khắp mười phương: giả sử Pháp thân của quý vị đầy khắp như hư không, không ở đâu và không đâu không có mặt (vô tại, vô bất tại), quý vị nói hư không có lớn không? Nếu chúng ta tu thành rồi thì Pháp thân và hư không là giống nhau. Nhưng Pháp thân của chúng ta giống như hư không, rồi Pháp thân của chư Phật cũng giống như hư không, thế thì làm sao có thể đều đầy khắp trong hư không được, quý vị gạt tôi ra khỏi hư không đi, hay tôi gạt quý vị ra ngoài hư không được chăng? Không phải vậy! Hỗ tương vô ngại, quý vị đầy khắp hư không của quý vị, Phật đầy khắp hư không của Phật, đầy khắp hư không lẫn nhau, vẫn hỗ tương vô ngại, hỗ tương đều là một Pháp thân, cũng hỗ tương đều là nhiều Pháp thân. Cảnh giới này thật là vi diệu không thể nói, nói không thể hết, quý vị không có cách nào dùng ngôn ngữ nói ra được, nhất định phải chứng đắc cảnh giới này mới có thể thể hội.
Một chính là nhiều, nhiều chính là một, một nhiều vô ngại, quý vị muốn nhiều cũng được, muốn một cũng được, không nhập mà không tự đắc, như thế nào cũng tốt, như thế nào cũng đều không có vấn đề, không có chướng ngại, tất cả đều không có chướng ngại. Cảnh giới hư không và cảnh giới địa ngục là như nhau, nhưng địa ngục thì thọ khổ, mà hư không thì an vui. Ở địa ngục, một người cũng đầy khắp cả một địa ngục mà nhiều người cũng đầy khắp cả một địa ngục, đó gọi là Vô gián địa ngục. Vô gián địa ngục chính là nơi mà một chút không gian cũng không có, chen chúc đầy khắp; hư không này cũng là chen chúc đầy khắp, nhưng nó là cảnh giới sung sướng an lạc, không phải thọ khổ, cũng là hỗ tương vô ngại, quý vị đầy khắp hư không của quý vị, tôi đầy khắp hư không của tôi, tận hư không, biến pháp giới đều là viên mãn vô ngại, viên dung vô ngại.
Cho nên Nếu thân đầy khắp như hư không, An trụ bất động khắp mười phương, Thì sở hành kia không ai bằng: chỗ tu hành của quý vị, chỗ tạo tác của quý vị không có ai có thể so sánh.
Chư thiên, thế nhân không thể biết: tất cả thiên thần và người thế gian đều không có cách nào để biết được cảnh giới của quý vị là như thế nào, cho nên đây gọi là cảnh giới bất khả tư nghị.
卍 卍 卍
Đệ tử:
- Con thường nghe sư phụ nói: có người trong quá trình học Phật đã hối hận thoái lui, con muốn biết do nhân duyên gì mà xảy ra trường hợp như thế? Và làm thế nào khi tu hành, gặp chướng ngại, mà không sinh hối hận thoái lui?
Thượng Nhân:
Tu Kim Luân Thủ Nhãn thì sẽ không sinh tâm hối hận thoái lui, không thoái thất tâm Bồ-đề; nhưng phải tu thường xuyên, chứ không phải tu một chút rồi bỏ. Tu đạo thì phải có tâm nhẫn nại, tâm nhẫn nại chính là tự mình phải có tâm kiên cố, thành thật, thường hằng, không thoái lui, không thoái chí nguyện này. Bất luận quý vị tu pháp gì mà tự mình không tinh tấn hướng về phía trước thì cũng sẽ thoái lui mà thôi. Chỉ có tự mình phấn phát tinh thần, tinh tấn tu tập hướng về phía trước, thì mới không thể thoái lui. Phải phát nguyện – tôi nguyện đời đời không thoái thất tâm Bồ-đề, dù khó khăn thế nào cũng không thoái thất tâm Bồ-đề, cũng phải phát tâm Bồ-đề. Cũng khẩn cầu mười phương chư Phật đến gia hộ, khiến cho mình không thoái thất tâm Bồ-đề.
4.1.2 TỔNG KẾT CHỖ Y CỨ CỦA ĐẠI DỤNG
Chúng sinh hình tướng chẳng đồng nhau
Hành nghiệp, âm thanh cũng vô lượng
Như vậy tất cả đều hiện được
Sức uy thần tam-muội Hải ấn.
Chúng sinh hình tướng các bất đồng
Hành nghiệp âm thanh diệc vô lượng
Như thị nhất thiết giai năng hiện
Hải ấn tam-muội uy thần lực.
Chúng sinh có đủ loại, đủ hình, đủ tướng, gồm có mười hai loại chúng sinh. Mười hai loại chúng sinh này, cho dù có đồng loại thì hình tướng cũng chẳngđồng; trong mười hai loại chúng sinh, hình tướng của mỗi loại lại càng không đồng nhau, cho nên nói Chúng sinh hình tướng chẳng đồng nhau. Nghiệp của chúng sinh đã hành, đã tạo, đã làm và thọ lãnh quả báo cũng hoàn toàn chẳng đồng, âm thanh của chúng cũng khác nhau, cho nên nói Hành nghiệp, âm thanh cũng vô lượng: vô lượng tức là ý chẳng đồng, có một số lượng chúng sinh chẳng đồng nhiều như thế.
Như vậy tất cả đều hiện được, Sức uy thần tam-muội Hải ấn: đủ thứ hình dáng, đủ thứ sắc màu khác nhau của tất cả chúng sinh đều có thể hiện trong tam-muội Hải ấn của Bồ-tát. Tam-muội Hải ấn chính là nói, biển lớn có thể hiện ra tất cả hình tướng của vạn vật, hình tướng của vạn vật đều ở trong nước biển đây mà hiện ra. Hiện này không phải là hữu tâm hiện, mà là vô tâm hiện. Do vô tâm hiện ra nên đây gọi là vô công dụng đạo, chẳng phân biệt pháp hiện ra. Không luận là năng hiện hay sở hiện cũng đều do vô công dụng đạo này mà thành tựu, cũng như bóng in trên vách. Vậy ở trong biển lớn đã hiện hình tướng của vạn vật, đây gọi là tam-muội Hải ấn. Tam-muội Hải ấn của Bồ-tát có thể hiện ra được tất cả chúng sinh, hình tướng của tất cả chúng sinh đều ở trong tam-muội Hải ấn của Bồ-tát hiện ra, cho nên nói: sức uy thần lớn của tam-muội Hải ấn này.
4.2. MÔN TAM-MUỘI HOA NGHIÊM DIỆU HẠNH
Thân nghiệp, ý nghiệp, khẩu nghiệp của quý vị đều thanh tịnh trang nghiêm thì bất khả tư nghì cõi nước chư Phật mới thanh tịnh trang nghiêm. Nếu ba nghiệp thân, khẩu, ý của quý vị không thanh tịnh thì không thể đến trang nghiêm được. Miệng của quý vị nói trang nghiêm mà trong tâm không trang nghiêm thì cũng không phải là trang nghiêm, ắt cần phải ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh thì mới trang nghiêm bất khả tư nghì cõi Phật.
Cúng dường tất cả chư Như Lai: thế nào gọi là cúng dường? Không phải chúng ta dùng một chút hương, một chút hoa, một chút trái cây để cúng dường Phật thì gọi là cúng dường đâu. Đúng! Đó cũng là cúng dường, nhưng cách cúng dường đó là cúng dường bên ngoài, là cúng dường hữu tướng. Cúng dường vô tướng là thế nào? Chính là:
Trên mặt không sân là cúng dường
Miệng không nói ác là diệu hương
Ý không giận dữ là chân bảo.
Diện thượng vô sân cúng dường cụ
Khẩu lý vô sân thổ diệu hương
Ý niệm vô sân thị chân bảo.
Trên mặt không sân là cúng dường: Nếu trên mặt của quý vị không hiện nét sân giận thì đây chính là cúng dường tất cả chư Như Lai. Trên mặt quý vị thường tươi vui hoan hỷ, niềm hoan hỷ toát ra từ nội tâm điềm tĩnh chứ không phải loại hoan hỷ cuồng nhiệt. Cho nên nói: “Hỷ nộ ai lạc chi vị phát, vị chi trung; phát nhi giai trung tiết, vị chi hòa. Trung dã giả, thiên hạ chi đại bản dã; hòa dã giả, thiên hạ chi đạt đạo dã. Trí trung hòa, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên. (Mừng giận buồn vui chưa phát thì gọi là trung; đã phát mà biết chế ngự thì gọi là hòa. Trung tức là căn bản tu đạo của thiên hạ; hòa tức là đạo xử thế của thiên hạ. Đạt được trung hòa thì trời đất ổn định, vạn vật sinh trưởng)”. Đạt được trung hòa tức là quý vị hợp với trung đạo, hợp với hòa khí, đạt được cái đạo tốt lành. Thiên địa vị tức là trời trụ ở vị trí của trời, không nổi cơn thịnh nộ, không sấm sét, không tuôn mưa lớn, không nổi gió lớn; đất trụ ở vị trí của đất, không giận dữ, không động đất, đây gọi là thiên địa vị yên. Trời đất đều an lập đúng ngay vị trí của mình, thì vạn vật đều được sinh trưởng, đều được năng lực sinh dưỡng của trời đất, đây gọi là vạn vật dục yên.
Miệng không nói ác là diệu hương: miệng quý vị không nói lời ác, không nói đâm thọc, không nói thêu dệt, không nói lời dối trá thì chính là tuôn ra hương thơm. Ý không giận dữ là chân bảo: trong tâm quý vị không sân giận, thì chính là châu báu quý giá. Cho nên, quý vị không có sân giận, luôn luôn hoan hỷ thì chính là chân chánh cúng dường tất cả chư Như Lai; nếu ai sân si giận dữ thì không có cúng dường tất cả chư Như Lai.
Các vị hiểu không? Quý vị muốn cúng dường tất cả chư Như Lai thì suốt ngày phải vui vẻ. Niềm vui này thật sự toát ra từ bên trong chứ không phải sự vui nhộn bên ngoài, cũng không phải giống như đạt được một cảnh giới ưa thích thì vui mừng hớn hở không thể tả. Hoặc là giống như được trúng số. Ồ! Trúng rồi, sung sướng quá! Quá vui mừng, vui mừng quá mà bị chết, quý vị nói trúng số như vậy thì có ích gì? Không phải loại vui đó. Vui này chính là trong tự tánh thường an vui, trong tự tánh không có sân, không có tham, không có si, đây là chân chánh cúng dường tất cả chư Như Lai.
Phóng ánh sáng lớn không ngằn mé: nếu quý vị không có tham thì không có sân; không có sân thì không có si; không có si thì không có tăm tối. Ba độc này tiêu diệt rồi thì sẽ phóng ánh sáng lớn, trí tuệ hiện tiền; trí tuệ của quý vị hiện tiền, thì chính là phóng ánh sáng lớn. Nói phóng ánh sáng lớn tức là quý vị không bị cảnh giới này làm mê; nếu quý vị bị cảnh giới làm mê, thì chính là u ám, không có ánh sáng. Nếu quý vị phá dẹp cảnh giới này, thì tức là phóng ánh sáng lớn không có ngằn mé. Các vị hiểu chưa? Ánh sáng đó không phải là Phật phóng ra. Đúng! Phật thì phóng ánh sáng của Phật, chúng ta cũng có ánh sáng của chúng ta! Ánh sáng của chúng ta chính là không có tham sân si, đây chính là phóng ánh sáng lớn. Không có ngằn mé tức là trí tuệ này vô lượng vô biên.
Độ thoát chúng sinh cũng vô hạn: độ thoát chúng sinh, bên ngoài thì độ chúng sinh ở bên ngoài, chúng sinh bên trong của quý vị cũng phải độ, cho nên nói Tự tánh chúng sinh thệ nguyện độ. Tự tánh bên trong của quý vị không có sân giận, không có phiền não, không có vô minh, thì chính là độ chúng sinh tự tánh vậy! Độ chúng sinh tự tánh được bao nhiêu? Cũng vô hạn, nhiều không có hạn lượng. Cho nên quý vị tu đạo, nghiên cứu Phật pháp, tất cả tất cả đều nên hồi quang phản chiếu, phản cầu chư kỷ, nhận thức chính mình là như thế nào.
Quý vị nhận thức bản lai diện mục của chính mình, bản lai diện mục vốn thanh tịnh, đã thanh tịnh thì không nên có các loại tà tri tà kiến, không nên có những tạp niệm nhiễm ô trong đó, đây gọi là Tự tánh chúng sinh thệ nguyện độ. Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn, tự tánh pháp môn thệ nguyện học, tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành. Chúng ta nghiên cứu Phật học, tất cả tất cả đều phải hướng vào chính mình để nghiên cứu, đừng hướng ra bên ngoài tìm cầu, chạy đi tìm bên ngoài, vì tám vạn bốn ngàn pháp môn đều không lìa tự tánh.
Đệ tử: Trung dã giả?
Thượng nhân: Trung dã giả, Trung này chính là Trung trong Trung Dung. “Hỷ nộ ai lạc chi vị phát” tức là mừng giận buồn vui khi chưa phát ra thì “vị chi trung”, đây là trung đạo; quý vị để cho mừng, giận phát ra, thì không phải là trung đạo. “Phát nhi giai trung tiết” tức là khi nên mừng thì quý vị mừng, khi nên giận thì quý vị giận, khi nên buồn thì quý vị buồn, khi nên vui vẻ thì quý vị vui vẻ, tức là cư xử phù hợp, chừng mực, không nhiều cũng không ít, phát ra đều hợp với lễ nghĩa pháp độ; tiết chính là từng mắc từng mắc. Phát nhi giai trung tiết, “vị chi hòa”, đây gọi là hòa, đạo trung hòa. “Trung dã giả, thiên hạ chi đại bản dã”, trungnày là căn bản tu đạo của thiên hạ.
Trí tuệ tự tại bất tư nghì
Nói pháp ngôn từ không ngăn ngại
Thí, giới, nhẫn, tấn và thiền định
Trí tuệ, phương tiện và thần thông
Như vậy tất cả đều tự tại
Do sức Phật Hoa Nghiêm tam-muội.
Trí năng tự tại bất tư nghị
Thuyết pháp ngôn từ vô hữu ngại
Thí, giới, nhẫn, tấn cập thiền định
Trí năng phương tiện thần thông đẳng
Như thị nhất thiết giai tự tại
Dĩ Phật Hoa Nghiêm tam-muội lực.
Trí tuệ tự tại bất tư nghì: cái gì gọi là trí tuệ? Trí tuệ chính là chân minh, chân giác ngộ. Chân giác ngộ thì có trí tuệ chân chính; nếu không giác ngộ thì ngu si, trí tuệ là để độ ngu si. Quý vị bị tất cả cảnh giới xoay chuyển mà không xoay chuyển được cảnh giới, đó chính là ngu si; quý vị có thể xoay chuyển được tất cả cảnh giới mà không bị tất cả cảnh giới xoay chuyển, thì chính là trí tuệ, dễ như trở bàn tay. Thế nào gọi là tự tại? Tự tại chính là không có phiền não, không hướng ra bên ngoài tìm cầu. Không có tất cả phiền não, không hướng ra ngoài tìm cầu thì đạt được tự tại chân chánh, cũng chính là đạt được an lạc chân chánh.
Tại sao quý vị đạt được an lạc này? Chính là do quý vị có trí tuệ, có trí tuệ thì mới có thể hiểu rõ cảnh giới an lạc chân chánh. Cảnh giới này chính là cảnh giới bất khả tư nghì. Quý vị thường thường được tự tại, thường thường có trí tuệ, thì mới biết tự tánh thường sinh trí tuệ, mới biết tự tánh vốn không dao động, mới biết tự tánh xưa nay thanh tịnh, mới biết tự tánh hay sinh muôn pháp (Kinh Pháp Bảo Đàn _ Phẩm Thứ Nhất). Đây đều là cảnh giới bất khả tư nghì.
Nói pháp ngôn từ không ngăn ngại: quý vị đạt được trí tuệ tự tại này, trí tuệ tự tại tức là cảnh giới bất khả tư nghì, thì pháp mà quý vị nói, ngôn từ phát ra đều chẳng có ngăn ngại. Cho nên đạt được đại trí tuệ thì đạt được đại tự tại; được đại tự tại thì được đại biện tài; được đại biện tài thì nói pháp không ngăn ngại; nói pháp không ngăn ngại thì có thể giáo hóa chúng sinh phát tâm Bồ-đề.
Thí, giới, nhẫn, tấn và thiền định: quý vị thường thực hành bố thí, bố thí là phải bố thí những gì? Phải bố thí nội tài, ngoại tài. Nội tài, ngoại tài bố thí rồi thì vô minh phiền não cũng phải đem bố thí. Bố thí cho ai? Bố thí cho biển trí tuệ (trí năng hải). Phải đem tham, sân, si đi bố thí cho biển trí tuệ này. Vì tham, sân, si vừa vào trong biển trí tuệ thì hóa thành quang minh. Giới là “Không làm các điều ác, vâng làm các điều thiện” tự mình thường xuyên ngăn ác phòng quấy, dừng tất cả điều ác, tu tất cả điều thiện, việc không đúng thì nhất định không làm.
Cho nên tôi thường nói:
Tánh định ma phục suốt ngày vui
Vọng dừng tâm không đâu cũng an.
Tánh định ma phục triều triều lạc
Vọng chỉ tâm không xứ xứ an.
Tánh định ma phục suốt ngày vui: nếu tánh của quý vị định thì ma tự nhiên hàng phục, ma nào cũng hàng phục. Ma không hàng phục tức là tánh của quý vị không định; nếu tánh của quý vị định rồi, như như bất động, liễu liễu thường minh, thì quý vị nói có ma gì? Ma có đến thì cũng phải chịu thua, không luận là ma vương niệm một loại thần chú nào, có ma sự ra sao, cũng không thể nhiễu loạn quý vị được, đây gọi là tánh định ma phục. Vì sao quý vị không thể hàng phục ma? Vì tánh của quý vị không định!
Bị tất cả hoàn cảnh xoay chuyển, chẳng khác với phàm phu tục tử, thì đương nhiên không hàng phục được ma!
Vọng dừng tâm không đâu cũng an: nếu vọng niệm của quý vị dừng, tâm tánh tợ như hư không, đâu cũng an, quý vị nói đến đâu mà không bình an, đến đâu còn phiền não? Không có! Vì tâm của quý vị đã rỗng không, tâm không mới được đậu. Cho nên nói:
Mười phương đồng tụ hội
Đều cùng học vô vi
Đây là trường tuyển Phật
Tâm không mới được đậu.
Hiện tại chúng ta đang đả thiền thất, chính là mười phương đồng tụ hội, người từ bốn phương tám hướng tập trung đến, đây gọi là mười phương đồng tụ hội. Đều cùng học vô vi tức là ở chỗ này học pháp vô vi. Đây là trường tuyển Phật, thiền đường này chính là trường tuyển Phật. Tâm không thi đỗ về tức là quý vị ai có thể tâm rỗng không, trong quán tâm kia, tâm cũng không có, ngoài quán thân kia, thân cũng không có; quán vật kia, vật cũng không có, ba loại này đều không, ngay cả không cũng chẳng có, thì đây gọi là tâm không mới được đậu.
Nếu tâm quý vị có thể rỗng không như thế, thì làm sao còn đau chân? Làm sao còn đau lưng? Quý vị vốn đã không, ”vô ngã vô nhân Quán Tự Tại, phi không phi sắc kiến Như Lai”, ngã cũng không có, nhân cũng không có, đây chính là Bồ-tát Quán Tự Tại; cũng chẳng chấp không, cũng chẳng chấp có, đây gọi là phi không phi sắc (sắc chính là có). Kiến Như Lai, quý vị chẳng rơi vào không, chẳng rơi vào có, thì sẽ hiểu rõ Phật là như thế nào.
Cho nên các vị hãy nhớ: tánh định ma phục suốt ngày vui, vọng dừng tâm không đâu cũng an, đây là một tấm đối, do tôi nói đại ra, nhưng nếu quý vị có thể thường ghi nhớ hai câu này thì rất có lợi ích đối với việc tu đạo. Đây là câu đại minh chú, cũng là đại thần chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú. Quý vị xem! Tánh định ma phục suốt ngày vui, vọng dừng tâm không đâu cũng an: Không còn vọng tưởng! Vọng tưởng của quý vị dừng rồi thì tâm cũng rỗng không, vậy thì đi đến đâu mà không an lạc. Dù quý vị ở bất kỳ chỗ nguy hiểm nào cũng đều thấy bình an, quý vị xem đây có tốt không!
Trí tuệ, phương tiện và thần thông: quý vị có trí tuệ, thì sẽ dùng pháp môn phương tiện, thì sẽ quan sát căn cơ phù hợp mà giáo hóa, xem người này nên dùng phương pháp gì để khiến họ phát tâm bồ-đề, thì liền dùng phương pháp đó. Đó là chỉ dạy một cách chân thành và kiên nhẫn (tuần tuần thiện dụ) giáo hóa chúng sinh từng ly từng tí một, khiến chúng sinh thành Vô thượng đạo, đây gọi là pháp môn phương tiện. Lại dùng các loại thần thông, thần thông có nhiều vô lượng vô biên, nhưng chung quy lại có sáu loại.
Đó là thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông, lậu tận thông.
1- Thiên nhãn thông: nếu quý vị đạt được thiên nhãn thông, thì từng lời nói, cử chỉ, hành động của người trên cõi trời, quý vị đều nhìn thấy cả.
2- Thiên nhĩ thông: nếu quý vị đắc thiên nhĩ thông thì có thể nghe được những gì chư thiên nói. Không chỉ chư thiên nói mà người ở thế gian nói, cách mấy muôn vạn dặm, nếu quý vị muốn nghe một người nào đó nói gì, chỉ cần khởi quán thì lập tức biết được. Thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông đều có thể quan sát tất cả mọi việc, nghe tất cả mọi việc.
3- Tha tâm thông: đừng bảo là có nói ra thì mới biết, mà là có thể biết được ngay quý vị đang định bụng sẽ nói những gì, đang khởi vọng tưởng nào. Tôi có một số đệ tử quá thông minh, nhân vì tôi giảng về thiên nhĩ thông, thiên nhãn thông, tha tâm thông, thì họ liền nói: “Ồ! Sư phụ chắc có tha tâm thông, tôi thưa chuyện với Sư Phụ chẳng cần gặp mặt Ngài, chỉ cần ở đây, như nói chuyện với ma quỷ vậy, thế thì họ đối trước tấm hình của tôi mà nói (chuyện): ‘Ô! Hiện tại con có việc cầu thỉnh Sư Phụ giúp đỡ; hoặc là có bệnh gì chữa chưa hết; hay là: A! Việc này phải làm sao? Vấn đề khó khăn này của con giải quyết thế nào?’ ”. Toàn nói tầm bậy. Họ cho rằng kiểu này thì tôi đã biết, kỳ thật tôi đâu có rảnh mà quan tâm đến những việc vớ vẩn này, đây đều là việc làm của người quá thông minh. Đặc biệt có một số người, khi lễ Phật rồi lại còn mong Sư Phụ bảo hộ họ, bảo hộ cho họ bớt bệnh! Bảo hộ hoàn cảnh gia đình họ thuận lợi. Ồ! Thật tức cười! Chính tôi còn không có cách nào để bảo hộ cho mình làm thế nào để thuận lợi, làm thế nào để cho tốt. Nếu tôi có bản lãnh như thế, thì tôi tự bảo hộ chính mình không tốt hơn sao?
4- Túc mạng thông: tức là biết việc đời trước. “Ồ! Đời trước tôi vốn làm trâu, sừng dài! Ai da! Thường húc nhau với con trâu khác, cho nên đời này còn nóng tánh như thế, thì ra đã từng làm trâu”. Lại vừa thấy, “A! Thảo nào tôi không chịu bố thí, vì vừa xong kiếp làm chó rồi đến đây mà”. Làm chó chính là do xan tham. Quý vị xem, người không chịu bố thí kia chính là đời trước đã từng làm chó. Chó thì giữ cửa cho người, nó sợ kẻ trộm đến trộm đồ. Vì sao vậy?
Khi còn tại thế, Phật đi đến một nhà cư sĩ nọ, trong nhà ông này có một con chó. Con chó này hễ ngủ thì nhất định nằm dưới giường, chứ không chịu ngủ chỗ khác. Quý vị bảo nó đi ra ngoài hoặc đi chỗ nào khác thì nó cũng không đi, suốt ngày cứ nằm dưới giường. Nếu có người lạ vừa muốn đến gần giường này, thì không được, nó sẽ cắn, không cho bất kỳ ai đến chỗ này.
Vị cư sĩ liền thỉnh hỏi Phật, đây là nhân duyên gì. Phật hỏi: “Ai ngủ trên cái giường này?”. “Khi cha tôi còn sống, ông thường ngủ ở cái giường này”. “Cha ông chết khi nào và từ khi nào ông có con chó này?”. “Sau khi cha tôi qua đời thì con chó mẹ trong nhà liền sinh con chó này; nó vừa sinh ra thì liền chạy đến đây ngủ, không chịu đi đâu cả. Những con chó khác cũng không được đến gần, chỉ có người trong nhà mới được đến gần, người lạ thì phải đứng cách xa”.
Phật nói: “Con chó này đời trước là cha ngươi. Khi còn sinh tiền ông ta đã cất giấu một số vàng, khoảng chừng ba trăm lượng. Trước lúc chết, ông ta đem vàng chôn dưới giường này, nhưng không có ai biết. Đến khi ông ta bệnh nặng qua đời mà không kịp nói với các ngươi, cho nên cứ nhớ mãi số vàng này và thế là liền tái sinh làm chó trong nhà ngươi, hằng ngày nằm đây để giữ số vàng này, không cho người lạ động đến, nó sợ mất đi số vàng này.”
Phật vừa nói xong thì con chó liền gật đầu, biểu thị thừa nhận đúng sự thật. Lúc đó, con ông ta liền lấy cuốc đào lên, quả nhiên có ba trăm lượng vàng chôn bên dưới. Sau khi số vàng này được đào lên thì con chó liền lăn ra chết, vì nó đã buông được ý niệm xan tham. Số vàng đã vào tay con ông ta, cho nên ông ta (con chó) cũng tức khắc bỏ thân. Từ công án này cho thấy, nhân quả tuần hoàn trong lục đạo luân hồi thật là bất khả tư nghị!
5- Thần túc thông: trong một niệm có thể du hành khắp pháp giới, ở trong một niệm này, có thể đi khắp mười phương thế giới, giáo hóa chúng sinh.
6- Lậu tận thông: chính là không rơi rớt. Một tách trà, nếu dưới đáy nứt một đường thì rót nước vào, nước sẽ rỉ chảy ra, đây gọi là hữu lậu. Như thế nào là vô lậu? Chính là không rỉ chảy. Không rỉ chảy cũng chính là không có những tập khí, không có phiền não, không có vô minh, không có tất cả niệm dục, đây là vô lậu.
Quý vị có niệm dục tức là hữu lậu, cho nên ba cõi là hữu lậu; vô lậu là vượt ngoài ba cõi, đây gọi là thần thông vô lậu. Lậu tận thông chẳng phải dễ đắc, vì tập khí nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta quá sâu nặng, quý vị bảo họ đoạn trừ tức khắc thì không phải dễ. Cho nên nếu chứng đắc lậu tận thông, thì tức là chân chánh tự tại, chân chánh có trí tuệ. Quý vị muốn đắc ngũ nhãn lục thông, thì phải làm thế nào? Thì phải nhẫn, đầu tiên là phải nhẫn, thứ hai là phải tinh tấn, thứ ba là phải tu thiền định. Quý vị có ba điều kiện này thì mới có thể đạt được ngũ nhãn lục thông.
Như vậy tất cả đều tự tại: giống như ở trước đã nói, trí tuệ tự tại bất khả tư nghì, âm thanh nói pháp cũng bất khả tư nghì, quý vị lại tu mười ba-la-mật gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, phương tiện, nguyện, lực, trí và tất cả thần thông v.v… giống như thế, tất cả tất cả đều vô cùng tự tại, đều thị hiện rất tự nhiên. Đây là nguyên nhân gì?
Do sức Phật Hoa Nghiêm tam-muội: đây chính là do Phật có sức Hoa Nghiêm tam-muội. Dùng nhân hoa của vạn hạnh, trang nghiêm quả đức vô thượng, nhập sức Hoa Nghiêm tam-muội này.
4.3 MÔN TAM-MUỘI NHÂN-ĐÀ-LA VÕNG
Trong một vi trần nhập tam-muội
Thành tựu tất cả vi trần định
Mà vi trần kia cũng chẳng tăng
Nơi một hiện khắp cõi khó nghĩ.
Nhất vi trần trung nhập tam-muội
Thành tựu nhất thiết vi trần định
Nhi bỉ vi trần diệc bất tăng
Ư nhất phổ hiện nan tư sát.
Trong một vi trần nhập tam-muội: tức là nhập tam-muội trong một hạt vi trần, chuyển đại pháp luân, hiện vô biên cõi Phật.
Thành tựu tất cả vi trần định: trong mỗi một hạt vi trần đều có thể nhập định, nhập định Hoa Nghiêm tam-muội này, một hạt vi trần cũng không thiếu, cũng không nhỏ, tất cả vi trần cũng không nhiều. Trong mỗi một hạt vi trần, Phật đều ở trong đó nhập định, chuyển pháp luân, Mà vi trần kia cũng chẳng tăng: vi trần tuy nhỏ, Phật ở trong vi trần để chuyển pháp luân, giáo hóa chúng sinh, nhưng hạt vi trần đó cũng chẳng phải phóng to lớn, rộng dài, cũng chẳng có tăng thêm.
Nơi một hiện khắp cõi khó nghĩ: ở trong một hạt vi trần này, hiện ra bất khả tư nghì cõi nước chư Phật, cảnh giới này chính là cảnh giới bất khả tư nghì, cõi khó nghĩ.
Cõi chúng sinh trong một trần kia
Hoặc là có Phật hoặc không Phật
Hoặc có tạp nhiễm hoặc thanh tịnh
Hoặc là rộng lớn hoặc nhỏ hẹp
Hoặc có cõi thành hoặc có hoại
Hoặc có chánh trụ hoặc bàng trụ
Hoặc như sóng nắng nơi đồng trống
Hoặc như nhân đà võng cõi trời
Như trong một trần đã thị hiện
Tất cả vi trần đều như thế
Các thánh nhân đại danh xưng này
Tam-muội giải thoát sức thần thông.
Bỉ nhất trần nội chúng sinh sát
Hoặc hữu hữu Phật hoặc vô Phật
Hoặc hữu tạp nhiễm hoặc thanh tịnh
Hoặc hữu quảng đại hoặc hiệp tiểu
Hoặc phục hữu thành hoặc hữu khôi
Hoặc hữu chính trụ hoặc bàng trụ
Hoặc như khoáng dã nhiệt thời diễm
Hoặc như thiên thượng nhân đà võng
Như nhất trần trung sở thị hiện
Nhất thiết vi trần tất diệc nhiên
Thử đại danh xưng chư thánh nhân
Tam-muội giải thoát thần thông lực.
Cõi chúng sinh trong một trần kia: trong một hạt vi trần, hiện ra vô lượng vô biên cõi nước chư Phật.
Hoặc là có Phật hoặc không Phật: trong mỗi một cõi nước, hoặc có cõi nước có Phật ở đó thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh; hoặc có cõi nước không có Phật ở đó giáo hóa chúng sinh, đây là một cảnh giới bất khả tư nghì.
Hoặc có tạp nhiễm hoặc thanh tịnh: cõi nước được thị hiện, hoặc có cõi có tạp nhiễm, giống như đời năm trược ác của chúng ta là thế giới tạp nhiễm; hoặc thị hiện một thế giới thanh tịnh giống như thế giới Cực Lạc.
Hoặc là rộng lớn hoặc nhỏ hẹp: hiện ra đủ loại cõi nước, hoặc có cõi nước thì rộng lớn, hoặc có cõi nước lại nhỏ hẹp.
Hoặc có cõi thành hoặc có hoại: hoặc có thế giới thì đang hình thành, hoặc có thế giới thì đang hoại diệt.
Hoặc có chánh trụ hoặc bàng trụ: hoặc có thế giới thì đang có chánh pháp trụ thế, Phật chuyển đại pháp luân. Hoặc bàng trụ, hoặc có thế giới thì đã đến thời Tượng pháp, hoặc Mạt pháp, đủ loại không đồng.
Hoặc như sóng nắng nơi đồng trống: hoặc có thế giới đã thị hiện giống như sóng nắng (dương diệm) ở giữa đồng trống.
Hoặc như nhân đà võng cõi trời: hoặc có thế giới giống y như lưới nhân-đà-la ở trước trời Đế Thích nơi cõi trời.
Như trong một trần đã thị hiện: không chỉ ở trong một hạt vi trần thị hiện cảnh giới này, tức là cõi nước chư Phật, mười phương thế giới đều hiện ra, màTất cả vi trần đều cũng vậy: trong mỗi một hạt vi trần đều hiện cảnh giới này, hiển hiện qua lại cõi nước chư Phật trong mười phương thế giới. Đều cũng vậytức là đều cùng một kiểu.
Các thánh nhân đại danh xưng này: đây chính là tất cả thánh nhân thị hiện cõi nước chư Phật, giáo hóa chúng sinh đã được nêu ở trên, đều có đại danh xưng.
Tam-muội giải thoát sức thần thông: họ đều có tam-muội, đều được giải thoát, cũng đạt được sức thần thông tối diệu này.
4.4 MÔN TAM-MUỘI THỦ XUẤT QUẢNG CÚNG
4.4.1 NÊU CHUNG
Nếu muốn cúng dường tất cả Phật
Thì nhập tam-muội khởi thần biến
Hay dùng một tay khắp tam thiên
Cúng khắp tất cả chư Như Lai.
Nhược dục cúng dường nhất thiết
Phật Nhập ư tam-muội khởi thần biến
Năng dĩ nhất thủ biến tam thiên
Phổ cúng nhất thiết chư Như Lai.
Nếu muốn cúng dường tất cả Phật: nếu khi họ muốn cúng dường tất cả chư Phật ba đời trong mười phương, Thì nhập tam-muội khởi thần biến: trước tiên phải nhập định, nhập định này rồi thì lại hiện ra đủ loại thần thông biến hóa.
Hay dùng một tay khắp tam thiên: họ đều có sức thần thông lớn, tức là dùng một tay cũng có thể đi cúng dường tất cả chư Phật ở tam thiên đại thiên thế giới trong ba đời khắp mười phương, cho nên cúng khắp tất cả chư Như Lai: cúng dường khắp cả chư Phật trong ba đời ở mười phương.
4.4.2 NÊU CHI TIẾT
Tất cả hoa đẹp khắp mười phương
Hương xoa, hương bột, bảo vô giá
Như vậy đều từ tay tuôn ra
Cúng dường đạo thọ Chư Tối Thắng.
Y Báu vô giá, đủ loại hương
Tràng phan, lọng báu đều nghiêm tốt
Vàng ròng làm hoa, báu làm trướng
Tất cả đều từ tay tuôn ra.
Thập phương sở hữu thắng diệu hoa
Đồ hương mạt hương vô giá bảo
Như thị giai tùng thủ trung xuất
Cúng dường đạo thọ chư tối thắng
Vô giá bảo y tạp diệu hương
Bảo tràng phan cái giai nghiêm hảo
Chân kim vi hoa bảo vi trướng
Mạc bất giai tùng chưởng trung vũ.
Tất cả hoa đẹp khắp mười phương: trong tay Bồ-tát tuôn ra đủ loại hoa, đủ loại hương thù thắng nhất ở khắp mười phương để cúng dường tất cả các đức Như Lai trong ba đời ở mười phương.
Hương xoa, hương bột, bảo vô giá: hoặc là hương xoa, hoặc là hương bột, hoặc là dùng trân bảo vô giá để cúng dường Phật.
Như vậy đều từ tay tuôn ra: tất cả những hoa đẹp, hương xoa, hương bột, hương đốt, các loại trân bảo vô giá này đều từ trong tay bậc thánh nhân đại danh xưng tuôn ra.
Cúng dường đạo thọ Chư Tối Thắng: họ cúng dường chư Phật trong đạo tràng Bồ-đề thọ vương. Chư Tối Thắng chính là chư Phật Như Lai.
Y báu vô giá, đủ loại hương: lại dùng y báu vô giá và đủ loại hương thơm để cúng dường Phật.
Tràng phan, lọng báu đều nghiêm tốt: lại dùng đủ loại tràng phan báu, đủ loại lọng báu để cúng dường chư Phật, trang nghiêm đạo tràng.
Vàng ròng làm hoa, báu làm trướng: trong tay Bồ-tát này đã tuôn ra đủ loại hoa đẹp, đều từ vàng ròng tạo thành; còn có trướng báu do bảy báu làm thành.
Tất cả đều từ tay tuôn ra: tất cả những hoa báu, trướng báu này đều từ trong tay Bồ-tát tuôn ra.
Tất cả vật tốt ở mười phương
Đều đem phụng hiến Vô Thượng Tôn
Trong tay tuôn ra đủ các loại
Trước cây Bồ-đề đem cúng Phật.
Mười phương tất cả các kỹ nhạc
Chuông trống cầm sắt chẳng phải một
Cùng tấu âm thanh diệu hòa nhã
Đều từ trong tay mà tuôn ra.
Ứng khả phụng hiến Vô Thượng Tôn
Chưởng trung tất vũ vô bất bị
Bồ-đề thọ tiền trì cúng Phật
Thập phương nhất thiết chư kỹ nhạc
Chung cổ cầm sắt phi nhất loại
Tất tấu hòa nhã diệu âm thanh
Mỹ bất tùng ư chưởng trung xuất.
Tất cả vật tốt ở mười phương: tất cả những vật quý giá đắc tiền trong mười phương thế giới, Đều đem phụng hiến Vô Thượng Tôn: bảo vật trong tay Bồ-tát này tuôn ra đều đem phụng hiến mười phương chư Phật.
Trong tay tuôn ra đủ các loại: trong tay Bồ-tát tuôn ra đủ loại hoa đẹp quý báu, còn có tất cả vật quý danh tiếng nhất thế gian, không có cái nào mà không đầy đủ.
Trước cây Bồ-đề đem cúng Phật: dùng những thứ này đến trước cây Bồ-đề, đạo tràng của đấng Pháp Vương để cúng dường Phật.
Kỹ nhạc ở mỗi một quốc gia trong mười phương thế giới không đồng nhau, cho nên nói, Mười phương tất cả các kỹ nhạc.
Chuông trống cầm sắt chẳng phải một: có lúc thì tiếng chuông, có lúc lại là tiếng trống, có lúc lại là tiếng đàn cầm, có lúc lại là tiếng đàn sắt, chẳng phải một loại. Đây không phải chỉ dùng một loại nhạc để cúng dường Phật, mà là dùng đủ loại nhạc để cúng dường Phật.
Cùng tấu âm thanh diệu hòa nhã: có đủ loại nhạc khí cùng diễn tấu âm thanh vi diệu hòa nhã, khiến quý vị nghe thì không thể dừng được mà cứ ưa thích nghe mãi.
Đều từ trong tay mà tuôn ra: tất cả âm nhạc, tất cả âm thanh vi diệu này cũng đều từ trong tay Bồ-tát lưu xuất ra.
Mười phương tất cả các tán tụng
Khen ngợi Như Lai thật công đức
Đủ loại ngôn từ hay như thế
Đều từ trong tay mà khai diễn.
Tay phải Bồ-tát phóng tịnh quang
Nước thơm trong quang từ không tuôn
Rưới khắp cõi Phật ở mười phương
Cúng dường tất cả Chiếu Thế Đăng.
Thập phương sở hữu chư tán tụng
Xưng thán Như Lai thật công đức
Như thị chủng chủng diệu ngôn từ
Giai tùng chưởng nội nhi khai diễn
Bồ-tát hữu thủ phóng tịnh quang
Quang trung hương thủy tùng không vũ
Phổ sái thập phương chư Phật độ
Cúng dường nhất thiết Chiếu Thế Đăng.
Mười phương tất cả các tán tụng: văn tự của mỗi một quốc gia ở tất cả thế giới trong mười phương, đã làm thành những bài tán tụng để Khen ngợi Như Lai thật công đức: đều là xưng dương khen ngợi công đức chân thật của Phật.
Đủ loại ngôn từ hay như thế: lại dùng đủ loại ngôn từ hay như thế, Đều từ trong tay mà khai diễn: đều từ trong tay Bồ-tát phát ra âm thanh, diễn thuyết diệu pháp. Tay này cũng có thể nói, quý vị đã từng thấy chưa, đã từng nghe chưa? Trong tay Bồ-tát cũng có thể nói, cũng có thể giảng kinh thuyết pháp, thì trong tay này, cũng có thể phát ra âm thanh, mà còn là âm thanh rất hay, khai diễn tất cả diệu pháp.
Tay phải Bồ-tát phóng tịnh quang: trong tay phải của Bồ-tát phóng ra ánh sáng thanh tịnh.
Nước thơm trong quang từ không tuôn: trong ánh sáng này lại tuôn ra đủ loại nước thơm, từ trong hư không rưới xuống mặt đất.
Rưới khắp cõi Phật ở mười phương: nước thơm này rưới khắp các cõi nước Phật ở mười phương.
Cúng dường tất cả Chiếu Thế Đăng: cúng dường tất cả chư Phật. Chiếu Thế Đăng là một danh xưng khác của Phật
Lại phóng ánh sáng diệu trang nghiêm
Sinh ra vô lượng hoa sen báu
Sắc tướng hoa ấy đều đẹp lạ
Dùng đây để cúng dường chư Phật.
Lại phóng ánh sáng hoa trang nghiêm
Đủ loại hoa đẹp hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Hựu phóng quang minh diệu trang nghiêm
Xuất sanh vô lượng bảo liên hoa
Kỳ hoa sắc tướng giai thù diệu
Dĩ thử cúng dường ư chư Phật.
Hựu phóng quang minh hoa trang nghiêm
Chủng chủng diệu hoa tập vi trướng
Phổ tán thập phương chư quốc độ
Cúng dường nhất thiết Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng diệu trang nghiêm: lại phóng ánh sáng lớn, trang nghiêm cõi nước chư Phật.
Sinh ra vô lượng hoa sen báu: lại sinh ra vô lượng hoa sen quý báu đẹp lạ.
Sắc tướng hoa ấy đều đẹp lạ: màu sắc và hình dáng của hoa này rất đẹp đẽ lạ thường.
Dùng đây để cúng dường chư Phật: dùng hoa hương này để cúng dường tất cả chư Phật ba đời ở khắp mười phương.
Lại phóng ánh sáng hoa trang nghiêm: tất cả đại thánh nhân này lại phóng ra một loại ánh sáng, có hoa ở trong ánh sáng này hiện ra làm trang nghiêm.
Đủ loại hoa đẹp hợp làm trướng: dùng đủ loại hoa đẹp cùng gom nhóm đến làm một trướng hoa báu.
Rải khắp cõi nước ở mười phương: dùng trướng hoa báu gom nhóm này rải khắp cõi nước chư Phật ở mười phương, để Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn: cũng chính là cúng dường tất cả chư Phật.
Lại phóng ánh sáng hương trang nghiêm
Đủ loại hương thơm hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng hương bột nghiêm
Đủ loại hương bột hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Chủng chủng diệu hoa tập vi trướng
Phổ tán thập phương chư quốc độ
Cúng dường nhất thiết Đại Đức Tôn.
Hựu phóng quang minh mạt hương nghiêm
Chủng chủng mạt hương tụ vi trướng
Phổ tán thập phương chư quốc độ
Cúng dường nhất thiết Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng hương trang nghiêm: dùng đủ loại hương này để trang nghiêm.
Đủ loại hương thơm hợp làm trướng: có đủ loại hương thơm gom nhóm làm trướng báu, Rải khắp cõi nước ở mười phương, Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng hương bột nghiêm: dùng bột hương để trang nghiêm. Đủ loại hương bột hợp làm trướng: nhóm làm trướng báu. Rải khắp cõi nước ở mười phương, Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng y trang nghiêm
Đủ loại y quý hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng báu trang nghiêm
Đủ loại báu quý hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Chủng chủng danh y tập vi trướng
Phổ tán thập phương chư quốc độ
Cúng dường nhất thiết Đại Đức Tôn.
Hựu phóng quang minh bảo trang nghiêm
Chủng chủng diệu bảo tập vi trướng
Phổ tán thập phương chư quốc độ
Cúng dường nhất thiết Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng y trang nghiêm: dùng y báu để trang nghiêm cõi Phật.
Đủ loại y quý hợp làm trướng: gom nhóm làm trướng báu.
Rải khắp cõi nước ở mười phương, Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng báu trang nghiêm: có đủ loại báu để trang nghiêm.
Đủ loại báu quý hợp làm trướng: gom nhóm làm trướng báu.
Rải khắp cõi nước ở mười phương, Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng sen trang nghiêm
Đủ loại hoa sen hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Lại phóng ánh sáng ngọc trang nghiêm
Đủ loại ngọc đẹp hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn.
Hựu phóng quang minh hương trang nghiêm
Hựu phóng quang minh y trang nghiêm
Hựu phóng quang minh liên trang nghiêm
Chủng chủng danh y tập vi trướng
Phổ tán thập phương chư quốc độ
Cúng dường nhất thiết Đại Đức Tôn.
Hựu phóng quang minh anh trang nghiêm
Chủng chủng diệu anh tập vi trướng
Phổ tán thập phương chư quốc độ
Cúng dường nhất thiết Đại Đức Tôn.
Đây là nguyện rộng lớn của Bồ-tát Phổ Hiền, cho nên rộng tu cúng dường. Lại phóng ánh sáng sen trang nghiêm: Bồ-tát lại phóng một loại ánh sáng, trong ánh sáng hiện ra hoa sen báu lớn, dùng hoa sen báu lớn để trang nghiêm cõi Phật. Đủ loại hoa sen hợp làm trướng: có hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng, hoa sen vàng, hoa sen tím, các loại hoa sen này hợp thành trướng báu. Rải khắp cõi nước ở mười phương: dùng hoa sen để cúng dường khắp, rải khắp cõi nước chư Phật ở mười phương, để Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn: cúng dường tất cả chư Phật nơi tất cả cõi nước trong ba đời ở khắp mười phương, rộng tu cúng dường.
Lại phóng ánh sáng ngọc trang nghiêm: Bồ-tát này lại phóng ra bất khả tư nghì ánh sáng, trong ánh sáng lại hiện ra ngọc quý, dùng ngọc quý để trang nghiêm cõi nước.
Đủ loại ngọc đẹp hợp làm trướng: ngọc quý này cũng có rất nhiều loại, dùng đủ loại ngọc quý gom nhóm làm thành một cái trướng báu, trướng báu này lại sinh ra vô lượng vô biên trướng báu như thế, cho nên Rải khắp cõi nước ở mười phương, Cúng dường tất cả Đại Đức Tôn: lại rải khắp cõi nước chư Phật ở mười phương, cũng để rộng tu cúng dường tất cả chư Phật ba đời trong mười phương. Đây đều là do nguyện lực của Bồ-tát Phổ Hiền mà thành tựu.
Lại phóng ánh sáng tràng trang nghiêm
Tràng kia xen lẫn đủ các sắc
Đủ loại vô lượng đều đẹp lạ
Dùng đây trang nghiêm cõi nước Phật.
Đủ loại báu quý trang nghiêm lọng
Các phan lụa đẹp cùng rủ xuống
Chuông báu ma-ni diễn Phật âm
Đem đến cúng dường chư Như Lai.
Hựu phóng quang minh tràng trang nghiêm
Kỳ tràng huyến hoán bị chúng sắc
Chủng chủng vô lượng giai thù hảo
Dĩ thử trang nghiêm chư Phật độ.
Chủng chủng tạp bảo trang nghiêm cái
Chúng diệu tăng phan cộng thùy sức
Ma ni bảo đạc diễn Phật âm
Chấp trì cúng dường chư Như Lai.
Lại phóng ánh sáng tràng trang nghiêm: Bồ-tát lại phóng ánh sáng lớn, trong ánh sáng lại hiện ra tràng báu, dùng tràng báu để trang nghiêm cõi nước chư Phật.
Tràng kia xen lẫn đủ các sắc: tràng này ánh sáng thật rực rỡ, có một dạng ánh sáng rực rỡ, đây gọi là rực rỡ. Đủ các sắc, trong đây có đủ các loại màu sắc quý để trang nghiêm tràng báu này. Thế là ông ta dùng tràng báu này lại rải khắp tất cả cõi nước chư Phật ở mười phương, hóa ra vô lượng vô biên tràng báu như thế, Đủ loại vô lượng đều đẹp lạ: màu sắc vô lượng đủ loại đều đẹp lộng lẫy lạ thường.
Dùng đây trang nghiêm cõi nước Phật: dùng tràng báu vô cùng mỹ lệ này để trang nghiêm cõi nước chư Phật.
Đủ loại báu quý trang nghiêm lọng: lại có đủ loại báu xen lẫn, cũng chính là dùng bảy báu để trang nghiêm thành một lọng báu ở trong hư không. Trên cái lọng báu này, lại có
Các phan lụa đẹp cùng rủ xuống: các phan lụa đẹp, rất nhiều loại lụa, lụa chính là một loại vật thuộc tơ lụa rất danh quý, mặc vào rất ấm. Phan là dùng lụa để làm thành phan, treo hai bên điện Phật của chúng ta, đó gọi là phan. Cùng rủ xuống tức là từ trên lọng báu này lòng thòng xuống để làm trang nghiêm lọng báu.
Chuông báu ma-ni diễn Phật âm: lọng báu này thật trang nghiêm đẹp đẽ, còn có chuông báu ma-ni. Chuông báu chính là chuông gió, có tay cầm làm bằng gỗ, giống như cái linh ở trường thường rung mỗi khi vào lớp, linh đó gọi là chuông. Diễn Phật âm tức là trong cái chuông báu ma-ni có thể diễn nói Phật pháp, âm thanh này giống như âm thanh của Phật.
Đem đến cúng dường chư Như Lai: Bồ-tát dùng loại diệu cụ trang nghiêm này để cúng dường tất cả chư Phật Như Lai.
4.4.3 TỔNG KẾT CHUNG
Tay tuôn vật cúng khó nghĩ bàn
Như vậy cúng dường khắp Đạo Sư
Tất cả chỗ Phật đều như thế
Sức thần thông tam-muội đại sĩ.
Thủ xuất cúng cụ nan tư nghị
Như thị cúng dường nhất đạo sư
Nhất thiết Phật sở giai như thị
Đại sĩ tam-muội thần thông lực.
Tay tuôn vật cúng khó nghĩ bàn: tay Bồ-tát tuôn ra hoặc là hương, hoa, y phục, ngọc, đủ loại châu báu quý giá này, và tràng, đều gọi là vật cúng. Đây là một cảnh giới bất khả tư nghì.
Như vậy cúng dường khắp Đạo Sư: giống như vật cúng trang nghiêm đã nói ở trên, cúng dường tất cả chư Phật, tất cả Đạo Sư, Đạo Sư cũng chính là Phật.
Tất cả chỗ Phật đều như thế: tất cả cõi nước chư Phật, đạo tràng chư Phật ở tất cả mười phương thế giới đều là như thế để trang nghiêm cúng dường.
Sức thần thông tam-muội đại sĩ: đây chính là một đại nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền, sức thần thông tam-muội đã tu đạt được, mới có thể có cảnh giới bất khả tư nghì như thế.
4.5. HIỆN CÁC PHÁP MÔN TAM-MUỘI
4.5.1.NÊU CHUNG NHIỀU MÔN
Bồ-tát trụ trong môn tam-muội
Các loại tự tại nhiếp chúng sinh
Đem hết pháp công đức tu hành
Vô lượng phương tiện để dẫn dụ.
Bồ-tát trụ tại tam-muội trung
Chủng chủng tự tại nhiếp chúng sinh
Tất dĩ sở hành công đức pháp
Vô lượng phương tiện nhi khai dụ.
Bồ-tát trụ trong môn tam-muội: đây là nói Bồ-tát Phổ Hiền trụ trong tam-muội Phổ Hiền Vương, tức là nhập định này.
Các loại tự tại nhiếp chúng sinh: Ngài dùng đủ loại thần thông tự tại để nhiếp thụ tất cả chúng sinh trong mười phương.
Đem hết pháp công đức tu hành: Ngài đem hết nguyện vương của Bồ-tát Phổ Hiền tu hành và diệu pháp công đức này,
Vô lượng phương tiện để dẫn dụ: dùng vô lượng pháp môn phương tiện như thế để dẫn dụ chúng sinh, khiến tất cả chúng sinh đều phát tâm Bồ-đề.
4.5.2 NÊU RÕ HAI MƯƠI MÔN
Hoặc dùng môn cúng dường Như Lai
Hoặc dùng môn bố thí khó nghĩ
Hoặc dùng môn trì giới đầu đà
Hoặc dùng môn nhẫn nhục bất động.
Hoặc dĩ cúng dường Như Lai môn
Hoặc dĩ nan tư bố thí môn
Hoặc dĩ đầu đà trì giới môn
Hoặc dĩ bất động kham nhẫn môn.
Hoặc dùng môn cúng dường Như Lai: dùng đủ phương pháp để dẫn dụ chúng sinh, hóa độ chúng sinh. Chúng sinh nào thích hợp với môn rộng tu cúng dường các đức Như Lai, thì Bồ-tát nói pháp môn rộng tu cúng dường tất cả chư Phật ba đời trong mười phương, khiến chúng sinh đó tu hành.
Hoặc dùng môn bố thí khó nghĩ: hoặc dùng pháp môn bố thí bất khả tư nghì, khó bỏ mà bỏ được, khó làm mà làm được này để giáo hóa chúng sinh, khiến những chúng sinh xan tham đều phát tâm bố thí.
Hoặc dùng môn trì giới đầu đà: hoặc có chúng sinh nào thường hay phạm giới, thì Bồ-tát sẽ nói pháp môn mười hai hạnh đầu đà cho họ nghe, khiến họ trì giới tu hành, không còn hủy phạm.
Hoặc dùng môn nhẫn nhục bất động: hoặc có chúng sinh nào không nhẫn nhục được và thường nổi giận thì Bồ-tát nói môn nhẫn nhục bất động cho họ nghe, bất động chính là không nổi giận, không có lửa vô minh. Chuyện gì không nhẫn được cũng phải nhẫn, mới gọi là nhẫn nhục; chuyện gì không chịu được cũng phải chịu, mới gọi là nhẫn nhục. Chuyện gì nhẫn không được cũng phải nhẫn, chuyện gì chịu không được cũng phải chịu. Ví dụ như quý vị tu đạo, mà tự nhiên có người nào đó đến mắng chửi thì quý vị cũng phải nhẫn, nhẫn không được cũng phải nhẫn; chuyện mắng chửi này vẫn không đáng kể. Nếu có người nào đánh quý vị thì quý vị cũng phải nhẫn, không nên đấu tranh với người.
Người đánh hoặc chửi quý vị kia, biết đâu chính là chư Phật, Bồ-tát đến thử nghiệm, xem quý vị có nhẫn được không, có động tâm không? Đây cũng là một cảnh giới, cũng gọi là đối diện quan, tức là cửa ải ở trước mặt. Quý vị vượt qua được cửa này thì sẽ có được sự lợi ích; bằng không thì chẳng được gì cả. Cho nên, Bồ-tát dùng môn nhẫn nhục bất động để nhẫn chịu; điều gì xưa nay nhẫn không được cũng phải nhẫn, dùng pháp môn này để giáo hóa chúng sinh, khiến chúng sinh không có sân giận, không có nổi nóng.
Hoặc dùng môn khổ hạnh tinh tấn
Hoặc dùng môn thiền định tịch tịnh
Hoặc dùng môn trí tuệ quyết đoán
Hoặc dùng môn phương tiện tu hành.
Hoặc dĩ khổ hạnh tinh tấn môn
Hoặc dĩ tịch tĩnh thiền định môn
Hoặc dĩ quyết liễu trí năng môn
Hoặc dĩ sở hành phương tiện môn.
Hoặc dùng môn khổ hạnh tinh tấn: thiền thất mà hiện tại chúng ta đang đả đây chính là môn khổ hạnh tinh tấn. Quý vị xem, hai giờ rưỡi sáng thì chúng ta đã dậy, suốt ngày chỉ bào hương, tọa hương. Bào hương (lúc chạy) là vận động thân, tọa hương là vận động tâm; vận động thân cũng là điều phục thân, vận động tâm cũng là điều phục tâm, ngồi đó để hàng phục tâm mình là phương pháp tu hành tốt nhất.
Đả thiền thất là mọi người mới chỉ lập cho mình một nền tảng, có nền tảng rồi thì sau này dù ở đâu, lúc nào quý vị cũng có thể đả tọa tham thiền. Quý vị nếu có thể ngồi một giờ đồng hồ thì ngồi một giờ đồng hồ; có thể ngồi hai giờ đồng hồ thì ngồi hai giờ đồng hồ; có thể ngồi ba giờ đồng hồ thì ngồi ba giờ đồng hồ; có thể ngồi suốt ngày thì càng tốt! Không luận quý vị là ai, xuất gia hay tại gia, nếu có thể mỗi ngày không ngủ, ngồi suốt ở đây, hoặc là ban đêm ngủ chừng vài giờ đồng hồ, còn ban ngày thì thường xuyên tọa thiền, ai làm được như vậy thì cứ đến chùa Kim Sơn, ở đây sẽ giúp quý vị ăn, ở, sinh hoạt mà không cần phải tốn phí. Nói chung, chùa Kim Sơn sẽ hoan nghênh đón tiếp những ai có khả năng này. Nếu ai muốn đả tọa tham thiền tại nhà thì cũng được. Đây gọi là môn khổ hạnh tinh tấn; hành môn khổ hạnh tinh tấn này rất cực khổ, chân cũng đau, lưng cũng đau, ngủ cũng không đầy đủ. Cho nên làm cho cái hạnh đầu đà ngủ ngồi cũng muốn nằm xuống ngủ một giấc.
Môn khổ hạnh tinh tấn này thật không dễ vượt qua, không dễ tiến bước, nhưng không dễ tiến cũng phải tiến, không thể vượt qua cửa ải này cũng phải vượt qua, cho nên phải siêng tu môn khổ hạnh tinh tấn. Tinh tấn thì thân tinh tấn, tâm cũng tinh tấn, thân tinh tấn chính là siêng tu giới, định, tuệ; tâm tinh tấn chính là đoạn diệt tham, sân, si.
Năm ngoái đả thất, có người đả thiền thất, có người lại đả biểu thất. Sao gọi là đả biểu thất? Là ngồi đó mà cứ xem đồng hồ, thỉnh thoảng lại xem đồng hồ, thỉnh thoảng lại xem đồng hồ, ngồi một giờ đồng hồ mà anh ta xem đồng hồ cả trăm lần. Quý vị thấy, như vậy thì làm sao đả thất được! Cho nên lúc đó tôi khai thị rằng: “Sang năm đả thất, không cho ai được phép đeo đồng hồ, nếu ai đeo đồng hồ thì không được tham gia thiền thất”. Người này hiện tại cũng đang ở Mỹ, là một người xuất gia trẻ tuổi, anh ta chịu khổ không được, nhưng vẫn muốn gắng lì một phen.
Ở đây, anh ta chịu không nổi, bị tôi vừa nói như thế thì liền đỏ mặt tía tai, nên sau đó cũng ngại đến.
Thế nên, năm nay chúng ta đả thất, tôi không đi quan sát nữa, quý vị muốn xem đồng hồ suốt ngày cũng được, tôi cũng không quan tâm. Nhưng tôi tin rằng năm nay sẽ không có người nào xem đồng hồ. Điều này không phải dễ. Quý vị xem! Nói tu hành tu hành vậy chứ, nếu thật sự bị khảo nghiệm một chút thì đã không chịu nổi. Quý vị phải khắc cốt ghi tâm mấy câu tôi nói đây:
Tất cả là khảo nghiệm
Xem anh làm thế nào
Đối cảnh nếu không biết
Lại cần luyện từ đầu.
Nhất thiết thị khảo nghiệm
Khán nhĩ chẩm ma bạn
Đối cảnh nhược bất thức
Tu tái tùng đầu luyện
Đây là nói về phương pháp tọa thiền.
Thiền thất năm nay, người đến dự tuy không nhiều lắm, nhưng đều rất tinh tấn, mỗi người đều tự mình quản thúc mình, không giải đãi, lười biếng và nói nhiều giống như lúc trước. Nhất là Quả… (pháp danh người đệ tử) nào đó, năm ngoái đả thất đến cuối cùng, đã khai mở một chút tiểu ngộ; đả thất năm nay có lẽ đã khai mở một chút đại ngộ. Về sau, có lẽ sẽ ngộ ra: “A! Té ra mẹ mình là người nữ”, cho nên cái ngộ đã khai này cũng khá lắm!
Hoặc dùng môn thiền định tịch tịnh: tịch tịnh chính là thiền định, giống như hiện tại chúng ta đả thiền thất là môn khổ hạnh tinh tấn, cũng là môn thiền định tịch tịnh. Vì đả thất rất vất vả, không có ai giải đãi, đều rất tinh tấn, đây gọi là môn khổ hạnh tinh tấn. Tịch tịnh, tịch là tịch nhiên bất động; tịnh là thanh tịnh, rất thanh tịnh. Ngồi xuống thì “Chân không vô nhân ngã, đại đạo vô hình tướng”. Không nhân, không ngã, không chúng sinh, không thọ giả, tâm cũng không, pháp cũng không.
Tâm không thì không có ngã chấp; pháp không thì không có pháp chấp, không có tất cả chấp trước chính là tịch tịnh môn. Thiền là chữ đầu của hai chữ phiên âm tiếng Phạn – Thiền-na (dhyana); định là tam-muội (samadhi). Thiền tức thiền-na, dịch là tư duy tu, nghĩa là tư duy rồi tu hành; còn gọi là tĩnh lự, tức là dẹp đi vọng tưởng tạp niệm, không có tư lự (suy tư, nghĩ ngợi), tất cả tất cả đều không có. Quý vị có thể tĩnh lự thì trong tâm thanh tịnh; tâm thanh giống như trong nước hiện trăng sáng; ý đã định thì giống như trên trời không có mây. Đây là nói về môn thiền định.
Hoặc dùng môn trí tuệ quyết đoán: việc gì quý vị còn ngờ vực thì gọi là nhân nhu quả đoán, tức là rất nhút nhát. Quả đoán, quả là thiếu, đoán là quyết đoán; không có tâm quyết đoán, không thể phán đoán sự việc, thì gọi là quả đoán. Quý vị không thể quyết đoán chính là nhân nhu quả đoán. Gặp việc thì quý vị nhận định không rõ ràng, nghĩ muốn làm thế này thì lại không biết có tốt không, nghĩ muốn làm thế kia thì cũng không biết có tốt không, do dự hoài nghi, không thể quyết định. Quyết đoán chính là không có do dự, không có hoài nghi, không có ngờ vực thiếu tự tin.
Đừng giống như con hồ ly, lúc nào cũng hoài nghi. Hồ ly qua sông đi trên băng, bước một bước thì phải nghe ngóng một chút, nghe thử băng có tiếng động không, nếu băng có tiếng vang thì nó biết khối băng này đã mỏng, không nên đi tiếp; nếu đi nữa, ắt sẽ rơi xuống sông. Nó cẩn thận như thế, do cẩn thận như thế mà nó sinh ra hoài nghi; một khi đã hoài nghi, thì không biết nên làm thế nào mới phải. Đây gọi là do dự không quyết.
Thế nào là quyết đoán? Quyết đoán chính là có trí tuệ, có trí tuệ mới có thể quyết đoán, không có trí tuệ thì không thể quyết đoán. Quyết đoán chính là không hoài nghi, có trí tuệ, không ngu si, gặp việc thì quyết đoán được ngay, việc này nên làm thế nào, sau đó liền quyết định: “Tôi nhất định phải làm như thế!”. Đây gọi là môn trí tuệ quyết đoán.
Hoặc dùng môn phương tiện tu hành: hoặc là dùng các môn phương tiện do chính mình đã tu hành để giáo hóa chúng sinh.
Hoặc dùng môn phạm trụ thần thông
Hoặc dùng môn tứ nhiếp lợi ích
Hoặc dùng môn phước trí trang nghiêm
Hoặc dùng môn nhân duyên giải thoát.
Hoặc dĩ phạm trụ thần thông môn
Hoặc dĩ tứ nhiếp lợi ích môn
Hoặc dĩ phúc trí trang nghiêm môn
Hoặc dĩ nhân duyên giải thoát môn.
Hoặc dùng môn phạm trụ thần thông: phạm chính là thanh tịnh, thanh tịnh trụ; tu hạnh thanh tịnh, không có pháp nhiễm ô để mà đạt được một loại thần thông. Thần thông là do quý vị tu hạnh thanh tịnh mà đạt được, dùng pháp môn này để giáo hóa chúng sinh.
Hoặc dùng môn tứ nhiếp lợi ích: hoặc là dùng tứ nhiếp pháp.
1- Bố thí: Bồ-tát gặp chúng sinh nào xan tham thì dùng pháp môn phương tiện bố thí để giáo hóa.
2- Ái ngữ: Bồ-tát dùng những lời nào chúng sinh ưa thích nghe để nói cho họ nghe, khiến họ có cảm tình tốt, sau đó họ sẽ đột nhiên phát tâm Bồ-đề.
3- Lợi hành: chính là làm lợi ích cho người khác, hễ việc gì có lợi ích cho người khác thì Bồ-tát làm. Bồ-tát thỉnh thoảng cũng có nói dối, nhưng Bồ-tát nói dối là vì lợi ích cho chúng sinh; còn chúng sinh nói dối là vì lợi ích cho riêng mình. Cho nên ngay điểm này thì cũng đã có bấy nhiêu sự bất đồng, một đằng là vì lợi ích chúng sinh mà dùng pháp môn phương tiện; một đằng là vì lợi ích cá nhân mà nói dối để lừa gạt người. Tuy cùng nói dối nhưng giữa Bồ-tát và chúng sinh có sự khác biệt.
Không chỉ Bồ-tát nói dối, mà Phật cũng đã từng nắm tay không để độ đứa bé. Có đứa bé nọ sắp rơi xuống giếng, Phật thấy vậy liền nói: “Con nhanh chạy lại đây, trong tay ta có kẹo nè, ta cho con kẹo!”. Đứa nhỏ này vốn thích ăn kẹo, giống như bé Quả Phương, nếu quý vị có kẹo, thì quý vị bảo bé làm gì cũng được, cúi đầu cũng được, đảnh lễ cũng được, chắp tay chào hỏi thì càng không thành vấn đề. Phật nói trong tay có kẹo, gọi đứa nhỏ này chạy mau đến để nó không bị rơi xuống giếng.
Thực tế, lúc đó trong tay Ngài không có kẹo; không có kẹo, nhưng Ngài cũng không gạt đứa nhỏ này, vì sau đó Ngài liền tìm một viên kẹo cho nó. Thế là sinh mạng của đứa nhỏ này được cứu thoát. Chúng ta vọng ngữ không phải vì người, mà là vì chính mình; Phật và Bồ-tát vì độ chúng sinh mà phương tiện vọng ngữ để nhiếp thụ chúng sinh.
4- Đồng sự: chính là phải làm đồng loại với chúng sinh, Bồ-tát vì độ tất cả chúng sinh mà phát nguyện vào trong sáu đường luân hồi để tiếp cận với chúng sinh, đồng hình dạng, đồng giống loài với chúng sinh. Bồ-tát đã thị hiện đủ các pháp môn phương tiện, khiến chúng sinh phát tâm Bồ-đề.
Hoặc dùng môn phước trí trang nghiêm: quý vị phải tu phước và tu tuệ, nếu quý vị “Tu phước không tu tuệ, thân voi đeo anh lạc; tu tuệ không tu phước, La-hán ứng cúng ít”. Nếu quý vị chỉ biết tu trí tuệ mà không tu phước báo, thì dù chứng quả A-la-hán, đi khất thực hóa duyên cũng không có người cúng dường cho quý vị. Nếu quý vị chỉ tu phước mà không tu trí tuệ, thì giống như con voi to lớn, thân đeo anh lạc trang nghiêm xinh đẹp, nhưng không có lợi ích gì cả, vì không có trí tuệ, không thể dùng được. Phước tuệ phải song nghiêm, phước cũng trang nghiêm, tuệ cũng trang nghiêm, phước tuệ nhị nghiêm. Đây gọi là phước tuệ nhị nghiêm thân, hoặc là dùng phước để trang nghiêm thân, hoặc là dùng trí để trang nghiêm thân. Quý vị dùng pháp môn phương tiện này để giáo hóa chúng sinh.
Hoặc dùng môn nhân duyên giải thoát: hoặc là quán sát tất cả nhân duyên, xem nên dùng phương pháp nào, nhân duyên nào để độ chúng sinh nào, thì dùng pháp môn đó để giáo hóa chúng sinh đó, khiến họ nhờ sự liên hệ thành thục của nhân duyên này mà được giải thoát, thì dùng pháp môn phương tiện này để giáo hóa chúng sinh.
Hoặc dùng môn căn, lực, chánh đạo
Hoặc dùng môn Thanh văn giải thoát
Hoặc dùng môn Độc giác thanh tịnh
Hoặc dùng môn Đại thừa tự tại.
Hoặc dĩ căn, lực, chánh đạo môn
Hoặc dĩ Thanh văn giải thoát môn
Hoặc dĩ Độc giác thanh tịnh môn
Hoặc dĩ Đại thừa tự tại môn.
Hoặc dùng môn căn, lực, chánh đạo: hoặc dùng Năm Căn, Năm Lực; Hoặc Dùng Bốn Chánh Cần, Bốn Niệm Xứ, Bốn Như Ý Túc; hoặc dùng Bảy Bồ-Đề, Tám Chánh Đạo, đây là Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo.
Hoặc dùng môn Thanh văn giải thoát: hoặc dùng pháp Bốn Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo để giáo hóa Thanh văn, khiến Thanh văn đạt được giải thoát, dùng pháp môn phương tiện này để giáo hóa.
Hoặc dùng môn Độc giác thanh tịnh: hoặc dùng pháp Mười Hai Nhân Duyên giáo hóa A-la-hán của Duyên giác, giáo hóa Bích-chi-phật của Duyên giác, khiến họ đạt được pháp môn này, tu hạnh thanh tịnh, nhờ pháp môn này mà ngộ đạo.
Hoặc dùng môn Đại thừa tự tại: hoặc dùng pháp Đại thừa giáo hóa Bồ-tát, dùng pháp môn phương tiện được Phật hộ niệm này khiến Bồ-tát căn tánh Đại thừa đạt được tự tại, nhập pháp môn phương tiện này.
卍 卍 卍
Mười giờ tối nay thì thiền thất này giải, giải thất này rồi, lại tiếp tục mở thất khác. Chúng ta lấy khai ngộ làm kỳ hẹn, nên lúc nào chưa khai ngộ thì lúc đó còn phải đả thất; lúc nào khai ngộ rồi thì càng phải đả thất nhiều hơn, vì vậy mà thất của chúng ta không có lúc hoàn mãn. Quý vị đừng sợ, khi nào quý vị khai ngộ rồi, thì mới thấy điều tôi nói đây là quan trọng.
Hoặc dùng môn vô thường các khổ
Hoặc dùng môn vô ngã, vô thọ
Hoặc dùng môn bất tịnh, ly dục
Hoặc dùng môn diệt tận tam-muội.
Hoặc dĩ vô thường chúng khổ môn
Hoặc dĩ vô ngã thọ giả môn
Hoặc dĩ bất tịnh ly dục môn
Hoặc dĩ diệt tận tam-muội môn.
Hoặc dùng môn vô thường các khổ: tất cả vạn vật trên thế gian này đều vô thường, khổ, không, vô ngã, cho nên gọi là khổ, không, vô thường, vô ngã. Vô thường tức là tất cả đều biến hóa không dừng, không một vật nào tồn tại vĩnh hằng, vì vậy cho nên gọi là khổ. Khổ có ba loại, tám loại và vô lượng nỗi khổ khác.
I. Ba khổ: khổ khổ, hoại khổ, hành khổ.
1. Khổ khổ: là khổ trong khổ, khổ trên khổ, giống như chúng ta không có quần áo mặc là khổ, không có cơm ăn cũng là khổ, không có nhà ở cũng là khổ. Có quần áo mặc mà không có cơm ăn; có cơm ăn, có quần áo mặc nhưng không có nhà ở đều là khổ khổ. Thậm chí cả quần áo, cơm ăn, nhà ở đều không có, đây là khổ chồng thêm khổ. Khổ khổ tức là khốn khổ bần cùng, giống như những người nghèo thiếu, quần áo thì rách rưới, thức ăn thì chỉ là đồ thừa cặn, chỗ ở thì dột nát, mỗi ngày phải đi ăn xin để sống, đây là khổ khổ! Nếu gặp cuồng phong bão tố thì cái chòi ọp ẹp cũng bị tốc đi, bàn ghế trong nhà đều tan hoang, lúc này là khổ chồng thêm khổ.
Hoại khổ: Hoại khổ này thường chỉ cho người giàu có, không phải nghèo cùng khốn khổ, nhưng sự giàu sang kia không tồn tại mãi, hoặc là bị lửa cháy, hoặc bị giặc cướp cướp đoạt, hoặc có các phát sinh ngoài ý muốn, làm cho sự giàu sang này trở nên nghèo hoại đi. Như vậy, có người nói: “Bần cùng thì bị khổ khổ, giàu sang thì bị hoại khổ, tôi không nghèo, không giàu, nên không có khổ khổ, cũng không có hoại khổ.” Nhưng quý vị có hành khổ.
Hành khổ: chính là từ nhỏ đến lớn, từ lớn đến già, từ già đến chết, mỗi niệm trôi qua, niệm niệm không dừng, giống như con sóng, không thể dừng lại trong một đời này. Đây gọi là hành khổ. Quý vị không có bần cùng khổ khổ, cũng không có giàu sang hoại khổ, nhưng từ khi quý vị sanh đến khi chết có một chuỗi hành khổ, hành khổ này không ai tránh khỏi. Đây là nói về ba khổ.
II. Tám khổ: khổ sinh, khổ già, khổ bệnh, khổ chết, khổ thương nhau mà xa lìa, khổ ghét nhau mà lại gặp mặt, khổ mong cầu mà không toại ý, khổ vì năm ấm xí thạnh. Khi sanh đã rất khó chịu, khổ như rùa sống thoát xác, cho nên hài nhi vừa sinh ra, nó không nói gì khác ngoài: “Khổ a, khổ a, khổ a! Đến cái thế giới khổ này, thật khổ a, thật khổ a!”. Nó cứ kêu khổ, kêu khổ không ngớt. Và con người đến khi chết cũng không thoải mái. Lúc đến rất đau khổ, lúc đi cũng rất khổ đau, giống như cái gì? Giống như trâu sống bị lột da, trâu đang sống mà đem đi lột da, quý vị nói có đau đớn không? Cho nên đây cũng là khổ không thể nói.
Có người nói: “Thế, không có cái khổ nào khác ư?”. Còn có khổ già! Con người ta lúc trẻ thì không cảm thấy có vấn đề gì cả, nhưng đến lúc già thì mắt mờ, tai điếc, nghe không được, nó nói nó muốn nghỉ hưu. Mắt muốn nghỉ hưu, tai cũng muốn nghỉ hưu; cứng nhất là răng mà nó cũng muốn nghỉ hưu. Răng nói: “Tôi giúp anh đã nhiều năm rồi, bây giờ tôi muốn nghỉ hưu!”. Cho nên răng cũng rụng, nó cũng bỏ đi.
Răng rụng là hiện tượng già, đầu tóc cũng bạc. Hàn Dũ nói: “Nhi thị mang mang, nhi phát thương thương, nhi xỉ nha động diêu hĩ!”. Thị mang mang chính là nhìn không thấy rõ; phát thương thương chính là đầu tóc bạc trắng; nhi xỉ nha động diêu chính là răng cũng lung lay, âm thầm rụng hết. Như vậy bộ máy của thân thể này không còn làm việc nữa. Tay cũng run, quý vị cầm vật gì, vừa cầm lên thì tay run, cầm không được; chân cũng không nghe lời, quý vị muốn đi tới thì nó lại đi thụt lùi về phía sau. Nó nói: “Tôi muốn nghỉ ngơi, tôi muốn nghỉ ngơi”. Lúc này, bộ máy của toàn thân đều không muốn hoạt động. Đây là nỗi khổ già. Nhưng già thì cũng còn có thể gắng sức được, không sao, chỉ sợ bệnh. Bệnh này có người thì bệnh dạ dày, ăn thức ăn vô mà không cảm nhận được hương vị; có người thì bị các chứng bệnh khác. Đây là nỗi khổ bệnh. Tóm lại, sinh, già, bệnh, chết đều là khổ.
Lại có nỗi khổ thương nhau mà bị xa lìa. Quý vị càng muốn thương, mà người ta thì càng muốn xa lìa, quý vị nói đây có phải khổ không? Quý vị có một người bạn trai, người này thử thách quý vị rằng: “Em không phải là bạn gái tôi!”. Quý vị nói đây có khổ không? Đây là rất khổ, đêm ngủ không được, ngày ăn không ngon, khổ cực kỳ.
Khổ oán thù nhau mà gặp gỡ, tức là quý vị oán ghét ai đó, càng không muốn gặp họ thì lại càng gặp, càng va chạm.
Khổ mong cầu mà không được toại ý, tức là quý vị muốn cầu điều gì đó mà không được.
Khổ vì năm ấm xí thạnh, tức là năm ấm sắc, thụ, tưởng, hành, thức giống như lửa cháy hừng hực.
Ở đây chỉ nói giản lược, nếu nói chi tiết thì khổ này có rất nhiều.
Hoặc dùng môn vô ngã, vô thọ: trước dùng môn vô thường các khổ để giáo hóa chúng sinh, bây giờ lại dùng môn vô ngã này để giáo hóa, nói: “Quý vị đừng bị cái ngã làm cho chấp trước, cái ngã này là đãy da hôi! Quý vị giúp đỡ nó, đến lúc nào đó nó không cần quý vị, thì nó tự bỏ đi”. Vậy thì rốt cuộc môn vô ngã, vô thọ nghĩa là đã không có ngã, thì làm sao có thọ. Bồ-tát dùng pháp môn phương tiện không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có tướng chúng sinh, không có tướng thọ giả này để giáo hóa chúng sinh.
Hoặc dùng môn bất tịnh, ly dục: Bồ-tát bảo mọi người rằng: “Quý vị đừng nhớ nghĩ đến dục, dục này không thanh tịnh, quý vị nên bỏ dục đoạn ái. Quý vị muốn lìa khổ được vui, thì phải bỏ dục đoạn ái, chớ khởi pháp nhiễm ô này. Nếu quý vị cứ sống với pháp nhiễm ô này, thì không thể thoát khỏi ba cõi”. Cho nên Bồ-tát phải tu pháp quán bất tịnh, quán chín lỗ (hai mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi, miệng, đường đại tiện, đường tiểu tiện) thường chảy ra chất bất tịnh; mắt có ghèn, tai có ráy, mũi có nước mũi, miệng có nước miếng. Nếu mấy ngày mà quý vị không xúc miệng đánh răng thì mùi hôi trong miệng chẳng khác gì mùi hôi ở nhà xí. Không tin thì quý vị cứ thử xem, có gì khác biệt chăng? Đây thật là không thanh tịnh. Lại có chất đại tiện, tiểu tiện là thứ không sạch sẽ, chín lỗ này thường chảy ra chất bất tịnh. Bồ-tát phải tu pháp quán bất tịnh, dùng pháp môn phương tiện này để giáo hóa chúng sinh.
Hoặc dùng môn diệt tận tam-muội: hoặc dùng môn diệt tận tức là diệt tận định. Thế nào là diệt tận? Là không còn vọng tưởng, không còn tâm tham, không còn tâm sân, không còn tâm si, diệt tận tất cả bệnh tập khí. Đạt được định này thì quý vị rất dễ ra khỏi ba cõi, cho nên dùng pháp môn phương tiện diệt tận định này để giáo hóa chúng sinh. Bồ-tát dùng hai mươi môn (20) này để giáo hóa chúng sinh, môn nào cũng đều là pháp môn bất nhị.
4.5.3 TỔNG KẾT NHIỀU NGUYÊN NHÂN
Tùy bệnh chẳng đồng của chúng sinh
Đều dùng thuốc pháp để trị liệu
Tùy tâm ưa thích của chúng sinh
Đều dùng phương tiện khiến đầy đủ
Tùy nghiệp sai biệt của chúng sinh
Đều dùng thiện xảo khiến thành tựu.
Tùy chư chúng sinh bệnh bất đồng
Tất dĩ pháp dược nhi đối trị
Tùy chư chúng sinh tâm sở nhạo
Tất dĩ phương tiện nhi mãn túc
Tùy chư chúng sinh hành sai biệt
Tất dĩ thiện xảo nhi thành tựu.
Chúng sinh có tám vạn bốn ngàn chứng bệnh, nên Phật nói tám vạn bốn ngàn pháp môn. Cho nên nói Tùy bệnh chẳng đồng của chúng sinh: đôi khi một chúng sinh cũng có tám vạn bốn ngàn chứng bệnh; hoặc là có chúng sinh bệnh nhiều một chút, có chúng sinh bệnh ít một chút, nhiều chúng sinh cùng hợp lại nên thành ra tám vạn bốn ngàn chứng bệnh.
Đều dùng thuốc pháp để trị liệu: Phật dùng thuốc pháp này để điều trị tất cả bệnh khổ cho chúng sinh, tùy bệnh mà cho thuốc.
Tùy tâm ưa thích của chúng sinh: tùy sở thích của chúng sinh, chúng sinh thích gì, thì Ngài dùng pháp môn phương tiện đó để nói pháp cho họ nghe. Cho nên nói Đều dùng phương tiện khiến đầy đủ: dùng đủ các pháp môn phương tiện làm cho tất cả sở thích và điều mong cầu của chúng sinh được đầy đủ.
Trong mười đại nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền có một nguyện là “Hằng thuận chúng sinh”, hằng thuận chúng sinh cũng chính là tùy thuận chúng sinh; tùy thuận chúng sinh cũng chính là Tùy nghiệp sai biệt của chúng sinh: tùy thuận tất cả hành nghiệp bất đồng của chúng sinh. Chúng sinh có hành nghiệp khác nhau cho nên gọi là sai biệt.
Đều dùng thiện xảo khiến thành tựu: không luận hành vi tạo tác của chúng sinh thuộc loại hành nghiệp nào, chư Phật Bồ-tát cũng đều dùng thiện xảo; thiện xảo là tên khác của pháp môn phương tiện, thiện xảo chứ không phải ác xảo. Giáo hóa chúng sinh thì phải dùng phương tiện thiện xảo, chứ không phải áp bức chúng sinh. Cho nên, Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo này khiến tất cả chúng sinh thành tựu hành nghiệp.
4.5.4 TỔNG KẾT DỤNG KHÓ ĐO LƯỜNG
Những tướng tam-muội thần thông ấy
Tất cả trời người chẳng lường được.
Như thị tam-muội thần thông tướng
Nhất thiết thiên nhân mạc năng trắc.
Những tướng tam-muội thần thông ấy: giống như tướng của các tam-muội, các thần thông đã nói ở trước, Tất cả trời người chẳng lường được: đây là cảnh giới mà tất cả chư thiên, người trên cõi trời và người ở thế gian không thể suy đoán, không thể biết rõ.
4.6 TỨ NHIẾP NHIẾP SINH TAM-MUỘI MÔN
4.6.1 NÊU CHUNG TÊN VÀ DỤNG
Có diệu tam-muội tên Tùy lạc
Bồ-tát trụ đây, quán sát khắp
Tùy nghi thị hiện độ chúng sinh
Đều khiến vui lòng theo chánh pháp.
Hữu diệu tam-muội danh Tùy lạc
Bồ-tát trụ thử phổ quán sát
Tùy nghi thị hiện độ chúng sinh
Tất sử hoan tâm tùng pháp hóa.
Có diệu tam-muội tên Tùy lạc: lại có tam-muội tên là Tùy lạc. Diệu tam-muội Tùy lạc cũng chính là tam-muội làm cho tất cả chúng sinh vui, khiến chúng sinh đều hoan hỷ.
Bồ-tát trụ đây, quán sát khắp: đại Bồ-tát hành đạo Bồ-tát trụ ở tam-muội Tùy lạc, quán sát trùm khắp sở thích của tất cả chúng sinh. Cho nên nói Tùy nghi thị hiện độ chúng sinh: Bồ-tát có thể tùy căn cơ mà giáo hóa tất cả chúng sinh. Nghi nghĩa là nên, nên dùng nhân duyên gì độ được thì Bồ-tát dùng phương pháp đó để giáo hóa, đây gọi là tam-muội Tùy lạc. Chúng sinh nào hoan hỷ thì Bồ-tát dùng phương pháp này để giáo hóa. Đều khiến vui lòng theo chánh pháp: khiến chúng sinh sinh tâm hoan hỷ, ưa thích, y giáo tu hành theo giáo pháp của Phật.
4.6.2 NÊU CHI TIẾT
4.6.2.1 BỐ THÍ NHIẾP
Gặp kiếp đói khát, lúc tai nạn
Ban cho thế gian vật ưa thích
Tùy chỗ họ muốn đều khiến đủ
Vì khắp chúng sinh làm lợi ích.
Hoặc cho những vật uống ăn ngon
Y phục, tư trang, những vật tốt
Cả đến ngôi vua đều xả được
Khiến người ưa thí đều tùng hóa.
Kiếp trung cơ cận tai nạn thời
Tất dữ thế gian chư lạc cụ
Tùy kỳ sở dục giai linh mãn
Phổ vị chúng sinh tác nhiêu ích.
Hoặc dĩ ẩm thực thượng hảo vị
Bảo y nghiêm cụ chúng diệu vật
Nãi chí vương vị giai năng xả
Linh hiếu thí giả tất tùng hóa.
Gặp kiếp đói khát, lúc tai nạn: Bồ-tát trụ trong tam-muội Tùy lạc, gặp kiếp đói khát tức là không có cơm ăn, không có đồ vật sinh hoạt, đây gọi là kiếp đói khát. Lúc tai nạn tức là hoặc có họa sâu bệnh, họa gió bão, họa mưa đá, làm cho mất mùa không thâu hoạch được.
Ban cho thế gian vật ưa thích: lúc này, Bồ-tát sẽ hiển bày thần thông, ban cho chúng sinh những vật dụng ưa thích, Tùy chỗ họ muốn đều khiến đủ: tùy tâm chúng sinh ưa thích mà khiến họ được đầy đủ, tùy tâm mãn nguyện.
Vì khắp chúng sinh làm lợi ích: Làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến họ được an lạc.
Hoặc cho những vật uống ăn ngon: tất cả chúng sinh đều ưa thích ăn món ngon, nếu quý vị cho họ một chút vật gì ngon thì họ hoan hỷ; cho họ một bộ y phục đẹp thì họ cũng hoan hỷ; cho họ một ngôi nhà xinh thì họ cũng hoan hỷ. Cho nên ăn uống cũng là vấn đề rất quan trọng. Người Trung Hoa không có tài cán gì, chỉ có ăn là giỏi nhất, chuyên nghiên cứu việc chế biến thức ăn, làm thế nào điều hòa mùi vị của thức ăn, khiến người ăn rồi lại muốn ăn nữa, ăn nữa, ăn không biết chán. Hai ba ngàn năm về trước, người Trung Hoa đã chuyên nghiên cứu về món ăn, nghiên cứu đến bây giờ, vẫn còn biến đổi phương pháp, nghĩ cách chế biến thức ăn sao cho ngon nhất. Cho nên, nếu quý vị cho chúng sinh ăn, chúng sinh cũng hoan hỷ, thì ngay đó quý vị giảng một chút Phật pháp cho họ nghe, họ cũng rất hoan hỷ.
Y phục, tư trang, những vật tốt: y phục quý nhất là y báu giá trị nhất, thậm chí dùng kim cương, vàng ròng viền lên. Mặc bộ y phục này vào thì không cần đốt đèn, trong phòng cũng tỏa sáng. Cho nên dùng y phục, tư trang này để trang nghiêm thân, khiến thân cũng xinh đẹp. Những vật tốt tức là tất cả đồ vật có giá trị.
Cả đến ngôi vua đều xả được: làm hoàng đế, quốc vương, cái địa vị rất khó xả bỏ này đều có thể xả bỏ, đều có thể bố thí cho người khác.
Thuở xưa, ở Trung Hoa, có hai người ngu si như thế, một người gọi là Bá Di, một người gọi là Thúc Tề. Cha của họ là vua. Vua cha muốn trao vương vị cho người em thì người em nói: “Anh con lớn hơn, cha nên truyền ngôi cho anh ấy”. Người anh thì nói: “Con ngu si lắm, em con thông minh hơn, cha nên truyền ngôi cho em con!”. Hai người này cứ nhường qua nhường lại mãi, cuối cùng không ai chịu làm hoàng đế, nên vua cha đành truyền ngôi lại cho một người khác. Quý vị thấy hai người này có ngu si lắm không? Nhưng lịch sử lại cho rằng hai người họ là hiền nhân. Hai người họ có một điểm tốt, đó là “Bá Di, Thúc Tề không nhớ thù xưa” (Bá Di, Thúc Tề bất niệm cựu ác). Nếu ai đó trước kia đối xử không tốt với họ thì họ cũng không nhớ, không ghi.
Đến khi Vũ Vương phạt Trụ, hai người họ cưỡi ngựa đến nói với Vũ Vương: “Ngươi là một đại thần, không thể chinh phạt vua, không thể tác chiến với vua”. Vũ Vương không nghe, sau đó đánh bại Trụ Vương. Trụ Vương chết. Lúc này là triều đại nhà Ân, sau đổi quốc hiệu thành Châu. Hai người này về sau càng ngu si hơn, ngu đến mức độ nào? Họ nói: “Ngươi đã đổi quốc hiệu! Được! Từ nay bọn ta không ăn ngũ cốc của ngươi, bọn ta không ăn lương thực này”.
Thế là họ lên núi Thủ Dương hái rau dại ăn sinh sống. Sau đó, Chu Vũ Vương muốn dùng họ, bởi vì họ cũng có năng lực rất lớn, nhưng triệu thỉnh thế nào họ cũng không đến. Vũ Vương tức giận cho người phát bỏ hết rau dại, bỏ đói họ, tưởng làm thế thì hai người họ chắc chắn sẽ ra. Không ngờ họ chấp nhận chịu đói cho đến chết ở núi Thủ Dương. Trung Hoa có hai người này. Quý vị xem! Có phải họ quá ngu si không? Tuy vậy, nhưng người đời sau đều cho rằng hai người này là bậc thánh hiền. Đây là nói về việc xả bỏ vương vị.
Khiến người ưa thí đều tùng hóa: khiến chính là ảnh hưởng, ảnh hưởng tất cả những người ưa thích bố thí, đều tùng hóa tức là đều cùng hành bố thí với Bồ-tát.
Hoặc dùng tướng hảo trang nghiêm thân
Y phục thượng diệu, chuỗi ngọc báu
Tràng hoa nghiêm sức, hương thoa thân
Uy nghi đầy đủ độ chúng sinh.
Điều cả thế gian cùng ưa chuộng
Sắc tướng, dung nhan và y phục
Tùy nghi hiện khắp, vui lòng họ
Khiến kẻ ưa sắc theo chánh Đạo.
Hoặc dĩ tướng hảo trang nghiêm thân
Thượng diệu y phục bảo anh lạc
hoa man vi sức hương trà thể
Uy nghi cụ túc độ chúng sinh.
Nhất thiết thế gian sở hiếu thượng
Sắc tướng nhan dung cập y phục
Tùy ứng phổ hiện khiếp kỳ tâm
Tỷ nhạo sắc giả giai tùng Đạo.
Hoặc dùng tướng hảo trang nghiêm thân: hoặc là dùng tướng hảo này trang nghiêm thân,
Y phục thượng diệu, chuỗi ngọc báu: hoặc dùng y phục quý giá nhất, hoặc dùng chuỗi ngọc báu.
Tràng hoa nghiêm sức, hương thoa thân: hoặc đeo tràng hoa thơm, hoặc dùng hương để thoa chà trên thân,
Uy nghi đầy đủ độ chúng sinh: vì sao Bồ-tát phải làm như thế? Không phải Bồ-tát này thích đeo những vật trang sức, mà là muốn đầy đủ uy nghi để độ chúng sinh, giáo hóa chúng sinh.
Nếu quý vị có hình dạng xấu xí, tướng mạo thật dễ sợ giống như Bồ-đề Đạt Ma. Bồ-đề Đạt Ma trước kia vốn là một chàng trai tuấn tú, nhưng vì ngài quá sợ nữ nhân Trung Hoa, cho nên đã biến thành một người có hình dạng rất xấu xí để đến Trung Hoa. Quý vị xem, mắt của Ngài thì tròn tròn, râu ria dài rậm, hình dạng thật dễ sợ. Vì Bồ-đề Đạt Ma không muốn độ nhiều chúng sinh, cho nên chỉ độ một mình Nhị Tổ Thần Quang là đủ.
Điều cả thế gian cùng ưa chuộng: điều mà tất cả thế gian này đều hoan hỷ, ưa chuộng đó là Sắc tướng, dung nhan và y phục: hoặc là sắc tướng, tướng mạo đầy đặn, nhan sắc cũng rất xinh đẹp, y phục cũng rất xinh đẹp.
Tùy nghi hiện khắp, vui lòng họ: tùy tâm chúng sinh mà ứng hiện rộng khắp đến mọi nơi, khiến chúng sinh đều hoan hỷ, hài lòng.
Khiến kẻ ưa sắc theo chánh Đạo: như vậy mới có thể khiến cho những chúng sinh tham đắm sắc tướng, ưa thích sắc tướng phát tâm Bồ-đề, tu đạo vô thượng.
4.6.2.2 ÁI NGỮ NHIẾP
Tiếng ca-lăng-tần-già mỹ diệu
Âm thanh diệu câu-chỉ-la thảy
Các loại phạm âm đều đầy đủ
Tùy lòng họ thích vì thuyết pháp.
Ca-lăng-tần-già mỹ diệu âm
Câu-chỉ-la đẳng diệu âm thanh
Chủng chủng phạm âm giai cụ túc
Tùy kỳ tâm nhạo vị thuyết pháp.
Tiếng Ca-lăng-tần-già mỹ diệu: Ca-lăng-tần-già là tên một loài chim, âm thanh của nó rất hay, chim này còn gọi là chim hảo thanh. Vì âm thanh của nó hay hơn bất kỳ âm thanh nào, cho nên gọi âm thanh này là tiên âm. Ca-lăng-tần-già tiên âm tức là âm thanh của loài chim này được xem như âm thanh thần tiên.
Âm thanh diệu Câu-chỉ-la thảy: Câu-chỉ-la là Phạn ngữ, dịch là chúng thanh, các âm hòa hợp, có rất nhiều âm thanh khác nhau cùng hòa hợp, cho nên âm thanh này cũng rất hay.
Các loại phạm âm đều đầy đủ: không chỉ có âm thanh của chim Ca-lăng-tần-già này, mà còn có âm thanh của các âm hòa hợp, còn có các phạm âm, tức là âm thanh thanh tịnh. Các diệu âm này đều đầy đủ viên mãn.
Tùy lòng họ thích vì thuyết pháp: Bồ-tát dùng các diệu âm này, tùy tâm chúng sinh ưa thích âm thanh gì, thì dùng âm thanh đó nói pháp cho họ nghe, khiến chúng sinh nào nghe được âm thanh này liền phát tâm Bồ-đề; nếu được nghe pháp thì càng phát tâm Bồ-đề hơn. Cho nên mười phương chư Phật Bồ-tát dùng diệu âm này tùy tâm chúng sinh ưa thích mà thuyết pháp.
Tám vạn bốn ngàn các pháp môn
Chư Phật dùng đây độ chúng sinh
Kia cũng thuận theo pháp sai biệt
Tùy thế sở nghi mà hóa độ.
Bát vạn tứ thiên chư pháp môn
Chư Phật dĩ thử độ chúng sinh
Bỉ diệc như kỳ sai biệt pháp
Tùy thế sở nghi nhi hóa độ.
Tám vạn bốn ngàn các pháp môn: Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, nhưng pháp môn nào cũng là pháp môn đệ nhất, không phải pháp môn đệ nhị, cho nên tám vạn bốn ngàn pháp môn thì có tám vạn bốn ngàn pháp môn đệ nhất. Sở dĩ gọi đệ nhất là bởi vì phù hợp với căn cơ của chúng sinh. Phù hợp với căn cơ của chúng sinh thì là đệ nhất. Nếu không phù hợp với căn cơ của chúng sinh này thì phù hợp với căn cơ của chúng sinh khác, hễ phù hợp với căn cơ của một chúng sinh nào, thì đó chính là pháp môn đệ nhất.
Chúng sinh có vô lượng vô biên, pháp Phật đã thuyết cũng vô lượng vô biên, tám vạn bốn ngàn pháp môn đã nói đây chỉ là nói một cách tổng quát. Nếu phân tích kỹ ra, thì pháp môn có vô lượng vô biên, con số chẳng qua chỉ để đại khái như thế, cho nên gọi là các pháp môn. Sở dĩ gọi là các pháp môn là vì một pháp môn cũng gọi là các, tất cả pháp môn cũng gọi là các.
Chư Phật dùng đây độ chúng sinh: một đức Phật cũng gọi là chư Phật, mà tất cả chư Phật ba đời ở mười phương cùng tụ hội đến cũng gọi là chư Phật, cho nên chư Phật này chính là Phật Phật, tất cả Phật. Chư Phật dùng tám vạn bốn ngàn pháp môn để độ thoát tất cả chúng sinh, khiến tất cả chúng sinh đều phát tâm Bồ-đề, thành tựu Phật quả.
Kia cũng thuận theo pháp sai biệt: kia chính là tất cả chư Phật cũng tùy thuận chúng sinh, nói pháp môn bất đồng cho chúng sinh nghe, để giáo hóa chúng sinh bất đồng.
Tùy thế sở nghi mà hóa độ: tùy thế là tùy thuận pháp thế gian, sở nghi là phương pháp tốt nhất. Phương pháp nào lợi ích thích hợp, nên dùng để độ chúng sinh thì Phật nói pháp môn đó để độ tất cả chúng sinh. Tức là nên dùng pháp nào độ được thì Phật sẽ nói pháp đó cho chúng sinh nghe, khiến chúng sinh phát tâm Bồ-đề, thành tựu Phật quả.
4.6.2.3 ĐỒNG SỰ NHIẾP
Chúng sinh khổ, lạc, lợi, suy thảy
Những việc tạo tác của thế gian
Đều hay ứng hiện đồng kỳ sự
Dùng đây độ khắp các chúng sinh.
Chúng sinh khổ lạc lợi suy đẳng
Nhất thiết thế gian sở tác pháp
Tất năng ứng hiện đồng kỳ sự
Dĩ thử phổ độ chư chúng sinh.
Ở trên đã nói về bố thí, ái ngữ, bây giờ nói về đồng sự, đây là nói về tứ nhiếp pháp.
Chúng sinh khổ, lạc, lợi, suy thảy: khổ, lạc, lợi, suy là thuộc bát phong; bát phong gồm: xưng, cơ, khổ, lạc, lợi, suy, đắc, thất.
Xưng tức xưng tán, là khen quý vị tốt, dùng đủ thứ ngôn từ để khen ngợi quý vị: “Ồ! Ngài thật là một bậc đại tu hành, ngài là một bậc thánh. Ồ! Ngài là thiện tri thức khai ngộ”. “Ồ! Ngài thật giỏi, ngài thật là đệ nhất thế gian”.
Cơ tức cơ phúng, là chê bai mỉa mai. Quý vị không đủ trình độ này mà họ nói quý vị đủ, rõ ràng thấy là khen ngợi, trên thực tế thì chế nhạo mỉa mai, khiến quý vị nghe rất khó chịu.
Gió khen ngợi, gió chê bai, gió khổ, gió vui, gió lợi ích, gió suy bại, gió được, gió mất chính là tám ngọn gió.
Có người lại gọi là hủy dự, hủy chính là phỉ báng, dự chính là khen ngợi. Thế gian này là như thế, người dở thì cũng có kẻ khen ngợi; người giỏi thì cũng có kẻ chê bai, cho nên đây đều gọi là bát phong. Được mọi người khen ngợi mà quý vị vui mừng thì quý vị đã bị gió thổi động; bị mọi người chê bai mà quý vị buồn phiền thì quý vị cũng đã bị gió thổi động. Gió này cũng như một trận gió, thổi quý vị chao động muốn ngả nghiêng.
Những việc tạo tác của thế gian: các pháp mà thế gian đã tạo tác chính là các pháp hữu vi,
Đều hay ứng hiện đồng kỳ sự: chư Phật, Bồ-tát đều hay ứng hiện. Ngài có thể hiện ra tất cả pháp ở thế gian này, và còn nhận lấy những việc khổ nhọc. Đồng kỳ sự tức là đồng đi thụ khổ, lạc, xưng, cơ (hủy, dự), đắc, thất với quý vị.
Dùng đây độ khắp các chúng sinh: dùng đủ phương pháp đồng sự này để giáo hóa tất cả chúng sinh.
Nói bát phong, tôi lại nghĩ đến Tô Đông Pha. Tô Đông Pha là một người có học vấn uyên thâm và cũng có thực chất tu hành, dụng công cũng đạt được chút cảnh giới, chứ chẳng phải chỉ khẩu đầu thiền (thiền ở cửa miệng). Ngày nọ, đang tọa thiền, ông thấy mình có một pháp thân, pháp thân này hiện ra đảnh lễ chư Phật trong mười phương. Vì ông là người rất có học vấn, cho nên nói:
Kính lễ Thiên Trung Thiên
Hào quang chiếu đại thiên
Bát phong xuy bất động
Đoan tọa tử kim liên.
Kính lễ Thiên Trung Thiên, Hào quang chiếu đại thiên: Ồ! Lúc đó, ông ta nhìn thấy chư Phật ở mười phương phóng quang chiếu đến ông ta, ông ta được ánh sáng này chiếu thì lập tức có một phản xạ, cũng có ánh sáng, thế là ánh sáng và ánh sáng phản chiếu lẫn nhau. Ồ! Chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới, cảnh giới này thật tốt thay! Ông lại nhìn thấy chư Phật ở mười phương đều ngồi trên hoa sen màu vàng ròng. Ô! Ông cũng ngồi trên hoa sen vàng đó và nói: “Ồ! Ta ngồi vững vàng trên hoa sen vàng ròng thế này, bây giờ có tám gió thổi, ta cũng không động”.
Ông ta làm bài kệ tụng này xong, thầm nghĩ: “Ồ! Bài kệ tụng này thật hay, thật là kệ tụng khai ngộ”. Bấy giờ, đang ở Giang Nam , ông vội sai người cầm bài kệ tụng này chạy sang Giang Bắc đưa cho thiền sư Phật Ấn xem. Tự nhủ thầm: “Ông xem! Tôi đây cũng đã khai ngộ. Ồ! Tôi đã đạt được cảnh giới này! Chắc ông không có cảnh giới này đâu!”. Thiền sư Phật Ấn vừa xem bài kệ xong, liền phê vào bốn chữ: “Đánh rắm! Đánh rắm!”. Phê xong, thiền sư nói: “Ngươi cầm về đưa cho học sĩ của ngươi xem đi!”. Người đưa thư này vốn không biết chữ, chứ nếu biết chữ thì chắc ông ta cũng không dám cầm về đưa cho Tô Đông Pha xem. Vì không biết chữ cho nên cái đánh rắm mà ông ta cũng không cảm thấy thối, cũng không cảm thấy có quan hệ gì, liền cầm về cho Tô Đông Pha xem. Tô Đông Pha vừa xem xong liền nổi giận: “Đây là lời khai ngộ của ta, lời thành thật này mà ông bảo là đánh rắm, đánh rắm, thật vô lý! Ta mặc y phục đi đánh cái gã hòa thượng trọc đầu này mới được!”.
Từ Giang Nam , ông liền chạy sang Giang Bắc, nói: “Sao ông lại sỉ nhục tôi như vậy chứ? Tôi viết bài kệ tụng khai ngộ đó, mà ông lại bảo là đánh rắm, đánh rắm ư!”. Thiền sư Phật Ấn nói: “Ồ! Ông thật là bát phong xuy bất động mà! Có thể nào bị hai cái đánh rắm của tôi lại khiến ông từ Giang Nam chạy sang Giang Bắc! Tôi hỏi ông, hiện ông đã khai cái ngộ gì rồi?”. Tô Đông Pha gật gù: “Ồ! Thật là ông ta đánh rắm hai cái mà khiến ta từ Giang Nam chạy sang Giang Bắc, hai cái đánh rắm này cũng là một trận gió, ông ta không đốt pháo, chỉ đánh rắm hai cái thì ta liền chạy đến”. Thế nên, ông nguôi giận cúi đầu tự nhủ: “Ồ! Ta phải tu tập lại từ đầu”.
Tất cả khổ hoạn ở thế gian
Sâu rộng vô bờ như biển lớn
Đồng sự với họ, hành nhẫn nhục
Khiến họ lợi ích được an lạc.
Nhất thiết thế gian chúng khổ hoạn
Thâm quảng vô nhai như đại hải
Dữ bỉ đồng sự tất năng nhẫn
Linh kỳ lợi ích đắc an lạc.
Bốn câu kệ này là nói lên tinh thần Bồ-tát hay đồng sự.
Tất cả khổ hoạn ở thế gian: chính là nói tất cả khổ não ở thế gian, cái hoạn nạn làm cho đau khổ lẫn nhau này, Sâu rộng vô bờ như biển lớn: khổ nạn này có bao nhiêu? Nhiều không có bờ mé, giống như biển lớn, sâu không thể đo lường.
Đồng sự với họ, hành nhẫn nhục: chúng sinh thụ khổ ở đó, Bồ-tát cũng thị hiện cùng thụ khổ với chúng sinh và thực hành hạnh nhẫn nhục. Thấy Bồ-tát nhẫn nhục như thế, tất cả chúng sinh cũng đều nhẫn nhục.
Khiến họ lợi ích được an lạc: Bồ-tát khiến tất cả chúng sinh ở trong khổ nạn mà không cảm thấy khổ, lại còn được lợi ích, được an lạc; có thể thoát khỏi tất cả khổ nạn, đạt được an vui vĩnh viễn. Đây là phương pháp đồng sự của Bồ-tát.
4.6.2.4 LỢI HÀNH NHIẾP
Có người chẳng biết pháp xuất ly
Chẳng cầu giải thoát, lìa ồn náo
Vì họ, Bồ-tát hiện xả bỏ
Ưa thích xuất gia, tâm tịch tịnh.
Nhược hữu bất thức xuất ly pháp
Bất cầu giải thoát ly huyên hội
Bồ-tát vi hiện xả quốc tài
Thường lạc xuất gia tâm tịch tĩnh.
Có người chẳng biết pháp xuất ly: tất cả chúng sinh trên thế gian này không biết làm thế nào thoát khỏi cái biển khổ mênh mông không có bờ mé, không biết phương pháp thoát khỏi biển khổ này.
Chẳng cầu giải thoát, lìa ồn náo: họ cũng không muốn tìm phương pháp giải thoát, xa lìa sự ồn ào náo loạn của thế gian. Vì thế gian không thanh tịnh, quá ồn náo nên con người dường như cuồng loạn.
Vì họ, Bồ-tát hiện xả bỏ: vì chúng sinh nên Bồ-tát thị hiện xả bỏ đất nước, tài sản.
Ưa thích xuất gia, tâm tịch tịnh: Giống như Phật Thích-ca Mâu-ni vốn là một thái tử của quốc vương, tương lai sẽ làm quốc vương; không chỉ làm quốc vương mà ngài còn có thể làm Chuyển luân thánh vương, có bảy báu thường tùy thân. Nhưng ngài đã xả bỏ cái địa vị quốc vương này, không cần đến nó, hoan hỷ đi xuất gia, không muốn làm người thế tục. Tâm tịch tịnh, tâm ngài rất bình tĩnh, rất vắng lặng, rất thanh tịnh, không dao động.
Nhà là chốn tham ái, trói buộc
Muốn khiến chúng sinh đều lìa khỏi
Nên hiện xuất gia đắc giải thoát
Không hề ưa thích các dục lạc.
Gia thị tham ái hệ phược sở
Dục sử chúng sinh tất miễn ly
Cố thị xuất gia đắc giải thoát
Ư chư dục lạc vô sở thụ.
Nhà là chốn tham ái, trói buộc: cái nhà này chính là nơi làm cho chúng sinh sinh tham ái. Trói buộc chính là không được giải thoát. Cái nhà này là chỗ không được tự do, thường gông cùm chúng sinh.
Muốn khiến chúng sinh đều lìa khỏi: Bồ-tát vì muốn khiến tất cả chúng sinh đều lìa khỏi sự trói buộc, không tự do này,
Nên hiện xuất gia đắc giải thoát: cho nên thị hiện xuất gia tu đạo, đạt được giải thoát chân chánh, tự do chân chánh, để độ chúng sinh xuất gia.
Không hề ưa thích các dục lạc: Bồ-tát không có tham luyến thụ hưởng tất cả cảnh nhiễm ô, khoái lạc, thích thú ở thế gian.
Bồ-tát thị hiện hành mười hạnh
Và hành tất cả pháp đại nhân
Hành hạnh chư tiên đều không sót
Vì muốn lợi ích cho chúng sinh.
Bồ tát thị hành thập chủng hạnh
Diệc hành nhất thiết đại nhân pháp
Chư tiên hạnh đẳng tất vô dư
Vị dục lợi ích chúng sinh cố.
Bồ-tát thị hiện hành mười hạnh: Bồ-tát dạy cho chúng sinh mười hạnh tu. Mười hạnh tu này đều lợi ích cho chúng sinh. Mười hạnh thanh tịnh này chia làm hai phần: y ngoại thanh tịnh và y nội thanh tịnh.
Y ngoại thanh tịnh có năm:
1. Vô tội lợi hành
2. Bất chuyển lợi hành
3. Tiệm thứ lợi hành
4. Biến hành lợi hành
5. Như ứng lợi hành.
Y nội thanh tịnh cũng có năm:
1. Đối với hữu tình, chư Bồ-tát khởi tâm đại bị rộng lớn, ý vui hiện tiền mà hành lợi hành.
2. Đối với các hữu tình, chư Bồ-tát làm việc lợi ích, tuy thụ tất cả khổ nhọc, mà tâm không mỏi mệt, thâm tâm hoan hỷ, vì các hữu tình mà hành lợi hành.
3. An trụ ở địa vị và tiền tài tối thắng bậc nhất, mà tự khiêm hạ như con, như nô bộc, và lìa kiêu mạn mà hành lợi hành.
4. Tâm không ái nhiễm, không có hư ngụy, chân thật thương xót mà hành lợi hành.
5. Khởi tâm từ mẫn rốt ráo không còn thoái chuyển, mà hành lợi hành.
Và hành tất cả pháp đại nhân: và tu hành tất cả pháp mà bậc đại nhân đã tu.
Năm pháp của bậc đại nhân:
1) Đối với chân thật nghĩa khuyến đạo hữu tình.
2) Đối với ứng thời khuyến đạo hữu tình.
3) Đối với năng hành nhiếp thắng diệu nghĩa khuyến đạo hữu tình.
4) Đối với hữu tình nhu nhuyến khuyến đạo.
5) Đối với hữu tình từ tâm khuyến đạo.
Hành hạnh chư tiên đều không sót: Bồ-tát tu hành viên mãn đạo của tất cả chư tiên đã tu hành.
Vì muốn lợi ích cho chúng sinh: vì sao Bồ-tát phải tu mười hạnh và phải tu tất cả hạnh mà chư tiên đã tu hành? Sở dĩ Bồ-tát tu hành như thế là vì muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Có những chúng sinh thọ vô lượng
Phiền não vi tế, thường an vui
Trong đó Bồ-tát được tự tại
Hiện thụ các khổ già, bệnh, chết.
Nhược hữu chúng sinh thọ vô lượng
Phiền não vi tế, lạc cụ túc
Bồ-tát ư trung đắc tự tại
Thị thụ lão bệnh tử chúng hoạn.
Có những chúng sinh thọ vô lượng: có chúng sinh sống rất thọ, nên rất tự mãn, chấp vào tướng trường thọ. Tuy họ thọ vô lượng nhưng cũng không khỏi chết, cũng phải chịu sinh tử. Vì sao họ thọ vô lượng? Vì họ Phiền não vi tế, thường an vui: họ rất ít phiền não, thường sống an vui. Người nào rất ít phiền não thì tuổi thọ rất cao, ngược lại, người nào nhiều phiền não thì tuổi thọ ngắn đi. Tuy họ rất ít phiền não, nhưng không thể cho rằng như thế là hoàn toàn đã đoạn hết phiền não, vì vẫn còn phiền não vi tế. Chúng sinh như thế thường sống an vui, không có phiền não.
Trong đó Bồ-tát được tự tại: đối với bốn tướng (tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả) Bồ-tát được tự tại, mặc tình tự nhiên, tùy ý, mặc tình tu tập.
Hiện thụ các khổ già, bệnh, chết: Bồ-tát thị hiện cũng thụ khổ già, khổ bệnh, khổ chết, thụ những nỗi khổ này, khiến cho chúng sinh có thọ mạng vô lượng cũng phát tâm Bồ-đề, cầu đạo vô thượng.
Hoặc kẻ tham dục, sân nhuế, si
Lửa mạnh phiền não luôn hừng cháy
Bồ-tát vì hiện già, bệnh, chết
Khiến chúng sinh kia đều điều phục.
Hoặc hữu tham dục sân khuể si
Phiền não mãnh hỏa thường xí nhiên
Bồ-tát vị hiện lão bệnh tử
Linh bỉ chúng sinh tất điều phục.
Hoặc kẻ tham dục, sân nhuế, si: hoặc có chúng sinh nhiều tham lam, nhiều dục vọng, nhiều sân giận, nhiều ngu si. Sân nhuế chính là giận dữ thịnh nộ; si chính là ngu si, làm những việc điên đảo.
Lửa mạnh phiền não luôn hừng cháy: loại chúng sinh này phiền não rất nhiều, giống như lửa dữ thường thiêu đốt mãnh liệt.
Bồ-tát vì hiện già, bệnh, chết: vì loại chúng sinh nhiều tham, sân, si này mà Bồ-tát thị hiện khổ già, khổ bệnh, khổ chết.
Khiến chúng sinh kia đều điều phục: khiến chúng sinh cang cường khó điều khó phục này cũng được điều phục, dứt trừ tham, sân, si.
(còn tiếp)