Hòa Thượng Tuyên Hóa thiển giảng
大佛頂首楞嚴經淺釋(一)
經前懸談
Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (quyển một)
KINH TIỀN HUYỀN ĐÀM
Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh
KINH TIỀN HUYỀN ĐÀM
Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh
KINH TIỀN HUYỀN ĐÀM
Kinh Lăng Nghiêm là chân thân của Đức Phật
Trong Phật giáo có rất nhiều bộ kinh vô cùng quan trọng, nhưng bộ Kinh quan trọng nhất chính là Kinh Lăng Nghiêm. Chỗ nào có kinh Lăng Nghiêm, chỗ đó có chánh pháp tồn tại; Kinh Lăng Nghiêm không còn, thì thời Mạt pháp liền hiện ra trước mắt. Vì thế chúng ta mỗi một Phật giáo đồ, cần phải đem hết tất cả sức lực của mình, đem máu của mình ra, đem mồ hôi của mình ra để ủng hộ bộ Kinh Lăng Nghiêm này.
Kinh Pháp Diệt Tận nói: “Thời mạt pháp, kinh Lăng Nghiêm diệt trước. Các kinh điển khác, lần lượt mới diệt sau”. Nếu kinh Lăng Nghiêm không diệt, lúc đó chánh pháp sẽ hiện ra trước mắt. Vì thế chúng ta là Phật giáo đồ, cần phải lấy sanh mạng của mình để hộ trì kinh Lăng Nghiêm, lấy máu của mình, lấy mồ hôi của mình để hộ trì Kinh Lăng Nghiêm, đem hết sức lực khả năng hộ trì kinh Lăng Nghiêm, lấy chí nguyện của mình hộ trì kinh Lăng Nghiêm, khiến cho kinh Lăng Nghiêm phát huy rộng lớn, lưu thông trong từng mỗi hạt vi trần, lưu thông cho đến mọi nơi trên thế giới, cùng tận hư không khắp pháp giới. Nếu được như vậy, hào quang chánh pháp có thể soi sáng khắp mọi nơi.
Tại sao kinh Lăng Nghiêm diệt trước? Vì kinh này giảng giải đạo lý rất xác thực! Kinh Lăng Nghiêm là chân thân của Đức Phật, Kinh Lăng Nghiêm là xá lợi của Đức Phật, Kinh Lăng Nghiêm chính là chùa tháp chân chánh của Đức Phật! Vì Kinh Lăng Nghiêm chân thực như thế, nên tất cả ma vương đều dùng đủ cách để phá hoại, huỷ diệt Kinh Lăng Nghiêm, Đầu tiên tạo ra lời đồn xuyên tạc, nói kinh Lăng Nghiêm không phải từ kim khẩu Phật thuyết ra, mà do người đời nguỵ tạo. Tại sao họ nói Kinh Lăng Nghiêm là giả? Đó vì Kinh Lăng Nghiêm nói ra đạo lý quá chân thực. Nhất là 4 loại thanh tịnh minh hối, hai mươi lăm bậc Thánh thuật lại sự tu hành viên thông của mình, năm mươi cảnh giới ấm ma. Đó là những điều làm cho bàng môn ngoại đạo yêu ma quỷ quái không chịu nỗi, vì thế có một số người vô tri nói rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả, là nguỵ tạo.
Những đạo lý do Kinh Lăng Nghiêm nói ra vừa chính xác vừa hợp lý, yêu ma, quỷ quái, bàng môn, tả đạo đều hiện nguyên hình, không chỗ ẩn núp. Một số người vô tri, nhất là những vị học giả vô trí, giáo đồ ngu xuẩn, không nhận thức được Phật giáo, không hiểu rõ Phật học, đã đánh giá sai lầm lời dạy của bậc Thánh. Sự hiểu biết của họ rất hồ đồ, không có học thức, không có trí tuệ chơn chánh, nên mới có sự phê bình sai lầm như vậy. Chúng ta là những người học Phật Pháp cần phải hiểu rõ sâu sắc về Kinh Lăng Nghiêm, cho nên chúng ta cần phải đề xướng Kinh Lăng Nghiêm, chúng ta cần phải tuyên dương giảng thuyết Kinh Lăng Nghiêm, chúng ta cần phải giảng giải bộ Kinh Lăng Nghiêm này cho mọi người khắp nơi khắp chốn. Tại sao vậy? Vì chúng ta muốn chánh pháp tồn tại lâu dài ở thế gian.
Nay tôi cam đoan với quý vị, cam đoan Kinh Lăng Nghiêm này chắc chắn là chân kinh! Nếu Kinh Lăng Nghiêm là thật thì tức nhiên không có vấn đề gì, nếu Kinh Lăng Nghiêm là giả, tôi nguyện vĩnh viễn đoạ vào địa ngục, vì tôi không nhận thức được Phật Pháp, lấy giả làm thực. Nếu Kinh Lăng Nghiêm là chân thực thì tôi nguyện đời đời kiếp hoằng dương đại pháp Lăng Nghiêm, thời nào, chỗ nào tôi đều phải hoằng dương chân lý Lăng Nghiêm. Điều này quý vị cần phải chú ý, nếu Kinh Lăng Nghiêm không phải do Đức Phật nói ra thì không ai có thể nói ra được, cho nên chỉ có những người vô trí mới phê bình một cách sai lầm như vậy, mong rằng những người này mau chóng tỉnh ngộ, không nên tạo cái nhân khổ, tạo cái nhân cắt lưỡi đoạ địa ngục. Bất luận vị học giả nào, người học Phật Pháp ở quốc gia nào, phải lập tức sám hối sửa đổi lỗi lầm, bản thân mình sai lầm mà biết sửa đổi thì không có điều thiện nào lớn hơn. Cuối cùng tôi cầu chúc cho những người đọc Kinh Lăng Nghiêm, những người nghe được Kinh Lăng Nghiêm, những người nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm đều sớm thành Phật đạo.
Kinh Lăng Nghiêm tồn tại, Phật Pháp sẽ tồn tại
Tuyên Hóa Thượng Nhân - tháng 1 năm 1983
Kinh Lăng Nghiêm là một bộ Kinh quan trọng, là kính chiếu yêu trong Phật giáo, tất cả tà ma, ngoại đạo, li mị, võng lượng vừa nhìn thấy Kinh Lăng Nghiêm đều hiện nguyên hình, không chỗ ẩn núp, không có chỗ nào mà chạy cho khỏi. Vì thế thời quá khứ, đại sư Trí Giả nghe nói có bộ kinh như thế, bèn hướng về Ấn Độ hàng ngày lễ bái, lễ bái hơn 18 năm, dùng 18 năm với tâm chí thành cần cầu khẩn thiết như thế. Các vị Cao Tăng đại đức xưa kia, tất cả những vị Cao Tăng có trí tuệ không ai mà không tán thán Kinh Lăng Nghiêm. Vì thế Kinh Lăng Nghiêm tồn tại Phật Pháp sẽ tồn tại; nếu Kinh Lăng Nghiêm hủy diệt Phật Pháp sẽ bị hủy diệt.
Mạt pháp là như thế nào? Mạt pháp là Kinh Lăng Nghiêm bị hủy diệt trước. Ai là người hủy diệt Kinh Lăng Nghiêm? Chính là thiên ma ngoại đạo, những thiên ma ngoại đạo này vừa nhìn thấy Kinh Lăng Nghiêm thì giống như đinh trong mắt, gai trong thịt vậy, ngồi cũng ngồi không yên, đứng không vững, vì thế thiên ma ngoại đạo cần phải đưa ra một tà thuyết nói Kinh Lăng Nghiêm là giả. Chúng ta là Phật giáo đồ cần phải nhận thức chân lý, những đạo lý mà Kinh Lăng Nghiêm nói đến, mỗi một chữ đều là chân kinh, chân điển, không có một chữ nào mà không nói về chân lý. Cho nên chúng ta hiện nay nghiên cứu về 50 loại ấm ma, càng phải hiểu rõ hơn sự quan trọng của Kinh Lăng Nghiêm, những tà ma yêu quái sợ nhất chính là Kinh Lăng Nghiêm.
Lão Hòa thượng Hư Vân thọ 120 tuổi, suốt cuộc đời của Ngài, không có chú giải kinh điển nào khác, chỉ có chú giải bộ Kinh Lăng Nghiêm này. Bản thảo chú giải Kinh Lăng Nghiêm, Ngài giữ gìn rất cẩn thận, giữ gìn hơn 10 năm, sau đó vì sự biến Vân Môn mà bị mất đi. Đây là việc di hận nhất trong suốt cuộc đời của Hòa thượng Hư Vân. Ngài chủ trương những người xuất gia đều cần phải thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm, học thuộc từ đầu cho đến cuối, từ cuối tụng thuộc cho đến trước, đọc ngược đọc xuôi, ngược xuôi đều có thể tụng đọc thuộc lòng. Đó là chủ trương của Ngài, nên tôi biết Hòa Thượng Hư Vân rất đặc biệt xem trọng Kinh Lăng Nghiêm.
Có người nhắc đến lão Hòa Thượng Hư Vân đã từng nói: “ Kinh Lăng Nghiêm có người cho là giả, là ngụy tạo”. Lão Hòa Thượng nói: “ Tại sao gọi là mạt pháp? Vì có một số người đã làm cho vàng thau lẫn lộn, không phân biệt đúng sai, nói ra những điều làm mê lầm người, làm mờ mắt người, khiến cho người không nhận thức được rõ ràng Phật Pháp. Số người này cho chân thực là giả tạo; giả tạo họ cho là chân thực. Quý vị nhìn xem những người này, người đó viết một quyển sách, họ cũng cầm lên xem, người kia viết một quyển sách, họ cũng cầm lên xem, nhưng những Kinh Điển thật sự do Đức Phật thuyết ra thì họ lại bỏ vào trong tủ sách, mãi không xem đến. Nên đây có thể nhìn thấy nghiệp chướng của chúng sanh rất nặng, nếu nghe các thứ tà tri tà kiến lại rất tin tưởng. Ông giảng pháp chánh tri chánh kiến, thì họ lại không tin, tại sao vậy? Đó là vì thiện căn không đủ, căn cơ không đủ, cho nên đối với chánh pháp có tâm hoài nghi, không tin tưởng.
Tại Vạn Phật Thành của chúng ta, cần phải thành lập đạo tràng Lăng Nghiêm, tốt nhất ai phát tâm hàng ngày đọc tụng Kinh Lăng Nghiêm, hoặc là một giờ hoặc là hai giờ, có thể đọc như là đọc sách, có thể ghi nhớ và tốt hơn nữa là có thể học thuộc lòng. Các bộ Kinh Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, thậm chí Kinh Hoa Nghiêm đều có thể đọc tụng thuộc lòng. Ai có thể thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm thì là lúc chánh pháp vẫn còn tồn tại trên thế giới này. Vì thế Vạn Phật Thành của chúng ta là một chỗ tốt đẹp như thế, mọi người cần phải phát đại Bồ đề tâm làm một số công việc, không phải nói chúng ta và người thi đua mà chúng ta cần phải làm một số công việc vượt trội hơn mọi người, tốt đẹp hơn mọi người.
Trước kia tôi có tâm nguyện như thế, muốn học thuộc lòng Kinh Pháp Hoa rồi lại học thuộc Kinh Lăng Nghiêm. Ở Hương Cảng có một vị đệ tử có thể thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm, tôi dạy người đó học Kinh Pháp Hoa, cuối cùng người này chưa hoàn toàn thuộc lòng, đây là điều rất đáng tiếc. Chỗ của chúng ta tốt như vậy, mọi người cần phải phát đại tâm, thuộc lòng Kinh Phật và giới luật - Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Tứ Phần Luật, Phạm Võng Kinh đều phải thuộc lòng, đây là việc làm tốt nhất, được như thế chỗ của chúng ta chánh pháp chắc chắn sẽ tồn tại lâu dài.
Kính chiếu yêu, chày hàng ma,
kiếm chém ma của Phật Giáo
Tuyên Hóa Thượng Nhân khai thị năm 1974 tại Việt Nam
Tôi hôm nay giảng về vấn đề này, chúng ta cần phải nghiên cứu một bộ kinh điển, bộ kinh điển này chính là kính chiếu yêu của Phật giáo, chày hàng ma của Phật giáo, kiếm chém ma của Phật giáo! Đó là bộ kinh điển nào? Chính là Kinh Lăng Nghiêm. Kinh Lăng Nghiêm là một bộ Kinh khai mở trí tuệ, nhưng bộ Kinh này đang gặp phải sự kỳ thị của các học giả tại các nước trên thế giới. Tại sao nói như vậy? Họ nói bộ Kinh này là giả không phải là thật.
Tại sao họ nói bộ kinh này là giả? Chúng ta tại sao cần phải nghiên cứu bộ Kinh này? Vì bộ kinh này rất có giá trị, bộ kinh này rất có giá trị nghiên cứu. Bộ kinh này nói ra tất cả tà tri tà kiến của bàng môn ngoại đạo, nói rất rõ ràng những tà tri tà kiến không hợp với Phật pháp, vì thế bộ kinh này là một bảo kính chiếu yêu, cũng tức là chày hàng ma, kiếm chém ma! Vậy thì bộ kinh điển này nếu mọi người đều hiểu rõ, thì thiên ma ngoại đạo tự nhiên không còn nữa, thế giới này chiến tranh cũng sẽ ngừng lại, tất cả nhân loại đều được sự an ổn, cho nên bộ kinh này rất quan trọng!
Thanh niên hiện nay cần phải nỗ lực nghiên cứu Phật học; nghiên cứu Phật học là nghiên cứu cái gì? Tôi chủ trương các vị đều phải tận tâm tận lực nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm. Kinh Lăng Nghiêm là một bộ Kinh khai mở trí tuệ, quý vị nếu có thể hiểu được Kinh Lăng Nghiêm, thì tất cả Phật học đều có thể thông suốt, nhất là Chú Lăng Nghiêm là một loại chú bất khả tư nghì. Vị cư sĩ Quân Trọng này thường nghĩ cái này, tuởng cái kia, bất luận sự việc gì cũng đều suy nghĩ vọng tưởng rất nhiều. Nhưng mà Chú Lăng Nghiêm này quý vị nhất định sẽ suy nghĩ không hết, suy nghĩ như thế nào cũng không thông. Tại sao vậy? Vì chú Lăng Nghiêm có một sức mạnh bất khả tư nghì. Chú Lăng Nghiêm trong Phật giáo gọi là linh văn. Sao gọi là linh văn? Vì vi diệu nhiệm mầu không thể dùng lời để nói, nói suốt đời cũng không hết. Mỗi một người của chúng ta nếu có thể thuộc lòng chú Lăng Nghiêm, thì có tám vạn bốn ngàn Bồ Tát Kim Cang Tạng thường đến bảo hộ. Chú Lăng Nghiêm là chú mầu diệu nhất, một loại Chú dài nhất trong các loại Chú, Chú Lăng Nghiêm có khoảng hơn 2320 chữ. Này các vị thanh niên! Các con cần phải phát tâm học tập kinh Lăng Nghiêm, đọc tụng Kinh Lăng Nghiêm, nếu có thể thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm, thì nên thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm, như thế căn bản Phật học của các con đã vững chắc.
Tín chúng: Pháp sư dạy mọi người không những cần phải xem Kinh Lăng Nghiêm, mà còn cần phải học thuộc Kinh Lăng Nghiêm. Xin hỏi trong Kinh Lăng Nghiêm giảng những gì? Tại sao chúng con cần phải xem, phải đọc; không đọc không được sao?
Thượng nhân: Quý vị muốn biết trong Kinh Lăng Nghiêm giảng những gì, thì quý vị cần phải nên đọc, nếu không muốn biết thì vấn đề này không cần phải hỏi.
Tín chúng: Tại sao Pháp sư không giới thiệu Kinh Kim Cang? Giống như Lục Tổ Đại Sư do nghe Kinh Kim Cang mà giác ngộ. Tại sao không giới thiệu Lục Tổ Đàn Kinh vì quyển Kinh đó giới thiệu tâm đắc ngộ đạo của Lục Tổ Đại Sư. Tại sao Pháp sư chỉ giới thiệu bộ Kinh Lăng Nghiêm này mà thôi?
Thượng nhân: Sự quan trọng của Kinh Lăng Nghiêm tối hôm qua đã giảng qua. Khi Phật Pháp không còn là do Kinh Lăng Nghiêm trước đó đã bị huỷ diệt, nếu Kinh Lăng Nghiêm không còn thì yêu ma quỷ quái trên thế giới này đều xuất hiện. Vì trên thế gian này có ngũ đại ma quân, trong Kinh Lăng Nghiêm có Chú Lăng Nghiêm. Trong chú Lăng Nghiêm có năm bộ, năm bộ này là quản các ma quân trên thế giới, nếu như không có người đọc tụng Chú Lăng Nghiêm thì thế giới này sẽ bị huỷ hoại, điều đó không thể suy lường được, những yêu ma quỷ quái đều sẽ xuất hiện. Hiện nay những yêu ma quỷ quái sở dĩ không để cho quý vị thấy, không để cho quý vị nghe, không dám xuất hiện chính vì có Chú Lăng Nghiêm ở trên thế giới này; chỗ nào có người biết đọc Chú Lăng Nghiêm thì yêu ma quỷ quái đều không dám xuất hiện trước mắt!
Tín chúng: Kính bạch Pháp sư tiếng Quảng Đông nói Hạ giáng đầu, vậy xin hỏi có loại Cổ độc không? Tại sao có rất nhiều người bản thân đã trải qua vấn đề này? Chúng con là những người học Phật đối với quan niệm Cổ độc này phải như thế nào? Tại sao cho phép loại tà ác đó tồn tại?
Thượng Nhân: Ở trên thế gian này, trăm ngàn việc kỳ dị quái lạ; việc gì cũng đều có; trời đất rộng lớn, bốn biển bao la, không có việc kỳ lạ gì mà không có, nhưng có thể tổng quát lại, mỗi người chúng ta cần phải giữ chánh tâm, tu thân, trị quốc, bình thiên hạ, tâm chúng ta chánh thì bàng môn ngoại đạo gì đó cũng không làm gì được. Quý vị sở dĩ bị người ta giáng đầu, chính là trong tâm của mình trước không chánh đáng mới bị các thứ tà ma nhiễu loạn, nếu tâm của mình chánh thì tà không thể thắng chánh, Giáng đầu nào cũng không có linh nghiệm.
Nhất là tôi vừa đề nghị các vị đọc tụng Kinh Lăng Nghiêm, đọc tụng Chú Lăng Nghiêm, nếu quý vị có thể thuộc lòng chú Lăng Nghiêm, thì Giáng đầu nào cũng không có công dụng gì cả, cũng không có ích dụng gì cả, Chú Lăng Nghiêm này có thể phá tất cả lưới võng của ma, có thể phá tất cả pháp thuật của bàng môn ngoại đạo, trong đó sức mạnh của chú Lăng Nghiêm không thể suy nghĩ đến được. Nếu quý vị không muốn bị Giáng đầu nhiễu loạn thì nên đọc tụng Chú Lăng Nghiêm, tôi không phải vừa nói qua sao? Ai có thể thành tâm đọc tụng Chú Lăng Nghiêm thì có tám vạn bốn ngàn Bồ tát Kim Cang Tạng đến ủng hộ.
Tín chúng: Xin hỏi chúng con khi nào đọc tụng Chú Lăng Nghiêm?
Thượng Nhân: Không phải lúc nào lễ Phật mới đọc tụng Chú Lăng Nghiêm, mà bình thường khi đi đứng nằm ngồi đều có thể trì Chú Lăng Nghiêm. Quý vị trì chú Lăng Nghiêm thì sẽ không có các tạp niệm khác, giống như quý vị niệm Bồ Tát Quán Âm thì sẽ không còn tạp niệm, quý vị trì tụng Chú Lăng Nghiêm cũng chính là khiến cho mình được tam muội, tam muội tức là chánh định, chánh thọ, cũng khiến cho tâm không tán loạn, không có nhiều tạp niệm nữa.
Tín chúng: Chúng con không biết niệm Chú Lăng Nghiêm, nhưng chúng con biết niệm chú Đại Bi và Thập chú, cũng là bao hàm ở trong Chú Lăng Nghiêm.
Thượng nhân: Chú Đại Bi và Thập Chú tuy là một phần trong thời khóa buổi khuya, nhưng không thuộc về Chú Lăng Nghiêm. Chú Lăng Nghiêm tức là năm hội, năm hội có năm bộ, gồm có Phật bộ, Liên Hoa bộ, Bảo Sanh bộ, Kim Cang bộ, Yết Ma bộ. Năm bộ này quản lý năm phương.
Quý vị nói không biết, không biết thì học từ từ, bất luận người nào, không có ai sanh ra đã biết niệm Chú Lăng Nghiêm; sanh ra đã biết niệm Chú Lăng Nghiêm đó chính là Bồ tát rồi, cho nên không biết cần phải học. Chứ không thể nói “con không biết” rồi không học. Quý vị đi học, vì quý vị chưa có tốt nghiệp quý vị mới đi học; nếu nói: “Con không đi học” mà muốn tốt nghiệp thì không thể được.
Đa tầng học tập Kinh Lăng Nghiêm
Thích Hằng Trì - tháng 10 năm 2008 tại Úc Châu
Một ngày vào năm 1968, Thượng nhân Tuyên Hóa thăng tòa thuyết pháp, khai giảng bộ Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm, từ đó Kinh Lăng Nghiêm đã trở thành tiêu điểm, còn các thứ khác thì đã trở thành thứ yếu.
Còn tôi đối với Phật giáo và Trung văn không biết gì cả, và cũng từ đó bị hấp dẫn một cách sâu sắc. Tôi lắng nghe Thượng nhân đọc tụng chậm chậm một đoạn Kinh văn rồi sau đó giải thích nghĩa lý ở trong một cách sinh động. Sư phụ tài tình vi diệu mà rất trân trọng giải thích bằng tiếng Trung, truyền đạt những tính cách từ bi nhu hòa của Ngài, lại thêm những sự hài hước không ngờ, cùng với sự phát huy nhạy bén đối với thính chúng, tính chất đặc biệt này đã siêu việt lên chướng ngại của ngôn ngữ.
Nhưng mà cho đến khi bắt đầu phiên dịch tiếng Anh, lại nghe âm thanh của Sư Phụ tôi mới thật sự lãnh ngộ được hàm ý, mà cùng với trí tuệ tiềm tàng phát sanh đồng cảm, do đó mà được nghe được chút giáo lý. Tôi cẩn thận ghi chép trên quyển vở: Đại Phật Đỉnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm.
Như thế, Thượng nhân bắt đầu dạy dỗ cho người phương Tây chúng tôi về Phật pháp. Ngài không sợ gian nan, mà chọn một bộ Kinh điển Đại Thừa nghĩa lý thâm sâu huyền diệu để mở mang trí óc còn mông muội cho chúng tôi. Ngài giảng dạy rất tích cực, không có một chút nào qua loa lơ là. Ngài mạnh dạn giả thiết chúng tôi có năng lực rất tốt để học tiếng Trung - Kinh Phật bằng văn ngôn cùng với văn Bạch Thoại của Ngài giải thích sơ lược và hoàn toàn có thể lãnh ngộ nghĩa lý thâm sâu huyền diệu trong lời tuyên thị của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong bộ Kinh đặc biệt này, và cũng có thể tự thân mình thực hành. Ví dụ trong thời gian này có những người Mỹ bắt đầu ăn chay và ăn một bữa, tôi cũng là một trong số người đó. Đối với một người Mỹ từ nhỏ đã quen với thức ăn người Mỹ, thật là một điều không dễ dàng, Thượng nhân và sức mạnh của bộ Kinh Lăng Nghiêm đã giúp đỡ chúng tôi thành trưởng.
Không chỉ Thượng nhân đối với chúng tôi có sự hy vọng như thế, mà chúng tôi cũng bắt đầu có sự kỳ vọng vào bản thân của mình. Khi chúng tôi học đến đoạn Kinh văn dưới đây:
Như nhân dĩ biểu, biểu vi trung thời, đông khán tắc nam, nam quán thành bắc. Biểu thể ký hỗn, tâm ưng tạp loạn.
Ví như có người dùng tiêu chí, ký hiệu chính giữa, từ phương Đông nhìn qua thì cho tiêu chí ở phương Tây, nhìn từ phương Nam thì cho tiêu chí ở phương Bắc. Thể tiêu chí đã lẫn lộn, thì tâm cũng thành tạp loạn.
Thật giống như chúng tôi vậy, là những người sơ học không có trình độ Trung văn nào – đã có thể nhận biết được các chữ Hán đơn giản như “nhân”, “trung” (人、中),… điều này đã khích lệ chúng tôi đưa ra càng ngày càng nhiều câu hỏi, nhất là thường hỏi các vị đồng tham học giả hướng dẫn mọi người ôn tập hàng ngày, ví dụ tiếng Anh phiên dịch như thế nào, thì đối ứng với tiếng Trung – như có thể được, thì từng chữ đối chiếu giải thích, làm sao có thể sử dụng từ điển Hán-Anh; những gì là thuật ngữ Phật học, đương nhiên cũng hỏi đến nguyên câu là có ý nghĩa như thế nào.
Ý nghĩa của đoạn Kinh văn này là giả như có người dùng một tiêu chí để biểu thị “chính giữa”, ở phía Đông của chính giữa này nhìn, thì “chính giữa” này sẽ biến thành phương Tây, ở phía Nam của “chính giữa” này nhìn thì chính giữa này sẽ biến thành phương Bắc, như thế tiêu chí biểu thị sẽ hàm hồ không rõ ràng. Những đạo lý như thế nói tâm tại chính giữa, ở trong. Ý nghĩa này đã mơ hồ không rõ ràng.
Từ đoạn Kinh văn cùng với lời giải thích ở trên, chúng tôi không chỉ học được từ mới “biểu”. Chữ này khi dùng danh từ, thì có ý nghĩa là ký hiệu; khi dùng như động từ thì có ý nghĩa là tiêu chí. Đồng thời chúng tôi cũng học đến chữ “tâm”, từ xưa đến nay chúng tôi mãi giả định là ở trong thân của mình, không phải giống như sự tin tưởng kiên định của chúng tôi, là được đặt ở trong một chỗ của phương tiện nào đó.
Khi Thượng nhân giảng đến:
Phật ngôn: Đại vương, nhữ diện tuy trứu, nhi thử kiến tinh, tánh vị tằng trứu, trứu giả vi biến, bất trứu phi biến. Biến giả thọ diệt, bỉ bất biến giả, nguyên vô sanh diệt. Vân hà ư trung, thọ nhữ sanh tử ?
Phật nói: Đại vương ! Mặt ông tuy nhăn, mà cái tánh của kiến tinh kia chưa từng nhăn, có nhăn là biến hoại, không nhăn thì không thay đổi. Cái thay đổi ắt phải diệt, cái không thay đổi kia, vốn không sanh không diệt. Làm sao trong đó thọ chịu cái sanh tử của ông?
Chúng tôi cũng giống như vua Ba Tư Nặc vậy, đã học được một bài pháp quan trọng - tự tánh của chúng ta là không sanh không diệt. Tiếng Anh phiên dịch rất rõ ràng, đã chuyển đạt được ý nghĩa này: Đức Phật nói Đại vương mặt của ông tuy nhăn, nhưng mà kiến tinh của ông sẽ không nhăn, nhăn thì sẽ thay đổi, không nhăn thì không thay đổi, thay đổi thì sẽ diệt; những thứ không thay đổi thì sẽ không có sanh diệt. Như vậy, kiến tinh này thì làm sao có thể nhận chịu sự sanh diệt giống như thân thể của ông vậy?
Ngoài ra khi Thượng nhân tụng niệm Kinh văn, chúng tôi có thể dùng ngón tay chỉ theo lời Kinh cùng theo nhịp điệu, và rất vui mừng chúng tôi biết được rất nhiều chữ Hán đơn giản ví dụ như: ngôn, đại vương, sanh tử.
Đúng rồi, chúng tôi nhớ có một ngày, khi Thượng nhân đọc đến:
Nhược kiến thị vật, tắc nhữ diệc khả kiến ngô chi kiến. Nhược đồng kiến giả, danh vi kiến ngô, ngô bất kiến thời, hà bất kiến ngô, bất kiến chi xứ ? Nhược kiến bất kiến, tự nhiên phi bỉ, bất kiến chi tướng, nhược bất kiến ngô, bất kiến chi địa, tự nhiên phi vật, vân hà phi nhữ ?
Nếu cái thấy là vật thì ông cũng có thể thấy cái thấy của ta. Nếu cùng thấy gọi là thấy cái thấy của Ta, thì lúc Ta không thấy, sao ông không thấy chỗ không thấy của Ta ?Nếu thấy được cái không thấy của Ta thì không phải cái tướng không thấy; nếu không thấy được chỗ không thấy của Ta, thì kiến tinh tự nhiên không phải là vật, tại sao không phải là ông ?
Ngón tay của chúng tôi lướt qua từng hàng chữ, và đã nhận ra được 12 chữ kiến, khi làm động từ thì có nghĩa là nhìn thấy, khi làm danh từ thì có nghĩa là cái thấy, năm chữ “ngô”, đây là văn văn ngôn, có nghĩa là “ta” và “của ta”, và còn có 2 chữ “nhữ”cũng là văn ngôn có nghĩa là “bạn”, hoặc có nghĩa là “của bạn”.
Mặc dù thông qua sự phiên dịch của Anh văn, tôi cũng không hiểu rõ lắm ý nghĩa của đoạn Kinh văn nay; nhưng đã khích lệ tôi phải siêng năng cần mẫn học tập tiếng Trung.
Đoạn Kinh văn được phiên dịch hơi mới như sau: Nếu kiến tánh là vật thể giống như những vật khác, thì ông có thể nhìn thấy cái thấy của tôi hay không? Nếu như ông nói khi mà chúng ta cùng nhìn thấy một vật, ông nhìn thấy kiến tánh của tôi. Vậy thì khi tôi không nhìn thấy, ông cũng nên nhìn thấy cái thấy “tôi không nhìn thấy”, tại sao ông không nhìn thấy? Dù ông nhìn thấy được chỗ tôi “không thấy”, nhưng không nhất định là ông nhìn thấy cái tướng “không nhìn thấy” của tôi. Ông đã không nhìn thấy chỗ tôi không thấy, cái tướng không thấy đó, thì “cái thấy” này tự nhiên không phải là một vật thể. Vì thế ông làm sao có thể nói rằng “cái thấy” này không phải là của ông.
Chúng tôi hàng ngày chuyên tâm chú ý nghe Thượng nhân giảng Kinh, sau đó khi đi, khi ăn, khi ngủ đều ôn tập những gì mình đã học, cứ như thế, mùa hè ba tháng giảng giải Kinh Lăng Nghiêm đã nhanh chóng trôi qua. Chúng tôi nghiên cứu nghĩa lý, làm quen với thuật ngữ, đã đạt được sức quan sát thấu rõ mới, đồng thời bắt đầu bắt tay thực hành những gì mình đã học, ngồi thiền và suy tư; đến cuối cùng cách đây không bao lâu, chúng tôi dần dần quen thuộc từng chữ từng chữ, hiểu rõ được thuật ngữ của Phật giáo tiếng Trung.
Khi mùa hạ gần hết, Thượng nhân cũng sắp giảng xong bộ Kinh này, chúng tôi thật sự ý thức đến Kinh Lăng Nghiêm là một pháp thí vô cùng to lớn, Kinh Lăng Nghiêm đã trả lời vô cùng chính xác, rõ ràng một số vấn đề: chúng tôi là ai, chúng tôi sao đến đây, chúng tôi nay phải làm cái gì, chúng tôi vì sao phải tu hành, chỗ nào là chỗ quay trở về thật sự của chúng tôi, lại nữa tất cả khi nào bắt đầu, và khi nào kết thúc.
Chương tiết cuối cùng của Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật không hỏi mà tự mình thuyết, là vì Đức Phật biết thính chúng đương thời không có người nào hiểu được, không có người nào biết phải thưa hỏi như thế nào, nên phần này là chỉ nam thiền tu vô thượng, trong đó Đức Phật đã tường tận miêu tả trên con đường tu học của chúng ta, có thể gặp phải những cảnh giới bất đồng, và chỉ dạy cho chúng ta, như thế nào để tránh rơi vào hố bẫy tự ngã. Đoạn kết của phần kinh văn này, Đức Phật nói:
A Nan, thị ngũ thọ ấm, ngũ vọng tưởng thành. Nhữ kim dục tri nhân giới thiển thâm, duy sắc dữ không, thị sắc biên tế, duy xúc cập ly, thị thọ biên tế; duy ký dữ vọng, thị tưởng biên tế; duy diệt dữ sanh, thị hành biên tế; trạm nhập hợp trạm, quy thức biên tế. Thử ngũ ấm nguyên, trùng điệp sanh khởi, sanh nhân thức hữu, diệt tùng sắc trừ. Lý tắc đốn ngộ, thừa ngộ tịnh tiêu; sự phi đốn trừ, nhân thứ đệ tận.
Dịch: A Nan nên biết, năm thứ thọ ấm là do năm thứ vọng tưởng tạo thành. Ông nay muốn biết, giới hạn mỗi ấm là sâu hay cạn, chỉ có Sắc Không, chính là biên giới của vùng sắc ấm, chỉ Xúc và Ly chính là biên giới của cái thọ ấm. Nhớ và Quên đây chính là biên giới của cái tưởng ấm. Diệt và Sanh đây chính là biên giới của cái hành ấm, thanh tịnh lại hợp với cái thanh tịnh, chính là biên giới của cái thức ấm. Căn nguyên năm ấm trùng điệp sanh khởi. Sanh thì do thức mà trở nên có, diệt thì từ nơi sắc ấm mà trừ. Lý thì đốn ngộ, thừa ngộ cùng tiêu. Sự thì không phải lập tức tiêu trừ, phải theo từng lớp mới dứt hết sạch.
Từ Thượng nhân giảng giải Kinh Lăng Nghiêm đến nay đã trải qua mấy chục năm. Trong bản tiếng Trung mới này chúng tôi cẩn thận sao chép và biên tập những lời giảng giải của Thượng nhân, hy vọng có thể tường tận như thực ghi lại những lời dạy của Thượng nhân về ý nghĩa thâm sâu vi diệu của Kinh Lăng Nghiêm, khiến cho người đọc hiểu rõ, tại sao Thượng nhân nhiều lần nhấn mạnh: Phải không ngừng học tập Kinh Lăng Nghiêm y theo Kinh Lăng Nghiêm tu hành; cùng với lời Thượng nhân khích lệ mọi người phải dụng tâm hộ trì kinh Lăng Nghiêm, tuyên dương Kinh Lăng Nghiêm, vì Kinh Lăng Nghiêm là lời giáo hối dạy dỗ vô cùng quan trọng của Đức Phật.
Những năm gần đây các vị đệ tử kính cẩn khắc ghi sự xem trọng của Thượng nhân về Kinh Lăng Nghiêm: Thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm, phiên dịch Kinh Lăng Nghiêm, giảng giải Kinh Lăng Nghiêm, hành trì kinh Lăng Nghiêm, hộ trì Kinh Lăng Nghiêm, tuyên dương lưu thông Kinh Lăng Nghiêm. Tuy không phải mọi người đều có thể đốn ngộ nghĩa lý của kinh, nhưng mỗi một người đều có thể dần dần huân tu nghĩa lý tường tận trong Kinh.
Thông qua việc khai giảng Kinh Lăng Nghiêm khiến cho chúng tôi bước vào ngưỡng cửa Phật giáo, Thượng nhân không những đã bố thí pháp cho chúng tôi, mà còn ban cho chúng tôi sự Vô Úy. Lòng tin của Ngài đối với năng lực của các vị đệ tử, là sự khích lệ lớn lao dành cho chúng tôi, đem hết tất cả sự nỗ lực lớn nhất của mình dõng mãnh hướng về phía trước.
Lời ban biên tập: Pháp sư Hằng Trì là Tỳ Kheo Ni quốc tịch Mỹ, là một trong năm vị Tỳ Kheo theo Thượng nhân xuất gia sớm nhất, đã được Thượng Nhân giáo hối 26 năm, cho đến nay đã xuất gia được 40 năm.
Lời tựa của ban biên tập
Tháng 11-2008 tại California nước Mỹ
Kinh Lăng Nghiêm là một bộ Kinh trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật, năm 1968 Thượng Nhân Tuyên Hóa tại Phật Giáo Giảng Đường ở thành phố San Francisco nước Mỹ, tổ chức “Lớp giảng tu Lăng Nghiêm mùa hạ”.
Với thời gian 96 ngày, Thượng nhân đã giảng thuật suốt bộ Kinh Lăng Nghiêm cho hơn 30 vị sinh viên nước Mỹ, mở đầu sự nghiệp hoằng pháp cho người Tây Phương. Nội dung nghiên cứu học tập bao gồm: Kinh Tiền Huyền Đàm - nói về những nội dung trước khi vào Kinh, A Nan thị đọa, 3 lần phá thức, mười lần hiển kiến - trình bày cái thấy, bốn khoa bảy đại, từ căn giải kết, 25 bậc Thánh trình bày sự viên thông, bốn loại thanh tịnh minh hối, Lăng Nghiêm thần chú, 12 loại chúng sanh, lịch vị tu chứng, thất thú, 50 cảnh giới ấm ma… để giáo đạo chúng tôi từ căn bản bước vào, từ tự tánh tu tự tánh, là tiêu trừ những vọng tưởng điên đảo của chúng tôi, để đạt đến cảnh giới phá mê hiển chánh, ngược dòng mê quay về bờ giác.
Lớp giảng tu Kinh Lăng Nghiêm này mỗi ngày từ 6 giờ sáng cho đến 9 giờ tối, mỗi ngày giảng kinh một lần, dần dần lên đến 2 lần, rồi đến 3 lần, cho đến 4 lần; trong thời gian này sinh viên thực tập tu hành thiền tọa. Sau khi giảng Kinh, Thượng nhân cùng với sinh viên nghiên cứu sâu vào, thảo luận nghĩa lý của Kinh, đối với những chỗ khó khăn nghi ngờ tiến hành hỏi và đáp, chỉ đạo cho việc thiền tọa.
Với sự giải hành đều xem trọng, dung hòa việc nghiên cứu thảo luận Kinh điển với thực tập thiền tu, phương pháp giáo hóa này ở các nước Tây Phương có thể xem là việc sáng lập đầu tiên.
Để cho sinh viên chuyên tâm học tập, Thượng nhân ngoài việc mỗi ngày giảng kinh ba bốn lần, tất cả việc lớn nhỏ trong chùa, cho đến việc mua đồ ăn, nấu đồ ăn, quét dọn đều do một mình Thượng nhân đảm nhiệm - Tinh thần vì pháp quên thân của Thượng nhân đã làm sinh viên cảm động, thậm chí phát tâm xuất gia, hiện này nghe đến việc này không ai mà không kính phục.
Vì sinh viên nghe pháp đều là những thanh niên Tây Phương sơ cơ, Hoa văn không phải là tiếng quốc ngữ cho nên Thượng nhân không đi theo phương thức giảng kinh của các vị đại đức xưa kia mà thay đổi thành văn giảng dễ hiểu, từng câu giảng giải giải thích; và khi dạy các thanh niên Tây Phương nhận thức tiếng Hoa, từ trong đó phân tích tinh tuỷ Phật pháp, với nội dung sâu sắc, lời lẽ dễ hiểu, hy vọng người đọc học tiếng Hoa khéo tự thể hội nghĩa lý của Kinh, chớ không dùng văn tự cạn cợt lặp lại mà bỏ đi nghĩa lý tinh thâm uyên bác của kinh; và hy vọng có thể phát dương rộng lớn, làm cho Kinh Lăng Nghiêm được lưu truyền rộng rãi, khiến cho người đời sau tu học có chỗ y cứ nương tựa, khiến chánh pháp được tồn tại lâu dài ở thế gian.
Lăng Nghiêm Kinh Thiển Thích, bản phát hành của lần đầu tiên kiết tập vì nhiều chỗ biên tập không thỏa đáng, nên làm mất đi diện mạo nguyên gốc thiển thích của Thượng nhân cùng với thâm ý ở trong đó. Để tu chỉnh nhiều chỗ thiếu sót ở trong bản này! Thượng nhân đã dặn dò biên tập lại, nên có lần kiết tập thứ hai này. Những năm gần đây, vì nhân lực có hạn của ban biên tập, được sự hiệp trợ của các đạo tràng phân nhánh các nuớc, cùng bắt tay hiệp lực biên soạn lại những lời giảng giải thích của Thượng nhân. Đồng thời cung kính nghe lại những băng ghi âm giảng kinh của Thượng nhân năm xưa, tiếp tục và cẩn thận ghi chép, thận trọng cân nhắc, gọt giũa biên soạn hiệu đính những lời giảng giải của Thượng nhân, tất cả đều đem hết sức khôi phục lại diện mạo ban đầu, giữ gìn bảo toàn tinh túy, để cầu mong lần xuất bản này sẽ phương tiện cho người hiện nay đọc hiểu.
Lại nữa thời đó thiết bị ghi âm còn có hạn, khiến cho những băng ghi âm giảng giải của Thượng nhân không có cách nào toàn thiện toàn mỹ, nếu y theo lần kết tập này, thì không tránh khỏi sự thiếu sót lỗi lầm; cho nên vào những năm 70, 80, 90 nhiều lần thỉnh cầu Thượng nhân giảng bù một vài đoạn nhỏ ở trong đó để bổ sung cho được đầy đủ. Ngoài ra vào năm 1987 – 1988, Thượng nhân cũng từng chủ trì buổi thuyết giảng “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực”, dùng phương thức kích thích não lực cho đệ tử và những người thời đó, để tập trung trí tuệ nghiên cứu thảo luận Kinh Lăng Nghiêm. Mọi người hoặc là giảng, hoặc là bình, ý kiến độc đáo, tuyệt vời vô cùng, Thượng nhân thì vẽ rồng điểm mắt, tùy thời mà bình giảng. Có thể nói học phong thịnh hành một thời. Đáng tiếc đương thời chỉ tiến hành cho đến quyển 1 rồi chấm dứt, lại nữa Thượng nhân cũng đã từng ở Vạn Phật Thánh Thành và Kim Luân Thánh Tự chủ trì khoá học “Ngũ Thập Ấm Ma Nghiên Thảo Phiên Dịch Hội”. Sau đó Thượng nhân vì bôn ba cứu thế độ nhân, không tránh khỏi sức khỏe suy kém, không còn tự thân chủ trì các khoá học như vậy được nữa.
Lần xuất bản mới này không những đem các lần giảng bù của Thượng nhân đưa vào trong phần giải thích vốn có, và cũng đem phần bình giảng, phân tích của Thượng nhân ở trong “Ngũ Thập Ấm Ma Nghiên Thảo Phiên Dịch Hội”, “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” cùng đưa vào phụ lục để tránh sự hối tiếc mất đi hạt châu quý giá. Những chỗ trùng lập thì cố gắng đưa vào trong phần giải thích vốn có, chỗ giống nhau thì bỏ đi, chỗ thiếu thì thêm vào; nếu có sự giải thích khác hoặc phát huy riêng, thì không có nhập chung vào mà ghi vào ở sau mỗi đoạn, mỗi mỗi đều ghi chú để tiện tham khảo.
Lại nữa bản Kinh Lăng Nghiêm Thiển Thích mới này, tài liệu phong phú, đặc biệt chia thành nhiều tập để in ấn, để tiện cho độc giả cầm đọc; nhưng lần xuất bản này theo thứ lớp, theo nghĩa mà chia tập, chớ không phải y theo quyển hoặc y theo số lượng. Ví dụ “25 bậc Thánh chứng viên thông” chiếm quyển 5 quyển 6 trong bộ kinh, nếu đưa toàn bộ phần này vào trong một tập, thì không phải càng tiện hơn cho việc nghiên cứu sao? Lại như Ngũ thập ấm ma gồm nửa phần sau quyển 9 cho đến hết quyển 10, nếu lấy phần “ngũ thập ấm ma” làm thành một tập, thì người đọc không cần qua tập khác mà vẫn có thể đọc thông suốt từ đầu cho đến cuối, thì không phải là vui sao? Nếu có một tập mà bao gồm hơn 2 quyển, thì người biên tập vẫn chú thích rõ ràng ở giữa 2 quyển để làm cho không mất đi sự hoàn chỉnh và nguyên mạo của Kinh văn.
Kinh Lăng Nghiêm từ xưa đến này phiên bản rất nhiều, mỗi mỗi đều có phần chênh lệch không nhất quán, mà kinh văn của bản này là Đại Tạng Kinh Càn Long và Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch Sớ của Giao Quang Pháp sư, trong đó có khi dẫn từ Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh giảng nghĩa của Pháp sư Viên Anh. Bị hạn chế phần mềm vi tính cũng như công tác dàn trang, một vài chữ xưa trong Kinh văn thì lấy chữ hiện đại thay thế ví dụ lấy chữ dâm bộ thủy 淫 thay thế cho chữ dâm bộ nữ 婬, lấy chữ biến bộ sước 遍thay cho chữ biến bộ xích 徧, lấy chữ tỳ bộ điền bên cạnh毗 thay cho chữ tỳ bộ điền trên đầu毘, lấy chữ tu bộ nhân 修 thay cho chữ tu bộ nhục脩, lấy chữ lưu ly 琉璃thay cho lưu ly 瑠璃 …
Cuối cùng kính xin được y theo lời dạy từ bi của Thượng Nhân, trong lần kiết tập thứ hai, chọn phần khoa phán của Ngài Pháp Sư Viên Anh đưa vào trong Kinh. Phần cương yếu và mục lục thì lấy phần khoa phán giản yếu Pháp sư Viên Anh làm chủ và dung hòa với các nhà khác để làm cho mạch lạc phân minh, đầu đuôi nhất quán thông suốt, ngắn gọn trong sáng dễ hiểu. Lần biên tập sửa chữa Kinh Lăng Nghiêm thiển thích này, trải qua thời gian mấy năm, nhưng những chỗ lầm lẫn sai sót vẫn e khó tránh, kính mong các vị độc giả hoan hỉ cho, hoặc có những chỗ chưa được tường tận chính xác, cũng kính mong các vị đại đức thùy từ chỉ dạy để cho được hoàn thiện, đây là chỗ tha thiết mong cầu của ban biên tập.
Hình ảnh
Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh quyển một
唐中天竺沙門 般剌密諦 譯
烏萇國沙門 彌伽釋迦 譯語
羅浮山南樓寺沙門 懷迪 證譯
菩薩戒弟子,前正議大夫,同中書門下平章事
清河 房融 筆受
Đường Trung Thiên Trúc sa môn Bát Lạt Mật Đế dịch
Ô Trường Quốc sa môn Di Già Thích Ca dịch ngữ
La Phù Sơn Nam Lâu tự sa môn Hoài Địch chứng dịch
Bồ tát giới đệ tử, Tiền Chánh nghị Đại phu, đồng Trung thư Môn hạ Bình chương sự
Thanh Hà Phòng Dung bút thụ
Kinh Tiền Huyền Đàm
Mười môn phân biệt
Nguyên văn:
壹‧總釋名題
大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經
一、七種立題
Âm Hán Việt:
Nhất: Tổng Thích Danh Đề
Đại Phật Đỉnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh
I. Thất chủng lập đề: bảy loại đặt tên kinh
Giảng:
“Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm”. Mười chín chữ này là tên, đề mục của bộ kinh này, cộng thêm chữ Kinh ở sau tổng cộng là hai mươi chữ; hai mươi chữ này là tên kinh. Mười chín chữ trước thuộc về “biệt danh” (tên riêng), một chữ sau là “thông danh” (tên chung). Biệt danh là gì? Biệt có nghĩa là phân biệt, là có chỗ khác biệt với các kinh điển khác, tên không giống nhau; chữ “Kinh” ở sau thì tương đồng, vì tương đồng cho nên gọi là thông danh. Một thông danh, một biệt danh. Thông danh là thông với các kinh, biệt danh là khác biệt với bộ kinh này. Do vì tên bộ kinh này không giống với tên các kinh khác, cho nên có hai cách gọi là thông danh và biệt danh.
Kinh điển do Đức Phật nói ra có bảy cách đặt tên. Bảy cách đặt tên này bao quát tất cả kinh điển Tam Tạng mười hai phần giáo do Như Lai thuyết ra, tất cả kinh điển đều không ra ngoài bảy cách đặt tên này. Ý nghĩa của bảy cách đặt tên này là gì? Tức là đơn tam, phục tam và cụ túc nhất.
Thế nào gọi là đơn tam? Đơn tam là Ba cách đặt tên theo một ý. Phục tam tức là song tam, có nghĩa là ba cách đặt tên theo hai ý. Ngoài ra còn có cụ túc nhất là một cách đặt tên đầy đủ cả ba ý nghĩa, tức là người, pháp và tỷ dụ.
Đơn tam là gì? Đơn tam gồm có: 1. Đơn Nhân lập đề, 2. Đơn Pháp lập đề, 3. Đơn Dụ lập đề
1. Đơn Nhân lập đề: là cách đặt tên theo người. Như “Phật thuyết A Di Đà Kinh”, “Phật thuyết A Di Đà”, vì Phật là người, A Di Đà cũng là người, cho nên gọi là đơn nhân lập đề.
2. Đơn Pháp lập đề: là cách đặt tên theo pháp. Như “Đại Bát Niết Bàn Kinh”, “Đại Bát Niết Bàn” là đơn pháp, vì chỉ dùng pháp để đặt tên cho kinh mà thôi, nên kinh này thuộc đơn pháp lập đề.
3. Đơn Dụ lập đề: Dụ là tỷ dụ, ví dụ, là cách đặt tên theo ví dụ. Như “Phạm Võng Kinh”, “Phạm Võng” là tỷ dụ. Bộ kinh này dùng tràng phan lưới báu của vua trời Đại Phạm làm tỷ dụ.
Lời Ban Biên Tập: Phạm Võng Kinh do ngài pháp sư Cưu Ma La Thập phiên dịch, được gọi là “Phạm Võng Kinh Bồ Tát Tâm Địa giới phẩm”, có lúc bỏ bớt đi chữ giới mà gọi là Phật thuyết Phạm Võng Kinh Bồ Tát Tâm Địa phẩm
Ở trên chỉ dùng một ý Nhân, Pháp, Dụ đặt tên, nên gọi là “đơn tam lập đề.”
Phục tam là gì? Phục tam là ba cách đặt tên theo hai ý, gồm có: 1. Nhân Pháp lập đề, 2. Nhân Dụ lập đề, 3. Pháp Dụ lập đề.
1. Nhân Pháp lập đề: Cách đặt tên theo người và pháp. Như “Văn Thù Vấn Bát Nhã Kinh”, “Văn Thù” là người, “Vấn Bát Nhã” là pháp, thế nên được gọi là Nhân Pháp lập đề. Có người, có pháp, dùng người và pháp hợp lại để đặt tên cho kinh.
2. Nhân Dụ lập đề: Cách đặt tên theo người và ví dụ. Như “Như Lai Sư Tử Hống Kinh”, “Như Lai” là người, “Sư Tử Hống” là ví dụ, ví dụ âm thanh thuyết pháp của Đức Phật như tiếng gầm của sư tử, nên đây gọi là Nhân Dụ lập đề, dùng người và ví dụ đặt tên cho kinh.
3. Pháp Dụ lập đề: Cách đặt tên theo pháp và ví dụ. Như “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh,” “Diệu Pháp” là pháp, “Liên Hoa” là ví dụ. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là đặt tên theo hai ý nghĩa là pháp và ví dụ nên gọi là Pháp Dụ lập đề.
7. Cách đặt tên theo người, pháp và ví dụ: Như tên trong Kinh “ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm”. Đại Phương Quảng là pháp, Phật là người và Hoa Nghiêm là lấy bông ví dụ cho nhân của vạn hạnh, trang nghiêm vô thượng ví dụ cho quả của đức Phật.
Thế nào gọi là cụ túc nhất? Là một cách đặt tên đầy đủ ba ý Nhân Pháp Dụ. Như “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh”. “Đại Phương Quảng” là pháp, “Phật” là người, “Hoa Nghiêm” là ví dụ, bộ kinh này dùng hoa để tỷ dụ với cái nhân của lục độ vạn hạnh, trang nghiêm quả đức vô thượng. “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh” có đủ pháp, người và tỷ dụ nên gọi là cụ túc nhất.
Đề mục hay tên của tất cả kinh điển không ra ngoài bảy loại trên. Đề mục của trăm ngàn bộ kinh điển trong Đại Tạng đều bao hàm trong bảy cách lập đề này, không có vượt ra ngoài.
Người giảng kinh cần phải thấu rõ bảy cách đặt tên này mới có thể giảng dạy kinh điển. Nếu ngay cả bảy cách đặt tên cũng không rõ, thì làm sao dạy người khác hiểu rõ được? Ví như bản thân không giác ngộ, thì làm sao dạy người khác giác ngộ được? Vì thế điểm này rất quan trọng.
Bảy loại lập đề này, phàm là người học Phật pháp, phải nên biết. Không giống như người nào đó, xem mới tới hai quyển rưỡi kinh, chưa xong đến ba quyển, không cần phải nói đến bảy loại lập đề, năm loại huyền nghĩa, mười môn phân biệt, người ấy ngay một huyền nghĩa, một môn phân biệt cũng không biết, mà đi khắp nơi tự xưng là “Pháp sư”, tự xưng là “đạo sư giáo hóa chúng sanh”; đó không khỏi quá tích cực, quá tiền tiến. Chưa thật sự hiểu rõ Phật pháp mà thuyết pháp, giảng kinh, thì dạy người ta đi đến địa ngục. Ngay chính họ cũng sẽ đến địa ngục nhưng tự họ lại không hiểu vì sao mà đến! Những người nghe cũng vậy, cũng không biết tại sao mình rơi vào địa ngục. Điều này thật quá đáng thương! Cho nên, người học Phật cần phải thật sự hiểu rõ Phật pháp, thật sự có trí huệ, sau đó mới đi giáo hóa chúng sanh, thì mới không bị sai lầm!
Đạo lý trong kinh Lăng Nghiêm, thuyết ra thật vô cùng vô tận. Lần giảng kinh này, tôi không giảng theo năm loại Huyền nghĩa của Thiên Thai tông mà giảng theo mười môn Phân biệt của Hiền Thủ tông.
Hiền Thủ tông và Thiên Thai tông là hai tông phái lớn của Phật giáo Trung Quốc. Tất cả các Pháp sư giảng kinh, có vị học theo Thiên Thai mà không hiểu Hiền Thủ, có người rõ Hiền Thủ mà không thông Thiên Thai, cho nên lúc giảng kinh không đạt được viên dung vô ngại. Nay tôi giảng bộ kinh “Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm” này là y theo “mười môn phân biệt” của Hiền Thủ tông để giảng giải.
Trước khi vào kinh, sẽ giảng về “mười môn phân biệt”, có mười môn để phân biệt tất cả kinh Phật.
Mười môn là: 1) Tổng thích danh đề; 2) Khởi giáo nhân duyên; 3) Tạng thừa nhiếp thuộc; 4) Nghĩa lý thâm thiển; 5) Năng thuyên giáo thể; 6) Sở bị cơ nghi; 7) Tông thú thông biệt; 8) Thuyết thời tiền hậu; 9) Lịch minh truyền dịch; 10) Biệt giải văn nghĩa.
Môn thứ nhất là “Tổng Thích Danh Đề”, tức là giải thích tên của bộ kinh một cách tổng quát. Bảy loại lập đề (bảy cách đặt tên) đã giảng ở trên là bảy phương pháp phân biệt tên của các kinh Phật. Bây giờ chúng ta hãy “Tổng thích danh đề,” giải thích tên của kinh này.
Tên của kinh là: “Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm”. Đây là tổng danh của bộ kinh này, cũng là biệt danh; biệt danh tức không cùng tên với các kinh khác, chỉ có bộ kinh này mới có tên này.
II. Thích Đại Phật Đảnh
Chữ đầu tiên là “Đại.” Sao gọi là Đại? Bởi nó chứa đựng bốn yếu tố lớn, là: đại nhân, đại nghĩa, đại hạnh và đại quả.
Nhân này là “Mật Nhân”, khác với các nhân khác. Nhân này là nhân bí mật, là nhân mà người không biết được, ngoại đạo không hiểu rõ, Nhị thừa cũng chưa phát hiện đến, cho nên gọi là mật nhân. Mật nhân này vô cùng to lớn, cho nên gọi là “Nhân lớn”.
Nghĩa lớn là nghĩa lý “Tu Chứng Liễu Nghĩa”, cũng đặc biệt lớn. Ý nghĩa này vô cùng lớn.
“Chư Bồ Tát Vạn Hạnh”, hạnh này rất lớn nên gọi là “hạnh đại”. “Thủ Lăng Nghiêm” là Quả lớn. Bởi bộ kinh này đầy đủ bốn cái lớn trên: nhân lớn, nghĩa lớn, hạnh lớn và quả lớn, nên gọi là “Đại.”
“Phật”: chúng ta mỗi người đều biết “Phật”. Quý vị thường nói, “Tôi tin Phật giáo, tôi học Phật pháp”. Nhưng “Phật” nghĩa là gì, giải thích ra sao? Phật là tiếng Ấn Độ, viết đủ là Phật-đà-da, là phiên âm của tiếng Phạn Buddha. Bởi người Trung Quốc thích giản lược nên bỏ hai chữ sau là đà-da, mà dùng chữ Phật ở đầu. Vì “đà-da” không có phiên dịch thành tiếng Trung, nên có người cho rằng chữ Phật là tiếng Trung, kỳ thực không phải, vì đó chỉ là tiếng phiên âm, chữ là tiếng Hoa, nhưng âm không phải. Thế thì, nếu dịch thành tiếng Hoa thì “Phật” kêu là gì? Phật dịch là “Giác”. Giác là giác ngộ. Giác ngộ không phải là một loại, mà là ba loại, ba loại giác ngộ là gì? Là: tự giác, giác tha, và giác hạnh viên mãn.
Thế nào là tự giác? Tự giác nghĩa là tự mình đã giác ngộ, không còn mê nữa; do vậy, khác với người thường. Cảnh giới của người Tự giác thì không giống với cảnh giới của phàm phu chúng ta, như quý vị và tôi hiện nay là những người phàm phu chưa giác ngộ. Nhưng Đức Phật tự mình đã giác ngộ rồi. Tự mình giác ngộ vẫn chưa đủ, Ngài còn Giác tha. Tự mình khai ngộ rồi lại tìm cách giúp người khác cũng được khai ngộ như mình, đó gọi là giác tha. Trong cái giác ngộ của chính mình (tự giác) và giác ngộ người khác (hay giác tha) có nhiều tầng bậc và trình độ khác nhau bởi vì căn tánh của mỗi người không giống nhau. Vì giác ngộ có tiểu ngộ – giác ngộ chưa viên mãn, và đại ngộ – giác ngộ đã viên mãn. Đức Phật đã đạt đến đại giác ngộ, và cũng khiến cho người khác được đại giác ngộ. Khi tự giác đến được viên mãn và giác tha cũng đã viên mãn thì gọi là “Giác hạnh viên mãn”. Ba loại giác ngộ ở trên đều viên mãn, tức là “vạn đức trang nghiêm”. “Tam giác viên, vạn đức bị, cố danh vi Phật”, ba sự giác ngộ: tự giác, giác tha, giác hạnh đều viên mãn, và đầy đủ muôn ngàn đức hạnh, nên gọi là Phật.
Tại sao chúng ta phải tin Phật? Vì Phật chính là chúng ta. Chúng ta vốn là Phật, song chỉ vì hiện nay mê hoặc cho nên không thể chứng được quả vị Phật. Tại sao nói chúng ta vốn là Phật? Vì đức Phật đã nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể làm Phật. Nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên không thể chứng đắc”. Nếu tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng tại sao vẫn chưa thành Phật?
Chỉ vì “vọng tưởng chấp trước”. Có vọng tưởng, lại có chấp trước. Hết nghĩ đông đến nghĩ tây, hết nghĩ nam đến nghĩ bắc, nghĩ trên nghĩ dưới, trên trời dưới đất, không có chỗ nào mà không nghĩ đến. Vọng tưởng quá nhiều, đếm không xuể. Quý vị nói xem, trong ngày quý vị có bao nhiêu lần vọng tưởng? Quý vị biết có bao nhiêu không? Nếu biết, thì quý vị đã là Bồ tát rồi, vì quý vị không biết nên quý vị vẫn là phàm phu.
Chúng ta không những vọng tưởng mà lại còn chấp trước. Chấp trước những gì? Chấp trước cái này là của tôi, cái kia cũng là của tôi. Tất cả những hưởng thụ vật chất đều không buông bỏ được, sự hưởng thụ tinh thần càng không nói đến! Vì thế có các thứ chấp trước, nói: “A! Chiếc máy bay này là của tôi”, “A! Tôi có chiếc xe hơi đời mới, thật là tuyệt đẹp!” Mình có cái gì bèn chấp trước cái đó. Người nam có chấp trước của người nam, người nữ thì có cái chấp trước của người nữ, người thiện có cái chấp trước của người thiện, kẻ ác có cái chấp trước của kẻ ác… Vô luận là chấp trước vào cái gì, người mà có chấp trước thì không thể thoát khỏi, không thể buông bỏ. Họ cứ nắm mãi, càng có thì càng chấp thêm. A! Có các chấp trước này thì không phải là việc hay đâu! Chấp trước hưởng thụ, thì ưa thích ăn đồ ngon, ở nhà đẹp, du lịch vui chơi khắp nơi. Quý vị cho đó là tốt à? Chưa chắc là việc tốt đâu, quý vị đâu biết rằng, chính bởi do tham thích hưởng thụ mà không thể thành Phật. Cho nên Đức Phật nói: “Do bởi vọng tưởng và chấp trước mà tất cả chúng sanh không thể chứng đắc, mà không thể thành Phật”.
Phật đã từng nói: “Cuồng tâm nhược hiết, hiết tức Bồ đề”. Đó là đạo lý trong Kinh Lăng Nghiêm giảng dạy, ý nói tâm cuồng vọng tự đại của quý vị, tâm hiếu kỳ, ham thích những việc cao xa, tâm khinh thường kẻ khác! Loại người nghĩ mình là thông minh, mình là hay giỏi hơn mọi người. Ví như người ấy vốn rất xấu xí, vậy mà nói rằng: “A, tôi xinh lắm!”. Quý vị xem, chấp trước lớn như vậy! Mình vốn rất xấu, lại nói mình rất đẹp, đó đều là chấp trước. Nếu quý vị ngừng chỉ cái cuồng tâm chấp trước đó; “hiết tức Bồ đề”, cuồng tâm vừa hết, thì chính đó là Bồ đề. Bồ đề là gì? Chính là “giác đạo”, là khai ngộ, khai ngộ thì cách thành Phật không xa. Nếu quý vị có thể ngừng đi cái tâm cuồng vọng của quý vị, thì chính là chỗ tốt lành của quý vị.
Ba loại giác ngộ: “tự giác” là sự khác biệt giữa phàm phu và các bậc A la hán, phàm phu tức là “bất giác” – không giác ngộ; tự giác là tự mình đã giác ngộ. Người đã giác ngộ là người nào? Tức là A la hán và Bích chi Phật. Bích Chi Phật là tiếng Phạn, gọi đủ là “Bích-chi-ca-la” (Pratyekabuddha), ở Trung Quốc gọi là Bích Chi Phật. Bích Chi Phật do tu Thập Nhị Nhân Duyên mà ngộ đạo, còn các vị A la hán thì do tu pháp Tứ Đế mà đắc thành.
Tự giác là khác với phàm phu, còn “giác tha” thì khác với Nhị thừa – không giống với Nhị thừa. Giác tha là gì? Giác tha thì cần phải phát tâm Bồ tát, Bồ tát là giác tha, cũng có thể nói là lợi tha. Ai có thể thực hành hạnh lợi tha? Chính là Bồ tát. Bồ tát khác với Nhị thừa, và Thanh văn Duyên giác lại không giống nhau. Thanh văn, Duyên giác chỉ biết tự giác mà không chú trọng việc giác tha; Bồ tát thì phát tâm giác tha, lợi tha.
Vậy thì, Bồ tát và Thanh văn Duyên giác là hai người khác nhau hay là cùng một người? Thanh văn là A la hán, Duyên giác là Bích chi Phật, Bồ tát là Bồ đề tát đỏa. Vậy rốt cuộc ba bậc đó là một người, hay là hai người hay là ba người tu thành? Đây có thể nói là một người, cũng có thể nói là ba người? Vì sao như vậy? Vì có thể có một người trước tu Thanh văn, sau đó lại tu Duyên giác, rồi sau đó từ Duyên giác mà tu Lục độ vạn hạnh của Bồ tát, một người mà bao biện tất cả, tu nhiều hạnh, nhiều pháp môn như thế, cho nên có thể nói là một người.
Nhưng, lại có thể nói là ba người. Sao lại là ba người? Người thứ nhất tu Thanh văn, sau khi tu chứng ngộ không còn muốn cầu tiến thủ, tự mình liễu ngộ cho mình: “Tôi đã khai ngộ rồi, tôi đã hiểu rõ rồi, tôi không quản người khác, người khác tôi không màng đến”, ngừng ngay ở trình độ A la hán, không tiến lên trên con đường Bích Chi Phật nên đó là một người. Có người khác tu đắc quả A la hán, sau đó tiến lên quả vị Bích chi Phật; ở quả vị này rồi thì không tiến nữa, đây là hai người. Thêm người ở trên nữa, là người trước tu Thanh văn, sau đó lại tu Duyên giác, rồi sau đó từ Duyên giác mà tu Lục độ vạn hạnh của Bồ tát, nên đó là ba người.
Thế nên ba loại giác ngộ, đạt đến quả vị Bích Chi Phật cũng chỉ là tự giác, không phải giác tha, đến Bồ tát thừa mới là giác tha. Bồ tát do tu lục độ vạn hạnh - tu sáu ba la mật, vạn hạnh trang nghiêm mà thành Bồ tát. Thành Bồ tát, lại tinh tiến hành Bồ tát đạo, hành cho đến khi viên mãn, đó gọi là giác hạnh viên mãn, bèn thành Phật. Cho nên muốn “giác hạnh viên mãn” thì không được rời hạnh Bồ tát. Phật và Bồ tát lại không giống nhau, Phật thì giác hạnh viên mãn, khác với Bồ Tát. Ba loại giác ngộ, trong đó có rất nhiều cấp bậc, nếu muốn thực hành thì thiên sai vạn biệt, trong từng trình độ lại có trình độ, trong khác biệt lại có khác biệt, rất là phức tạp. Tóm lại viên mãn ba loại giác ngộ rồi thì thành Phật.
“Đảnh”: có nghĩa là chỗ tối cao vô thượng, không còn cái gì có thể cao hơn gọi là Đảnh, giống như trên đảnh của chúng ta gọi là đảnh đầu, trên đảnh đầu là trời, cho nên gọi là đảnh thiên lập địa, đầu đội trời chân đạp đất. Chúng ta, không chỉ là nam nhân mà nữ nhân cũng vậy, vì ở nước Mỹ, không nên quên người nữ, nữ nhân cũng là đảnh thiên lập địa, đầu đội trời chân đạp đất. Đó là đảnh đầu – đảnh ở trên đầu.
Vậy thì ba chữ “Đại Phật Đảnh” hợp lại, dù tôi không giảng, cũng tin rằng mọi người đều hiểu rõ, đó là chỉ cho cái đảnh của vị Đại Phật, một vị Phật lớn. Phật lớn là bao lớn? Đem thước đo, có lớn bằng tượng Đức Phật trong Chánh Điện này không? Thực ra, Đức Phật trong Chánh Điện đây không phải là vị Phật lớn, mà chỉ là một giọt nước trong bể cả, như một hạt bụi tí trong Tam thiên thế giới. Quý vị không nên lầm cho rằng đó là Phật lớn. Vị Phật lớn thì không có gì lớn bằng; lớn mà không ở ngoài, nên gọi là “Đại”. Vậy đây là Phật nào? Là vị Phật biến mãn khắp mọi nơi, không có chỗ nào có, không chỗ nào mà không có. Vậy Ngài ở chỗ nào? Chỗ nào Ngài cũng không có. Vậy chỗ nào Ngài không có? Thì chỗ nào Ngài cũng đều có.
Quý vị nói xem Ngài là lớn hay là nhỏ? Quý vị không có biện pháp nào đo lường được độ lớn của cái lớn này. Lớn đến trình độ nào mới là cái lớn thật sự? Đến cái lớn không còn nữa, không còn cái nào lớn hơn cái lớn này, đó mới là cái lớn nhất.
“Vậy ai lớn nhất?”
Là Đại Phật. Mà vị Đại Phật ấy là ai? Chính là quý vị! Cũng chính là tôi.
Nói: “Nhưng con không có lớn như vậy, và theo như con thấy, Thầy cũng không có lớn như thế. Tại sao Thầy lại nói chính là con, chính là Thầy lớn như vậy?”
Nếu không phải là quý vị không phải là tôi, thì nói người khác làm gì? Chính vì có sự quan hệ giữa tôi với quý vị, cho nên kinh mới đề cập đến. Vậy thì chúng ta tại sao mà to lớn như thế? Tôi nói cho quý vị biết Phật tánh của chúng ta thì rất lớn, chúng ta đều đầy đủ Phật tánh vốn có này, chính là vị “Phật lớn” này. Vị Phật này lớn không có gì sánh bằng, nên gọi là Đại Phật.
Không những là Phật lớn, mà là đảnh của vị Phật lớn. Vị Đại Phật này, vốn không có gì lớn hơn cao hơn; nhưng mà lại có cái đảnh, cái cao hơn Đại Phật là cái “đảnh” trên đầu của Ngài. Ba chữ đại Phật đảnh này, tôi không giảng quý vị cũng có thể hiểu rõ. Trên đảnh của vị Phật lớn lại hiện ra một vị Phật lớn nữa.
Nói: “Vị Phật lớn đó bao lớn?”
Vị Phật lớn đó thì không thấy được, cho nên trong bài kệ của chú Lăng Nghiêm nói: “Vô kiến đảnh tướng phóng quang Như Lai tuyên thuyết thần chú”.
“Vô kiến đảnh tướng thì không hiện hữu, là không có vì vô kiến (không thấy) mà! Đã không thấy, sao lại nói là có vị Phật lớn?”
Nhìn không thấy, đó mới chính là lớn! Vì sao? Vì lớn đến độ quý vị nhìn không thấy. Nếu Phật không lớn, tại sao quý vị không nhìn thấy?
“Làm sao mà không thấy được? Quá nhỏ con mới không thấy, nếu lớn thì con có thể nhìn thấy”.
Nếu là lớn thì quý vị có thể nhìn thấy được hay không? Bầu trời lớn như thế, quý vị có thể thấy hết không? Quý vị thấy không suốt hết đâu. Đất lớn như vậy, quý vị có thể hoàn toàn thấy hết diện tích của đất không? Không thấy hết được. Do vì thấy không được mới thiệt là lớn. Nếu không lớn, quý vị có thể thấy được. Cho nên nói “Vô kiến đảnh tướng, phóng quang Như Lai, tuyên thuyết thần chú”.
“Đại Phật đảnh” này tức là Vô kiến đảnh tướng của vị Phật lớn phóng hào quang.
Hào quang ấy bao lớn?
Quý vị nghĩ xem, là Đại Phật, Ngài có thể nào phóng hào quang nhỏ không? Đương nhiên là phóng hào quang lớn rồi! Vì thế Phật lớn thì phóng hào quang lớn. Hào quang lớn này chiếu cùng khắp tất cả mọi nơi.
Hỏi: “Hào quang ấy có chiếu đến con không?”
Chiếu đến quý vị từ lâu rồi!
Nói: “Tại sao con không biết?”
Quý vị muốn biết phải không? Tôi đã từng nói: “Tâm thanh thủy hiện nguyệt, ý định thiên vô vân”. Tâm của quý vị nếu thanh tịnh đến cực điểm, hào quang của Phật sẽ chiếu đến quý vị. Tâm không thanh tịnh, giống như hồ nước dơ, ánh sáng mặt trăng không chiếu xuống nước dơ được; nếu nước trong sạch, ánh trăng sẽ chiếu đến vào trong nước. Tâm thanh tịnh như ánh trăng sáng chiếu đến hồ nước trong. Hào quang của Phật lúc đó sẽ chiếu đến tâm chúng ta. “Ý tịnh thiên vô vân”, ý niệm của quý vị nếu định thì giống như trên trời không mây vậy, cảnh giới này vi diệu không thể nói được. Nếu mỗi người thật sự thanh tịnh hóa tâm mình, thì có thể đắc được định lực của Lăng Nghiêm Đại Định.
III. Thích Như Lai Mật Nhân
Như Lai: “Như” tức là không có gì mà không như như bất động (vô sở bất như). “Lai” tức là không có nơi nào mà không đến (vô sở bất lai). Như là bổn thể của pháp, bổn thể của Phật pháp là Như, dụng của Phật pháp là Lai; đó là hai chữ, thể dụng. Như như bất động, đến mà không đến. Nên nói rằng:
Như như bất động,
Đến rồi lại đến,
Đến mà không đến.
“Nếu vậy thì Ngài đi đâu?”
Không đi tới một nơi nào.
“Vậy Ngài từ đâu đến?”
Cũng không từ nơi nào đến.
Nên kinh Kim Cang nói: “Như Lai giả, vô sở tùng lai, diệt vô sở khứ”. Cũng không đến chỗ tôi, cũng không đi đến chỗ quý vị; mà cũng ở nơi quý vị, cũng ở nơi tôi, đó chính là “Như Lai”.
Như Lai là một trong mười hiệu của Phật. Phật có mười danh hiệu. Mỗi vị Phật ban đầu có bao nhiêu danh hiệu? Ban đầu mỗi vị Phật có một vạn danh hiệu. Sau đó mới giảm ít đi, vì người nhớ không nỗi. Sau đó mới giảm xuống mỗi vị Phật một ngàn danh hiệu, nhưng một ngàn danh hiệu người ta nhớ cũng không nỗi, cho nên lại giảm xuống một trăm danh hiệu, mỗi vị Phật có một trăm danh hiệu không giống nhau. Không những vị Phật này có một trăm danh hiệu không giống nhau, mà mỗi vị Phật đều có một trăm danh hiệu không giống nhau. Vậy mà chúng sanh vẫn không nhớ nỗi, cho nên lại giảm, giảm đến chỉ còn mười danh hiệu. Mười danh hiệu này, cũng chính là danh hiệu chung của mỗi vị Phật.
Mười danh hiệu của Đức Phật là gì? Danh hiệu thứ nhất là Như Lai. Như Lai là nương tựa vào đạo như thực mà đặng chánh giác, tức là thành Phật.
Danh hiệu thứ hai là Ứng Cúng, ý nói là bậc xứng đáng được trời người cúng dường.
Ba là Chánh Biến Tri.
Bốn là Minh Hạnh Túc.
Năm là Thiện Thệ Thế Gian Giải.
Sáu là Vô Thượng Sĩ.
Bảy là Điều Ngự Trượng Phu.
Tám là Thiên Nhân Sư.
Chín là Phật.
Mười là Thế Tôn.
Mỗi vị Phật đều có mười danh hiệu như thế. Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật.
“Mật Nhân”: Mật nhân là gì? Mật nhân chính là bổn thể định lực của mỗi người chúng ta. Tại sao là Mật nhân mà không gọi là Hiển nhân? Vì bổn thể định lực này mỗi người đều có sẵn, đều vốn đầy đủ, không ai mà không có, song mỗi người tự mình lại không biết, bởi vì không biết nên mới gọi là Mật nhân, biến thành bí mật. Cái bí mật này chính là bổn thể định lực. Bổn thể định lực này chính là bổn thể định lực của Như Lai; bổn thể định lực của Như Lai cũng chính là bổn thể định lực của tất cả chúng sanh. Cũng chính là mọi người đều có bổn thể định lực này, nhưng chỉ vì tự mình không biết, không phát giác ra mà thôi. Vì không biết nên gọi là Mật nhân.
IV. Thích Tu Chứng Liễu Nghĩa
“Tu Chứng Liễu Nghĩa”: Mật nhân này là để làm gì? Chúng ta cần phải tu nó thì mới chứng đắc mà thành Chánh quả được. Cần phải tu, nhưng tu như thế nào? Tham thiền hay niệm Phật đều là tu. Nhưng chữ “tu” ở đây là chỉ cho tu tham thiền, cần phải chuyên tu tham thiền mới có thể chứng đắc. “Chứng” này là “chứng đắc”. Chứng đắc cái gì? Chứng đắc nghĩa lý “liễu nghĩa”
“Liễu nghĩa” là gì? “Nghĩa” là ý nghĩa. Liễu nghĩa tức là nghĩa đã liễu rồi thì không còn ý nghĩa nữa. “Thế thì nó là vô nghĩa, không có ý nghĩa gì cả?”
Chúng ta những phàm phu, làm nhiều việc không chút ý nghĩa gì cả, đó là không có ý nghĩa. Nhưng cái “liễu nghĩa” này có nghĩa là đối với tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian là đã chứng đắc hoàn toàn, không thừa sót. Không còn pháp để tu, không còn pháp gì để chứng, đó cũng chính là “Quân bất kiến! Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân, bất trừ vọng tưởng bất cầu chân” trong “Chứng Đạo Ca” của Vĩnh Gia Đại Sư.
“Tuyệt học” là cái học tối cao, cái học mà không còn học nữa; “vô vi” là không làm nữa; “nhàn đạo nhân” là người ung dung thanh tịnh nhàn nhã, cái gì cũng không làm hết. “Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân”: Không trừ vọng tưởng, cũng không cầu chân lý. Tại sao không trừ vọng tưởng? Vì đã trừ hết rồi, vọng tưởng không còn nữa, nên mới không trừ. “Bất cầu chân”, vì chân đã đạt đến rồi, cho nên không cần cầu nữa. Quý vị chưa đạt đến mới cần cầu; người đã đạt đến chân lý rồi, nên không cần thiết phải cầu chân lý nữa. Chưa trừ sạch vọng tưởng mới cần trừ vọng tưởng, vọng tưởng đã không còn, thì không cần phải trừ nữa. Vì thế! Liễu nghĩa chính là ý này. Liễu nghĩa còn có nghĩa là tất cả nghĩa lý của Phật thuyết ra đã chứng đắc vô dư, không còn pháp có thể chứng, đã học đến chỗ rốt ráo, đã học đến chỗ không còn phải học nữa.
“Không liễu nghĩa” thì vẫn còn ý niệm, chờ đến lúc ý nghĩa gì cũng không còn, khô sạch mà thanh tịnh, thì đạt đến Mật nhân, cái bổn thể chánh định, và đó chính là tu chứng thành công mà đạt đến cảnh giới liễu nghĩa. Nếu quý vị không tu, thì không thể chứng đắc cảnh giới liễu nghĩa này. Cho nên, liễu nghĩa cũng chính là đại nghĩa, đại nghĩa bao gồm tất cả nghĩa.
Nói: “Nhưng Thầy nói liễu nghĩa là không còn gì nữa?”
Không còn nữa mới chính là thực sự có (chân hữu), nếu quý vị còn “có” thì không phải là thực sự có. Cho nên chứng đắc liễu nghĩa rồi thì không còn nghĩa nào có thể chứng đắc nữa, mà đã đạt đến cực điểm, tức gọi “liễu nghĩa”. Cực điểm là đến trình độ nào? Chính là đạt đến cảnh giới Phật, chứng đắc quả vị Phật.
V. Thích Chư Bồ Tát Vạn Hạnh
Nhưng muốn đạt đến cảnh giới Phật, thì cần phải hành Bồ tát đạo, nên nói “Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh”.
“Chư Bồ tát”: “Chư” ý nói là có rất nhiều rất nhiều, phải giải thích làm sao? Cũng có thể nói là “nhất thiết Bồ tát”. Nhất thiết Bồ tát lại bao gồm bao nhiêu? Nhiều là bao nhiêu? Nhiều đếm không hết, nói chung thì có năm mươi lăm đẳng vị. Năm mươi lăm đẳng vị này, sau sẽ giảng đến, bây giờ không giảng tỷ mỷ. Năm mươi lăm đẳng vị này gồm có: “Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa”, thêm vào Tứ Gia Hạnh, lại thêm vào “Đẳng Giác”. Mỗi đẳng bậc bao gồm hàng ngàn hàng vạn Bồ tát, cho nên năm mươi lăm đẳng bậc này, không phải chỉ có năm mươi vị Bồ tát, mà bao gồm vô lượng vô biên Bồ tát. Tóm lại có năm mươi lăm đẳng vị; vì bao gồm năm mươi lăm đẳng vị này, cho nên gọi là “Chư Bồ Tát”.
Vạn Hạnh: Còn “Vạn Hạnh” là gì? Tức là pháp môn tu hành rất nhiều. Nhiều là bao nhiêu? Có tám vạn bốn ngàn pháp môn! Vốn có thể nói là tám vạn bốn ngàn hạnh môn, ở đây tựa kinh đơn giản nói là “vạn hạnh”. “Vạn hạnh” là sở tu của Bồ tát.
Bồ tát không những tu vạn hạnh mà còn phải tu lục độ. Lục độ là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và Bát nhã.
1. Bố thí ba la mật: bố thí có ba loại, chứ không phải chỉ có một loại. Ba loại là gì? Là: 1.Tài thí, 2. Pháp thí, và 3. Vô úy thí.
1. Tài thí: “Tài” là chỉ tất cả tài sản vàng bạc, là thứ mà mỗi người đều quý trọng không nỡ xả bỏ, mà cũng là đồ nhơ bẩn nhất, không thanh tịnh nhất trên thế gian. Tiền bạc của chúng ta đếm lại đếm đi, không biết ở trên tay bao nhiêu người, trên đó không biết chứa đựng bao nhiêu là vi trùng, những thứ vi trùng này very dirty, rất dơ. Money is very dirty, tiền thì rất dơ. Why is it very dirty? Tại sao rất dơ? It's touched by every person's hand, vì bị mỗi người đụng tới. There are germs in this money, có rất nhiều vi trùng trên tiền.
Cho nên trong Phật giáo gọi tiền là “vật bất tịnh”. Vật bất tịnh vì nó là thứ không sạch sẽ. Tại sao gọi nó là thứ không sạch sẽ? Thứ nhất vì nguồn gốc không sạch, không rõ ràng, hoặc là trộm, hoặc là cướp, vì lai lịch không chánh đáng nên gọi là bất tịnh. Có người nói “Tiền mà tôi làm công kiếm được, không phải là bất tịnh?” Tiền mà quý vị làm công kiếm được, tuy lai lịch là chánh đáng, nhưng bổn thân của tiền chứa rất nhiều vi trùng. Quý vị xem, tiền không sạch sẽ như thế, nhưng mà mỗi người đều thích nó, đếm tới đếm lui, có người đếm tiền thì bôi nước miếng để đếm, trong đó rất dễ lây bệnh truyền nhiễm. Tại sao vậy? Vì trên những đồng tiền đó có rất nhiều vi trùng lây bệnh.
Tiền là thứ không sạch sẽ, nhưng mỗi người đều thích nó, càng nhiều càng tốt, bao nhiêu cũng cho không đủ. Tất cả tiền của nước Mỹ cho hết tôi, tôi cũng không cho là nhiều; cho hết quý vị, tin rằng quý vị cũng không cho là nhiều, nhưng tiền nhiều rồi, thì khuyết điểm cũng nhiều theo! Khuyết điểm gì? Ngũ không được, tính lại tính đi, ta có nhiều tiền như thế, để chỗ nào đây? Cứ thường tính toán như thế, vì thế tiền vốn là thứ không tốt. Tuy là một thứ không tốt như vậy mà mọi người đều thương tiếc như chính thân mạng của mình, mà không nỡ xả bỏ. Nếu quý vị có thể xả bỏ đó chính là bố thí; bố thí cho người chính là hành Bồ tát đạo. Bồ tát tu lục độ vạn hạnh, điều thứ nhất là cần phải bố thí, chính là đem tiền của mình bố thí cho người, giúp đỡ người, đó gọi là tài thí, dùng tiền bạc bố thí cho người.
Nhưng bố thí không phải là việc dễ làm, tâm của người thuộc “âm dương giao quan xứ”, là chỗ giáp mối của âm và dương; lại là “lý dục chiến tranh trường”, là chiến trường giữa lý và dục, lý là đạo lý, dục là desire, là dục vọng, là sự khát khao của con người. Chiếu theo đạo lý thì nói: “Tôi muốn bố thí, tôi thấy người đó gặp phải khó khăn, không có cơm ăn, tôi muốn cho ông ta một đồng, để ông ta đi mua cơm”, bèn đút tay vào túi lấy tiền ra cho. Nhưng, ngay trong lúc đó niệm thứ hai lại khởi lên: “Không được! Nếu mình cho ông ta một đồng, mình không còn tiền đi xe buýt, mình phải đi bộ, cái này… thôi đừng cho!” Cho nên, niệm thứ nhất thì muốn xả, niệm thứ hai thì sao? Thì lại nghĩ đến việc mình muốn đi xe buýt, bèn bỏ tiền trở lại túi, không muốn bố thí.
Như thế, từ vật nhỏ đến vật lớn – từ một đồng cho đến mười đồng, trăm đồng, ngàn đồng, vạn đồng, vạn vạn đồng đều là như vậy. Niệm đầu tiên muốn xả để bố thí, nhưng niệm thứ hai nghĩ đến mình: “Tôi muốn đi ăn, tôi không có tiền”, nên không giúp đỡ người nữa. Tài thí thật không dễ dàng. Thậm chí còn có tư tưởng: “Tôi bố thí, cho tiền người khác là tôi quá ngu. Tại sao người ta lại không bố thí tôi!” Thường trong lúc muốn bố thí, đồng thời cũng sanh ra cái tâm tự lợi; do vậy, bố thí nói thì dễ, lúc làm thì khó.
2. Pháp thí: Thế nào là pháp thí? Pháp thí là bố thí pháp. Như nay tôi giảng kinh thuyết pháp cũng chính là bố thí pháp. Có câu rằng: “Chư cúng dường trung, pháp cúng dường tối”, trong các cách cúng dường, pháp cúng dường là cao thượng nhất. Vì sao? Bởi vì bố thí tiền bạc thì có hạn lượng, bố thí pháp thì không có hạn lượng. Như tôi nay giảng kinh, quý vị nghe một câu kinh điển, nếu có thể khai ngộ, thật sự hiểu rõ, chứng đắc một cảnh giới, như vậy công đức của tôi rất lớn. Tại sao vậy? Vì tôi giảng kinh thuyết pháp có thể giúp quý vị thành Phật, quý vị thành Phật là do tôi giảng kinh thuyết pháp giúp quý vị thành, cho nên công đức pháp thí là lớn nhất.
3. Vô Uý Thí: Lại còn có vô úy bố thí. Bố thí vô úy là gì? Lúc người gặp phải những việc tai bay họa gởi, hoặc gặp những việc hoạnh nghịch. Gì là hoạnh nghịch? Như gặp phải những việc cướp bóc, hỏa tai, hoặc gặp những việc sợ hãi kinh hoàng. Lúc kinh hoàng sợ hãi, mình cho người ta sự an ủi giúp đỡ, nói: “Anh không nên sanh lòng lo lắng, bất cứ việc gì cũng có thể từ từ giải quyết!” Như có một bà làm mất tiền. Hôm đó tôi nhìn thấy gương mặt bà rất lo lắng, bà hỏi tôi rằng:
- Ôi! Con đã làm mất túi tiền, làm sao bây giờ?
Tôi bảo:
- Bà không nên lo lắng, bà sẽ tìm được túi tiền.
Kết quả lời tôi nói quả nhiên linh nghiệm, bà đến chỗ đó tìm, túi tiền vẫn còn nguyên chưa mất. Đó là vô úy thí. Khiến người giảm đi nỗi sợ hãi lo âu, đó chính là vô úy thí. Ở đây đưa ra chỉ là những vấn đề nhỏ, những vấn đề lớn khác càng nhiều; nhưng nếu chúng ta biết được những vấn đề nhỏ, thì những vấn đề lớn cũng dễ dàng hiểu rõ.
2. Trì giới Ba La Mật: Ở trên là lược nói độ thứ nhất trong sáu độ – bố thí. Độ thứ hai là Trì giới. Điều quan trọng nhất trong Phật giáo là giới luật. Vậy giới là gì? Giới là “chỉ ác phòng phi”, chỉ ác là đình chỉ, ngưng lại tất cả những việc ác; phòng phi là đề phòng tất cả tội lỗi sai lầm. Những gì sai lầm, không đúng gọi là “phi”, còn là đúng thì gọi là “thị”. Giới cũng tức là “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” – tất cả việc ác đều không làm, tất cả những việc lành đều làm.
Tôi nói cho quý vị một việc: Lúc nhỏ tôi không hiểu toán, lại không biết đếm. I don't know how to figure. Tại sao không biết đếm? Có tiền tôi liền cho người, trừ phi không có tiền; có một đồng cho một đồng, có hai đồng cho hai đồng, tự mình không muốn tiền. Điều này đối với người thường mà nói, thì có phải là quá ngu hay không? Mình không hiểu cách giúp đỡ mình, chỉ đi giúp đỡ người, tôi còn nhỏ thì là như thế, luôn mong muốn giúp đỡ người. Giúp người chính là làm lợi cho người, lợi người là Bồ tát phát tâm, Bồ tát phát tâm là muốn có lợi ích cho người, không phải có lợi ích riêng cho mình, tự mình nhẫn chịu lao khổ nhọc nhằn, chịu chút oan ức cũng được, mình không làm người bị oan ức, bị khổ. Chúng ta nên phải phát tâm như vậy, đó gọi là tâm lợi tha. Tâm lợi tha chính là tâm Bồ tát, tâm Bồ tát chính là “chúng thiện phụng hành”, tất cả việc lành đều phải làm.
Chúng ta chớ nên: “Để tính toán xem, coi mình có bị lỗ lã thiệt thòi hay không? Có bị gạt không? Có được lợi lạc gì không?”.
Ví như đi mua đồ, đi đến rất nhiều tiệm, xem đồ của hãng này, xem đồ của hãng kia, rồi so sánh: “Giá cả của công ty này rẻ, đồ lại tốt, mình bỏ tiền ít hơn”.
Vì thế nên mua đem về; mua rồi mới biết đó là một loại đồ hóa học. Đồ hóa học, nhìn thì rất tốt, rất đẹp, nhưng vừa dùng không bao lâu đã hư rồi. Cho nên, tuy quý vị muốn lợi mà kết quả thì lỗ, đó là chỉ biết tính lợi ích của mình, chỉ muốn đem phần lợi về cho mình. Chúng ta cần phải vì người mà tính, không nên quá tính toán cho mình.
Trì giới là “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”.
Vậy giới có bao nhiêu loại? Giới có rất nhiều loại, căn bản nhất là năm giới. Người tại gia học Phật sau khi quy y Tam bảo, nếu muốn tiến thêm một bước, thì cần phải thọ ngũ giới, thọ xong ngũ giới muốn tiến thêm một bước thì thọ tám giới; tám giới xong, thì thọ mười giới; thọ mười giới chính là giới Sa di. Sau khi thọ Sa di giới, làm người xuất gia, lại phải thọ hai trăm năm mươi giới, đó là Tỳ kheo; Tỳ kheo ni cần phải thọ ba trăm bốn mươi tám giới. Bồ tát cũng có giới, Bồ tát giới có mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, mười giới nặng, bốn mươi tám giới nhẹ. Mười giới trọng là tội rất nặng, giới trọng đã phạm rồi thì không thể sám hối, phạm các giới khinh thì có thể sám hối, sửa đổi lỗi lầm.
Khi Phật sắp nhập Niết bàn, A Nan thỉnh Phật chỉ dạy bốn việc: “Khi Phật còn tại thế, dĩ Phật vi sư, lấy Phật làm thầy, Phật là Sư phụ của chúng con; sau khi Phật nhập Niết bàn, ai là Sư phụ của chúng con?”.
Đức Phật bèn nói với A Nan rằng:
- Sau khi ta nhập Niết bàn, các ông phải lấy giới làm Thầy.
Đó là bảo người xuất gia, bảo tất cả Tỳ kheo, Tỳ kheo ni là phải “lấy giới làm thầy”. Vậy người tại gia nếu muốn cầu thọ giới, nhất định phải đến vị xuất gia cầu giới. Truyền giới chính là truyền trao giới cho quý vị, và nhất định phải do Tỳ kheo truyền giới, Tỳ kheo ni không thể truyền giới. Trong giới luật của Phật, không cho phép Tỳ kheo ni truyền giới. Giới có giới Sa di, giới Tỳ kheo, giới Bồ tát… rất nhiều loại.
Chúng ta muốn tu đạo thì nhất định phải thọ giới, giữ gìn giới thể thanh tịnh giống như bảo châu Ma Ni, có giá trị vô cùng.
Trước đây mấy ngày, tôi có giảng về Luật sư Đạo Tuyên ở núi Chung Nam, Ngài vì trì giới tinh nghiêm cho nên có thiên nhân đến cúng dường. Vì thế, giới đức vô cùng quan trọng! Người học Phật nếu không giữ giới luật, thì tu cái gì cũng giống như cái bình thủng. Cái bình dưới đáy có lỗ thủng, đổ nước vào liền chảy ra ngoài hết. Nếu có thể giữ giới, lâu ngày thì sẽ trở thành vô lậu.
Thân thể của chúng ta đều là thân hữu lậu. Đạo lý hữu lậu này, tôi nay không thể công khai giảng cho quý vị được. Các vị ai muốn học pháp môn vô lậu thì từng người từng người thưa hỏi: “Thế nào mới có thể được vô lậu”, tôi sẽ giảng cho nghe. Vì nay công khai giảng ở chỗ này thì không có cách giảng. Quý vị ai muốn vô lậu, thì tranh thủ thời gian đến cùng tôi giảng.
Nay tôi giảng pháp vô cùng mầu diệu này, nhưng pháp diệu, cần có người diệu đến thỉnh diệu pháp này. Người diệu này chính là Dịch Tượng Càn, pháp danh là Quả Dung. Ông ta khoảng bốn năm năm về trước đến đây, lúc đó Giảng Đường Phật Giáo còn đang ở đường Tát Đức, ông ta đến Phật Giáo Giảng Đường học ngồi thiền một thời gian. Nay nghĩ hè cũng đến đây. Nếu như trước kia có lẽ đi xem phim, hoặc là đi đá độ, đánh bài, thường đi tìm các thứ vui chơi. Nay tại sao như thế? Ông ta đã bị gạt. Bị cái gì gạt? Bị học kinh Lăng Nghiêm gạt!
Có người vừa nghe nói bị gạt là lạnh mình, nói: “Lần này là chết rồi, bị gạt rồi!” Tại sao bị gạt? Pháp hội Lăng Nghiêm này là một pháp hội khổ nhất, cũng là một pháp hội khó nhất, từ sáu giờ sáng đến chín giờ tối. Có người nói: “Ngay trong trường cũng không có học nhiều như vậy!”
Nhưng hiện nay chúng ta là một trường học “Muốn liễu thoát sanh tử”, trường học “hành giải tương ưng”([1][1]). Giảng kinh Lăng Nghiêm là giải, tọa thiền là hành, giải hành cùng tiến, đó mới gọi chân đạp thực địa, thân hành thực tiễn, một chút cũng không được qua quýt dễ dãi, một chút cũng không được gạt mình. Nếu quý vị gạt người thì cũng chính là gạt mình. Nay tôi nói quý vị bị gạt rồi, thật ra không phải gạt. Đó là muốn giải quyết vấn đề sanh tử của quý vị, tương lai đó là lợi ích lớn nhất của quý vị, nên nhất định giải hành cần phải đồng thời tu tập.
Giảng về “giải hành cùng tiến”, nay tôi đưa ra một ví dụ. Ví dụ gì? Có một kẻ mù và một kẻ liệt, hai người sống chung với nhau, ngoài ra còn có nhiều người đến giúp họ, vì thế có rất nhiều người cùng trú trong nhà. Một ngày kia, những người khác đều đi chơi, họ không phải đi học kinh Lăng Nghiêm, không phải đến Phật Giáo Giảng Đường tại thành phố Tam Phiên (San Francisco) để học kinh Lăng Nghiêm, mà đi đâu làm gì? Hoặc là đi câu cá, đi tắm biển, đi shopping, mua sắm…, nói chung là đi làm những việc người thế gian ưa thích, chỉ còn người mù và người liệt ở nhà.
Cũng vào dịp đó, căn nhà bị cháy. Vậy làm sao đây? Người mù nhìn không thấy, không thấy đường chạy ra; người liệt có mắt nhìn thấy, nhưng không có chân nên cũng không chạy được. Quý vị nói có tệ hại nguy hiểm không? Đây thật là tệ hại-Người Đài Loan cũng biết nói câu này: “Thật là tệ hại!” Tệ hại như thế nào? Người mù sắp bị thiêu chết, người liệt cũng sắp bị thiêu chết.
Nhưng trong lúc đó có một vị Thiện tri thức đến nói với họ rằng:
- Hai ông nay có thể không chết, có thể thoát khỏi căn nhà lửa này. Làm sao đây? Chỉ cần lấy mắt của người liệt cho người mù dùng, lấy chân của người mù cho người liệt mượn, hai quý vị giống như con lang con sói tương kết với nhau, cùng tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Nói con lang con sói câu kết với nhau, thì hình dung hơi quá đáng; nhưng tôi ngại rằng người không hiểu, nên đưa một ví dụ để so sánh.
Vậy chân của người mù cho người liệt mượn, mắt của người liệt cho người mù mượn dùng. Cách mượn như thế nào? Có phải móc mắt của người liệt ra đắp vào con mắt của người mù không? Lúc đó không có bác sĩ, cũng không thể làm phẩu thuật, tự móc mắt cũng không có ích dụng gì. Nếu đem chân của người mù nối vào chân người liệt, cũng không phải dễ dàng làm được, cũng không có bác sĩ này. Vậy phải làm sao đây? Đó mới gọi là “Nhân sự chế nghi, thông quyền đạt biến” - vận dụng linh hoạt tùy thời, ứng phó linh hoạt, tùy cơ ứng biến, chính là người mù cõng người liệt, người liệt chỉ đường cho người mù, nói đi qua phải, hay đi qua trái, hoặc bước thẳng trước mặt. Người mù có chân, nhưng không có mắt, không nhìn thấy, thì nghe theo lời người liệt chỉ huy. Do vị Thiện tri thức chỉ dạy như vậy, nên hai người đều có thể tự mình cứu mình ra khỏi căn nhà lửa.
Giảng ý nghĩa này, mọi người không nên hiểu lầm ý của tôi, nói: “Thầy nói con là người mù sao? Thầy nói con là người liệt sao?”
Không phải quý vị là người mù, quý vị là người liệt; tôi cũng là người mù, là người liệt, nhưng nay tôi biết đạo lý này để giảng ra. Đây cũng không phải nói quý vị, cũng không phải nói tôi, nhưng cũng là nói quý vị, mà cũng là nói tôi.
Mỗi người chúng ta đều không nên tự mãn, không nên cho rằng mình đã hiểu rõ rất nhiều, không nên cho rằng trí huệ mình rất lớn. Tại sao chúng ta vẫn chưa thành Phật? Chính vì mình quá tự mãn, cho rằng mình học được nhiều kiến thức. Kỳ thực học cái gì thì bị cái đó chướng ngại, quý vị có trí thức nhiều thì bị trí thức chướng ngại; quý vị có năng lực lớn thì bị năng lực chướng ngại. Vì có chướng ngại thì không thể thành đạo.
Nay chúng ta nên buông bỏ xuống những tư tưởng “tôi, anh, họ”, không cần nó nữa, phải làm an định những tư tưởng này, phải làm thanh tịnh những tư tưởng này, phải làm cho bụng của mình không không. Để làm chi vậy? Đầu tiên tôi bảo quý vị ăn ít một chút để chứa đựng pháp, nay tôi bảo quý vị làm sạch sẽ tư tưởng của quý vị. Làm sạch sẽ để chứa đựng gì? Để chứa vào diệu pháp đề hồ, chứa vào diệu pháp vô thượng!
Tôi còn nhớ năm ngoái có một cô, lời cô ta nói, tôi còn nhớ. Cô ta nói đầu của cô có rất nhiều rác, rất nhiều garbage, dọn dẹp không sạch, phải vậy không? Cô ta hiện nay đang học Tiến sĩ (Doctor degree). Vậy nay tôi căn cứ vào câu nói của cô, chúng ta mỗi người có thể bỏ đi những rác rưới trong đầu mình, làm sạch đi những tạp niệm cặn bã trong tâm của mình, sau đó nghe kinh, thì có thể một nghe ngàn ngộ, dễ dàng hiểu rõ. Nay buổi giảng này chỉ là mới bắt đầu, chưa có chính thức giảng vào kinh văn; tối nay tôi nhất định sẽ giảng hay hơn bây giờ nữa. Không phải gạt quý vị, cũng không gạt tôi, tôi biết tôi giảng rất hay.
Lời Ban biên tập: dưới đây là bắt đầu thời giảng khác của Thượng nhân:
Nay nói tiếp đề kinh, “Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm kinh”, đề tên của bộ kinh này rất dài, có tới hai mươi chữ: mười chín chữ trước là tên riêng của kinh, chữ “Kinh” cuối cùng là tên chung. “Chư Bồ Tát” tức là tất cả Bồ tát đều bao gồm ở trong; “vạn hạnh”, đó là vạn hạnh mà Bồ tát phải tu. Bồ tát tu lục độ vạn hạnh, ở trên đã nói qua hai độ bố thí và trì giới, còn bốn độ.
3. Nhẫn nhục Ba La Mật: Độ thứ ba là “nhẫn nhục.” Nhẫn nhục có ba loại: sanh nhẫn, pháp nhẫn và vô sanh pháp nhẫn.
4. Tinh tấn Ba La Mật: Tinh tấn là tinh tấn hướng về phía trước không lùi về sau. Vị tinh tấn nhất là Bồ tát Dược Vương trong phẩm “Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự” trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ngài tự đốt thân mình cúng Phật, ngài quấn bông gòn chung quanh mình, tưới dầu thơm, trước Phật đốt thân cúng dường Đức Phật. Nếu muốn biết rõ, quý vị có thể nghiên cứu Kinh Pháp Hoa. Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự nói rất rõ ràng.
Tại sao Bồ tát Dược Vương đốt thân cúng Phật? Vì Ngài cảm thấy ân đức của Phật rất sâu dày, rất to lớn, không gì có thể báo đáp ân đức đó, cho nên đem hết thân tâm sanh mạng mình đốt lên cúng dường Phật. Ngài đốt đến bao lâu? Rất lâu, lâu đến nỗi không kể xiết.
Cho nên Thiên Thai Trí Giả Đại sư khi xem Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đọc đến phẩm Dược Vương Bồ tát, tới đoạn: “Thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp cúng dường Như Lai” - đó thật là tinh tấn, đó gọi là thật sự sử dụng chân tâm vì Phật pháp, cúng dường Phật. Khi đọc đến chỗ này, Trí Giả Đại sư liền nhập định, trong định thấy pháp hội Linh sơn, thấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn còn ở đó thuyết pháp, chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sanh, vì thế Ngài liền chứng ngộ Pháp Hoa Tam-muội, vào Pháp Hoa tam muội, đắc được đệ nhất Triền đà-la-tông ([2][2]). Sau khi xuất định, trí huệ ngài liền mở rộng, vì thế kiến lập Thiên Thai Tông, thành Sơ tổ của Thiên Thai Tông.
Công đức đốt thân cúng Phật của Ngài Bồ tát Dược Vương thật bất khả tư nghì, đó mới là thật sự tinh tấn. Không phải như chúng ta, nhổ một sợi lông tơ cũng không nỡ, nên có câu: “Bạt nhất mao dĩ lợi thiên hạ, bất vi dã”. Nhổ đi một sợi lông tơ mà có lợi ích cho tất cả thiên hạ cũng không làm. Tại sao vậy? Đó là vì chỉ biết tự lợi, mà không biết lợi tha, nên không được gọi là tinh tấn.
5. Thiền định Ba La Mật: Thiền định có tứ thiền, bát định, mà kinh Lăng Nghiêm giảng chín bậc thiền định, cái này đến lúc giảng đến chánh văn tôi sẽ nói rõ ràng hơn, nay không nói chi tiết làm gì.
Đệ tử hỏi: “Tứ thiền bát định là gì?”
Thượng nhân: Tứ thiền có bốn loại thiền – sơ thiền thiên, nhị thiền thiên, tam thiền thiên, tứ thiền thiên. Đạt đến cảnh giới Sơ thiền, cảnh giới của Sơ thiền là “ly sanh hỷ lạc địa”, đạt đến cảnh giới hoan hỷ, mạch ngừng nghỉ, nhưng tự mình cảm thấy vô cùng hoan hỷ, đó gọi là ly sanh hỷ lạc địa. Ở Sơ thiền định lực vẫn chưa kiên cố, cho đến Nhị thiền định tức là cảnh giới “ định sanh hỷ lạc địa,” thì định lực kiên cố hơn ở Sơ thiền nhiều, nên hơi thở cũng đoạn luôn. Đến trình độ Nhị thiền, hơi thở của quý vị sẽ đình chỉ; lỗ mũi cũng không có hơi ra vào. Vậy có phải là đã chết rồi không? Không phải vậy, đó chỉ là một cảnh giới. Sự hô hấp bên ngoài đã đoạn, sự hô hấp bên trong sống dậy. Chúng ta đều là hô hấp bên ngoài, không hô hấp bên trong được. Nếu hô hấp bên trong được, người đó sẽ không chết, muốn sống bao nhiêu năm cũng được, nhưng sống lâu rồi thì biến thành quỷ giữ thây, không có ích dụng gì! Chỉ canh giữ túi da thúi này, thì có ích dụng gì đâu!
Đến Tam thiền thì sao? Thức của quý vị cũng đoạn luôn, niệm cũng đoạn luôn.
Tam thiền gọi là “ly hỷ diệu lạc địa”. Hỷ cũng lìa bỏ, người tu hành nếu nói happy, chính là hoan hỷ, rất hoan hỷ. Loại an lạc của tam thiền này vô cùng vi diệu. Ly hỷ, lìa bỏ cái hỷ, mà đắc được cảnh giới diệu lạc này.
Tứ thiền là “xả niệm thanh tịnh địa”, buông bỏ tất cả niệm thức. Nhập vào loại định thứ tư này mới là tiến một bước trên đường tu đạo.
Nhưng, quý vị không nên cho rằng chứng được Tứ thiền là việc quá tuyệt vời, đó chỉ là sơ bộ, mới tiến một bước về quả vị Phật, vẫn chưa chứng đắc quả A la hán. Lúc đó, tất cả những việc trên trời dưới đất quý vị đều có thể biết, nhưng biết rồi cũng không nên chấp vào cảnh giới này. Đó là đại khái cảnh giới của tứ thiền. Bát định nói đến thì rất dài, nay không giảng đến.
6. Bát nhã Ba la mật: “Bát nhã” là tiếng Ấn Độ, Trung Quốc dịch là trí huệ. Gì là trí huệ? Người thường cho rằng thông minh của người thế gian là trí huệ, kỳ thực không phải như vậy. Thông minh là trí huệ thế gian, trí huệ là xuất thế gian trí. Trí huệ thế gian như khoa học, triết học, thanh, quang, điện, hóa v.v…, tất cả những gì mà khoa học phát minh ra đều gọi là trí huệ thế gian, không phải là trí huệ xuất thế gian. Nay trí huệ này là trí huệ xuất thế gian. Vậy trí huệ xuất thế gian là gì? Đó chính là trí huệ thành Phật. Trí huệ thành Phật cũng không chỉ là một loại, mà là ba loại. Vì sao chữ “Bát nhã” giữ nguyên không phiên dịch? Vì nó bao hàm ba ý, đây là thuộc “đa hàm bất phiên” (nhiều ý nghĩa không phiên dịch) trong ngũ chủng bất phiên (năm loại không phiên dịch), vì hàm nhiều ý nghĩa, nên không phiên dịch ra. Vậy, ba loại Bát nhã là gì?
Thứ nhất là “văn tự Bát nhã”, tất cả kinh điển đều là văn tự Bát nhã.
Thứ hai là “quán chiếu Bát nhã”, dùng trí huệ quán chiếu, hồi quang phản chiếu, phản văn văn tự tánh. Mắt của quý vị vốn thường xem bên ngoài, nay không xem bên ngoài nữa mà phải xem bên trong quý vị, đó gọi là hồi quang phản chiếu – quay trở về chiếu tự tánh của mình. Quý vị có thể hồi quang phản chiếu, đó gọi là quán chiếu Bát nhã; quán là “quán sát”, chiếu là “quang minh phổ chiếu”. Nếu quý vị dùng ánh quang minh trí huệ đạt được do sự quán sát để chiếu phá hắc ám bên trong quý vị, chiếu sạch sẽ bên trong quý vị, chiếu cho được thanh tịnh, không còn rác rưỡi dơ dáy bẩn thỉu ô nhiễm, thì đó là một loại trí huệ quán chiếu.
Ngoài ra, còn có một loại Bát nhã bất khả tư nghì nhất, diệu mầu nhất là thực tướng Bát nhã. Cái gì là thực tướng? Thực tướng Bát nhã chính là “liễu nghĩa” mà bộ kinh này nói đến. Liễu nghĩa cũng là thực tướng, thực tướng cũng chính là liễu nghĩa. Nếu quý vị không hiểu thực tướng là gì, nói rằng: “Danh từ này đối với tôi thật là xa lạ, tôi không biết giải thích nó như thế nào? ”
Nó chính là liễu nghĩa, liễu nghĩa chính là thực tướng. Thực tướng là gì? “Thực tướng giả, vô tướng dã” Thực tướng thì không có tướng nhưng không gì không tướng (thực tướng vô tướng, vô sở bất tướng), quý vị nói nó không có tướng à? Nó cái gì cũng đều là tướng, nên gọi là thực tướng.
Cảnh giới “Thực tướng giả vô tướng dã, vô sở bất tướng dã” này nếu quý vị hiểu rõ thì làm hàng xóm với Phật, chỉ cách Phật có một bước. Nhưng cảnh giới này nói thì dễ, mà chứng đắc thì không phải dễ dàng. Tuy không dễ dàng, nhưng chúng ta cũng phải nghĩ cách đi trên con đường này. Nếu nói khó khăn thì tôi không đi nữa, như nói: “Tôi muốn đi Nữu Ước, nhưng xa quá, ngồi máy bay tốn rất nhiều tiền, ngồi xe hơi cũng tốn rất nhiều tiền, vậy tôi không muốn đi nữa”. Quý vị không muốn đi, thì vĩnh viễn không đến được Nữu Ước, Nữu Ước như thế nào quý vị sẽ không biết. Thành Phật cũng như vậy, quý vị muốn thành Phật, nhưng vì con đường quá xa xôi, trải qua thời gian rất dài, quý vị nhìn biển cả than mình nhỏ bé, nói: “Ôi! sao mà khó khăn như thế, tôi không học Phật pháp nữa đâu, tôi tìm việc gì dễ dàng một chút mà làm! ” Vậy quý vị vĩnh viễn sẽ không thành Phật. Nếu quý vị không muốn thành Phật, vậy thì không có gì để nói, vậy tùy ý quý vị. Nhưng nếu quý vị muốn thành Phật, thì cần phải gắng sức vượt qua những khó khăn. “Nhân giả tiên nan nhi hậu hoạch”, người nhân trước nhất định phải trải qua một phen khó khăn gian khổ, sau đó mới có thể đạt được sự dễ dàng. Cổ đức có câu:
“Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt,
Chẩm đắc mai hoa bộc tỷ hương? ”
Dịch:
Không trải qua mùa đông buốt giá,
Hoa mai sao nở được mùi thơm?
“Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt”, nếu không trải qua một phen lạnh cóng buốt xương, thì “Hoa mai sao nở được mùi thơm?”
Trung Quốc có một loại hoa mai rất thơm, không giống như hoa mai của nước Mỹ, hoa mai của nước Mỹ không thơm tí nào. Hoa mai Trung Quốc, nếu quý vị có một cây hoa mai này, cách xa một hai dặm, đều có thể ngửi được mùi thơm này, mùi thơm ngào ngạt. Tại sao nó thơm như vậy, vì nó qua được mùa đông lạnh cóng, nó nở hoa vào mùa đông cho nên rất là thơm.
Nói đến thực tướng Bát nhã, có phải là có người có, có người không có? Không phải vậy! Mỗi chúng sanh đều có loại Bát nhã này, mỗi chúng sanh đều có trí huệ thực tướng. Nhưng cũng giống như “Mật nhân” mà trong kinh này nói đến, chỉ mình không biết làm cho nó hiển hiện ra mà thôi; tài sản của báu vốn có của mình, mà mình không hay biết, nên làm kẻ bần cùng. Tự tánh Bát nhã của chúng ta, là thực tướng vốn có đầy đủ, nhưng vì tự mình không hiểu rõ, để đến nỗi biến thành một kẻ nghèo nàn đối với pháp.
Kinh Kim Cang nói: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”. Tất cả những gì có tướng, đều là giả; nếu quý vị có thể ở trên tướng mà biết nó là vô tướng, thì thấy được Như Lai. Quý vị hiểu rõ bổn thể của pháp, nghiên cứu cùng tận nguồn gốc của pháp, thì cũng giống như thấy Phật vậy. Quý vị thấy được nguồn gốc của tất cả pháp, chính là thấy Phật. Cho nên, thực tướng Bát nhã này chính là trí huệ mà mỗi người chúng ta đều có, nếu chúng ta mở cửa kho báu trí huệ này, thì mới có thể hiển hiện ra bổn lai diện mục của chúng ta.
Điều này giống như gì vậy? Trong quá khứ chúng ta không biết có thực tướng Bát nhã, giống như trong mỏ vàng chứa đầy vàng mà không ai hay biết, vậy tuy có vàng, nhưng không ai biết, thì vàng sẽ không hiện ra. Có người tuy biết trong mỏ có vàng, nhưng biết thì biết, lại không đi khai thác mỏ vàng này, thì cũng giống như không biết vậy, cũng không thể được vàng. Vậy thì cần phải làm sao? Cần phải khai thác mỏ này, dùng nhân công nỗ lực đi khai thác vàng này, thì vàng mới hiện ra, mới có thể biến nó thành vàng ròng! Đó cũng chính là gì? Chúng ta mỗi người đều có mỏ vàng, nhưng không biết. Mỏ vàng chính là thực tướng Bát nhã.
Nay chúng ta nghe kinh, biết thực tướng Bát nhã này, biết thì biết, nếu chúng ta không lợi dụng được thực tướng Bát nhã, cũng không đi khai quật khai thác mỏ thực tướng Bát nhã của chính chúng ta, vậy thì cũng như không biết vậy. Có người phát tâm dũng mãnh tinh tấn tu hành, khai thác mỏ thực tướng trong tự tánh của mình, mở cái mỏ này, hiện ra Phật tánh vốn có: “A! Tôi vốn chính là Phật!”
Đúng vậy! Tất cả mọi người đều là Phật, như đức Phật Thích Ca đã từng nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và đều có thể làm Phật (nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật).” Nhưng, chúng ta không thể nói: “Tôi vốn là Phật, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể làm Phật. Phật nói tôi là Phật, vậy tôi chính là Phật rồi, tôi cũng không cần phải tu hành nữa” . Quý vị không tu, thì như cái mỏ vàng kia, quý vị biết nó là mỏ vàng, nhưng quý vị không khai thác, quý vị nói vàng đó quý vị có thể lấy được không? Không được đâu, nên phải lo tu a! Lục độ này là như thế.
Trên đã nói về Lục độ. Còn “Ba la mật” nghĩa là gì? Ba la mật nghĩa là thành công cứu cánh. Quý vị làm việc gì thành công rồi, viên mãn rồi, đó gọi là Ba la mật. Quý vị muốn tu Phật, cuối cùng thành Phật gọi là Ba la mật; quý vị muốn học để đạt được học vị Tiến sĩ, được bằng Tiến sĩ rồi, đó cũng là Ba la mật; bụng đói, nói tôi muốn ăn cơm, ăn no rồi, là Ba la mật; quý vị muốn ngủ, nằm đó ngủ xong giấc, đó cũng là Ba la mật. Nhẫn nhục cũng là Ba la mật, tinh tấn cũng gọi là Ba la mật, thiền định là Ba la mật, bố thí, trì giới, Bát nhã đều là Ba la mật. Việc gì làm thành công, viên mãn đều gọi là Ba la mật. Tiếng Ấn Độ gọi là “Ba La Mật”, Trung Quốc có một loại trái cây gọi là ba la mật (trái khóm), rất ngọt, vì thế việc gì làm viên mãn, đạt được quả ngọt thì gọi “Ba la mật”. Lục độ Ba la mật này là những hạnh môn mà Bồ tát hành.
Mỗi người đều có thể học Bồ tát phát tâm, hành Bồ tát hạnh, làm việc Bồ tát, đó là Bồ tát sơ phát tâm. Bồ tát thì không ích kỷ, nói: “Chỉ có ta làm Bồ tát, ngươi không thể làm Bồ tát, ngươi không thể so sánh được với ta!” Không phải vậy! Không những chúng ta có thể làm Bồ tát, mà còn có thể làm Phật. Mọi người đều có thể làm Phật, tôi tin rằng mỗi người hiện có mặt tại đây, đều biết mình có thể thành Phật, nhất là những người nghiên cứu Phật học lâu năm, càng biết đạo lý này, nên tôi không nói nhiều.
VI. Thích Thủ Lăng Nghiêm
Thủ Lăng Nghiêm: Thủ có nghĩa là đệ nhất, tức là đầu một việc. Đầu một việc là gì? Là Lăng Nghiêm. Lăng Nghiêm (Shurangama) là tiếng Ấn Độ, dịch thành tiếng Trung là: “Nhứt thiết sự cứu cánh kiên cố”. Nhất thiết sự là gì? Nhứt thiết sự chính là việc gì cũng đều bao gồm ở trong, tất cả sơn hà đại địa, nhà cửa phòng ốc, tất cả người vật, noãn thai thấp hóa, mọi vấn đề, các thứ đạo lý… đó đều gọi là nhất thiết sự.
Tất cả mọi việc này có thể triệt để kiên cố. Thế nào là triệt để kiên cố? Tức có thể đắc được bổn thể của định, đắc được định của “Mật nhân”. Đắc được định của “Mật nhân” mới có thể chứng đắc quả “Liễu nghĩa”, chứng đến trình độ liễu nghĩa, lại tu “Bồ tát lục độ vạn hạnh”, thì đắc được đại hạnh; đắc đại hạnh rồi sau đó thành tựu quả của đại định “nhất thiết sự cứu cánh kiên cố”, tức là đại quả. Nên Đại Phật Đảnh này, chính là đại nhân, đại nghĩa, đại hạnh, đại quả. Đạt đến chỗ diệu của bốn loại quả này, nên lại có thể gọi là diệu nhân, lại có thể gọi là diệu nghĩa, lại có thể gọi là diệu hạnh, lại có thể gọi là diệu quả. Tuy bốn loại nhân, nghĩa, hạnh, quả này đều đắc được chữ “diệu” rồi, song chữ “diệu” vẫn không thể hoàn toàn thay thế hết bốn ý nghĩa trên, nên dùng chữ “đại”.
“Nhất thiết sự cứu cánh kiên cố” là định. Định này khác với bất định, định này và bất định là hai thứ không giống nhau. Cái gì gọi là bất định? Như chúng ta muốn làm một việc gì mà do dự không nhất định, muốn đi phía trước, nhưng chân lại không nghe lời, vì thế bèn đi về phía sau; muốn đi phía nam thì chân không nghe lời nên phải đi về phía bắc, muốn làm việc tốt nhưng không làm chủ được, bèn đi làm việc xấu, đó gọi là bất định, do dự không nhất định. Giống như làm việc không có hằng tâm, thì gọi là không có kiên cố, hằng tâm chính là tâm thường hằng bất biến. Vì thế, nay chúng ta học tập kinh Lăng Nghiêm, mỗi người chúng ta nên đầy đủ ba điều kiện: “Kiên, Thành, Hằng.”
“Kiên” là tâm kiên cố, vĩnh viễn bất biến, nói: “Lần này tôi học kinh Lăng Nghiêm, bất luận như thế nào đi nữa, cũng học cho hiểu được đạo lý này mới thôi”, không thể giữa đường mà đánh trống rút lui, không thể học được một nửa bèn nói: “Học lâu ngày như thế mà cũng không hiểu. A! Cái này khó quá, thôi không học nữa!” Đó gọi là “bán đồ nhi phế”, nửa đường bỏ phế. Đó không phải là kiên cố.
“Thành” là tâm thành khẩn, chuyên cần, niệm niệm không quên, học tập kinh điển cần phải tinh tấn miệt mài đến mức quên cả ăn uống, vui mừng mà quên lo. Tôi quyết chí đến đây học kinh Lăng Nghiêm, tôi nhất định học cho hiểu. Tôi nằm đó nhưng không ngủ, lúc này tôi không có khởi ra những vọng tưởng gì khác, chỉ nghĩ: “Tôi nghe kinh, nghe những đạo lý gì? Những gì nghe được có ý kiến gì không?” có một loại thành tâm như thế. Chữ “Thành” tức là không giao động, thành khẩn học tập bộ kinh này.
“Hằng” là tâm hằng viễn, không đổi dời, không phải học hai hoặc ba ngày rồi rút lui: “A, Kinh này khó quá! Phật pháp thật là khô khan vô vị, học tới học lui không có gì hứng thú, hay là đến công viên hoặc là đến chỗ nào khác chơi, còn hay hơn. Nghiên cứu kinh điển không có thực dụng, nay là thế giới khoa học, nghiên cứu các thứ cũ rích này, thật không có thú vị gì”. Thế là trốn mất, đó là không có hằng tâm. Không có hằng tâm thì không phải cứu cánh kiên cố; quý vị có hằng tâm, chính là cứu cánh kiên cố; có thành tâm, chính là cứu cánh kiên cố. Quý vị có tâm kiên cố thành khẩn và tâm hằng viễn thì càng là cứu cánh kiên cố, đó chính là có định lực. Tóm lại không vì bất cứ hoàn cảnh nào làm cho thay đổi chuyển dời, đó chính là định lực.
VII. Thích Kinh
Đây là đại khái ý nghĩa của tựa kinh này. Mười chín chữ này là tên riêng của bộ kinh, dưới đây chỉ giải thích một chữ kinh, đây là tên chung của tất cả kinh điển.
Kinh: tiếng Ấn Độ gọi là “Tu Đa La” (Sutra), Tàu gọi là “Khế kinh”. “Khế” là khế hợp. Thế nào gọi là khế hợp? Là nói bộ kinh này trên khế hợp lý của Chư Phật, dưới khế hợp với căn cơ của chúng sanh, phàm là khế lý khế cơ thì gọi là kinh. Kinh có bốn ý nghĩa, tôi trước kia đã giảng rồi, nhưng có người chưa nghe qua, nay nói lại. Kinh có nghĩa là gì? Kinh là con đường. Tại sao gọi là con đường? Vì tất cả kinh đều có thể giúp chúng ta từ phàm phu đạt đến quả vị Phật, đạt đến quả vị Thánh nhân cho nên đi con đường này gọi là kinh, là một con đường. Kinh lại có bốn ý nghĩa là “quán, nhiếp, thường, pháp”.
“Quán” là quán xuyên thấu suốt. Quán xuyên cái gì? “Quán xuyên sở thuyết nghĩa” những nghĩa lý mà Phật thuyết ra giống như dùng một sợi dây kết lại thành một xâu, đó là “quán”.
“Nhiếp” là nhiếp trì sở hóa cơ. Gì là cơ? Đó là đối với tất cả chúng sanh, chúng sanh nào thì thuyết pháp gì, thuyết pháp gì thì độ chúng sanh nào, cho nên nói “Tùy người thí giáo, tùy bệnh cho thuốc”. Vì người này nên thuyết pháp này, đó gọi là tùy căn cơ mà thí giáo. Tùy bệnh cho thuốc, nhìn mỗi chúng sanh có bệnh gì, thì cho thuốc đó. Đó gọi là “Vì bệnh cho thuốc” – đó còn gọi là quán xét căn cơ mà thí giáo, vì người thuyết pháp. Đó gọi là nhiếp trì sở hóa cơ.
“Thường” là gì? Xưa nay không thay đổi gọi là thường. Từ xưa đến nay cũng không thay đổi, một chữ cũng không bỏ, một chữ cũng không thêm, vì không có thay đổi, nên gọi là kinh, gọi là thường.
Còn “pháp”? “Tam thế đồng tôn viết pháp”. Tam thế là ba đời: đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Chúng sanh trong ba đời đều nên tôn sùng pháp mà tu đạo, mà thành Phật, mà giáo hóa chúng sanh, đều nên y theo pháp mà làm. Bởi đầy đủ bốn ý nghĩa “quán, nhiếp, thường, pháp” nên gọi đó là kinh.
Kinh giống như cục nam châm hút sắt, chúng sanh như thỏi sắt, sắt gặp phải nam châm liền bị hút vào, nên chữ “Nhiếp” vừa nói ở trên thì có ý nghĩa này. Phật pháp giống như khối nam châm, chúng sanh như thỏi sắt, nam châm hút sắt thì hút chặt vào cục nam châm. Nay giảng kinh Lăng Nghiêm, đây là cục nam châm Lăng Nghiêm hút sắt.
Sao gọi là kiên cố? Cục nam châm cũng kiên cố, nhưng kinh Lăng Nghiêm kiên cố hơn, nếu hút chúng sanh rồi, thì tuyệt đối sẽ không bao giờ đọa lạc nữa, không còn đọa địa ngục, thành ngạ quỷ, hay làm súc sanh nữa. Tại sao vậy? Vì đã được đại định kiên cố hút chặt, muốn chạy cũng chạy không được, muốn thoát cũng thoát không xong. Thật là vô cùng huyền diệu! Cho nên lần này, người không đến nghe kinh thì thôi, người vừa đến nghe kinh thì sẽ bị hút chặt; hút đến nỗi nghe đoạn này xong lại muốn nghê đoạn khác: “A! Thật là có ý nghĩa, mùi vị rất ngọt ngào!” Ý nghĩa của kinh đại khái là như thế.
Toàn bộ Đại Tạng kinh Phật giáo, chia làm mười hai bộ (mười hai phần kinh), cũng có thể gọi là mười hai loại, cũng có thể gọi là mười hai môn. Tóm lại là có mười hai bộ, những bộ này là gì?
Bộ thứ nhất là Trường hàng. Trường hàng là gì? Là trong kinh có từng hàng từng hàng rất dài, nên gọi Trường hàng.
Bộ thứ hai là Trùng tụng, có nghĩa là dùng kệ tụng nói lại một lần ý nghĩa kinh văn của Trường hàng, gọi là Trùng tụng.
Bộ thứ ba là Thọ ký. Gì là thọ ký? Trong kinh điển thường đề cập Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ ký cho một vị Bồ tát nào đó, như: “Ông vào một kiếp nào đó, sẽ thành Phật, danh hiệu là gì đó, thọ mạng bao lâu, giáo hóa chúng sanh bao nhiêu, ở quốc độ nào…” đều nói trước rõ ràng, đó gọi là thọ ký. Như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là do Đức Phật Nhiên Đăng truyền ký cho Ngài nên gọi là thọ ký.
Lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở nhân địa – tức là lúc hành đạo Bồ tát, cầu Phật pháp. Quý vị đoán xem thành tâm của Ngài đã thể hiện như thế nào? Khi hành Bồ tát đạo, gặp Đức Phật Nhiên Đăng, Ngài từng trải tóc che bùn. Trải tóc che bùn là thế nào? Bồ tát thấy Đức Phật Nhiên Đăng bước đến. Đức Phật Nhiên Đăng lúc đó cũng là một vị Tỳ kheo, nhưng Ngài đã thành Phật rồi. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không chắc biết vị Tỳ kheo ấy là Phật, nhưng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lúc đó đang ở nhân địa tu hành, vì Ngài cung kính Tam bảo, nên hành đủ thứ khổ hạnh. Khi đang đi trên đường, thấy vị Tỳ kheo đi ngang qua một con đường. Mà con đường này như thế nào? Con đường này rất lầy lội, lại có nhiều nước. Nên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, quý vị đoán xem Ngài làm gì? Ngài nói: “Ôi! Chỗ này lầy lội như thế, vị Tỳ kheo già này đi qua, không phải là sẽ ướt hết mình và chân sao?”
Vì thế, bèn nằm trên nước, thỉnh vị Tỳ kheo già đạp trên thân thể ngài mà đi qua. Nhưng vẫn còn một chỗ bùn lầy, ngài sợ chân vị Tỳ kheo sẽ đạp vào trong bùn, vì thế xổ mái tóc của mình ra, trải trên chỗ bùn đó để cho vị Tỳ kheo đó đi qua, để đôi chân của Ngài không bị bùn làm dơ.
Nào hay vị Tỳ kheo già đó chính là Đức Phật Nhiên Đăng. Đức Phật Nhiên Đăng nhìn thấy sự cúng dường thành tâm như thế, rất hoan hỷ, bèn nói: “Như thị, như thị!” Tức là ông như vậy, tôi cũng như vậy. Nói “Như vậy chính là như vậy!” Các ông không phải thường nói “Chính là như vậy sao?” Đức Phật Nhiên Đăng thọ ký cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng tức là: “Chính là như thế! Ông cũng là như thế, tôi cũng là như thế, chính là như vậy!” Như vậy là gì? Tức là hành Bồ tát đạo thì như vậy. Nói: “Ông nay cúng dường cho ta, nằm trên bùn để ta đi qua; ta xưa kia cũng như thế, ta cũng hành Bồ tát đạo như vậy. Ông đã làm đúng!”
Bởi vì Đức Phật Nhiên Đăng quá khứ hành Bồ tát đạo cũng như vậy, nên cho rằng tu hành như vậy là đúng, và liền thọ ký cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: “Ông tương lai sẽ được làm Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni, bèn thọ ký cho Ngài”. Do vậy, kiếp này Đức Thích Ca Mâu Ni thành Phật, đó là do Đức Phật Nhiên Đăng thọ ký cho Ngài. Tại sao lại thọ ký cho Ngài? Do vì lòng thành tâm của Ngài cảm động Đức Phật Nhiên Đăng, cho nên vị cổ Phật này bèn thọ ký cho Ngài.
Bộ thứ bốn là Nhân duyên, do vì đủ các nhân duyên mà thuyết vô số pháp môn.
Bộ thứ năm là Tỷ dụ, là lấy một vật gì đó để tỷ dụ cho một việc khác, dùng ví dụ để bày ra nói rõ chỗ vi diệu của Phật pháp.
Bộ thứ sáu là Bổn sự, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni kể lại những việc tiền sanh của Ngài, hoặc là những chuyện tiền sanh của một vị Bồ tát.
Bộ thứ bảy là Bổn sanh, là nói về những hành trạng trong đời này của Đức Phật Thích Ca hoặc là những sự việc trải qua trong đời này của một vị Bồ tát. Gọi là Bổn sanh.
Bộ thứ tám là Phương quảng, phương là tứ phương, quảng là rộng lớn, pháp nói ra rất rộng lớn, vô cùng tinh vi.
Bộ thứ chín là Vị tằng hữu, từ trước chưa bao giờ thuyết ra, mà nay mới nói.
Bộ thứ mười là Vô vấn tự thuyết, không đợi ai thưa thỉnh mà Đức Phật tự mình phóng quang động địa thuyết ra pháp này.
Bộ thứ mười một là Cô khởi, cũng gọi là phúng tụng, là trong một đoạn kinh nào đó không có nối liền với đoạn văn trước, cũng không có quan hệ với đoạn văn sau, mà là kệ tụng độc lập.
Bộ thứ mười hai là Luận nghị, là giảng về một vài luận nghị.
Trên đây là mười hai bộ, cho nên có bài kệ rằng:
Trường hàng, trùng tụng, tịnh thọ ký,
Cô khởi, vô vấn nhi tự thuyết,
Nhân duyên, tỷ dụ, cập bổn sự,
Bổn sanh, phương quảng, vị tằng hữu
Luận nghị, cộng thành thập nhị bộ,
Quảng lục đại luận tam thập tam.
Đây là Đại Trí Độ Luận nói tên của mười hai bộ kinh. Quý vị muốn hiểu biết tường tận rõ ràng, có thể nghiên cứu tham khảo Đại Trí Độ Luận, trong đó giải thích rất tỷ mỷ sự phân loại mười hai bộ kinh điển.
Mười hai bộ này có phải là Tam Tạng Kinh điển chỉ có mười hai bộ kinh, và được phân loại theo mười hai bộ này? Không phải vậy, kỳ thực mỗi một bộ kinh đều đầy đủ ý nghĩa mười hai bộ này, đây chỉ thuyết minh trong kinh điển có nội dung cùng với thể tài của mười hai bộ này mà thôi.
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong buổi tọa đàm về chủ đề “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 16 tháng 3 năm 1987
Thế nào gọi là Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân? Thế nào gọi là Đại Phật Đảnh Tu Chứng Liễu Nghĩa? Thế nào gọi là Đại Phật Đảnh chư Bồ tát Vạn Hạnh.Thế nào gọi là đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm? Đây đều gọi là “Đại Phật Đảnh”, quý vị giảng như thế nào đều có ý nghĩa.
Thế nào là “Mật Nhân”? “Mật Nhân” tức là một loại trí huệ của người. Thế nào gọi là không phải “Mật Nhân”? Tức là ngu si, vô minh. Những chủng tử thiện là “Mật Nhân”, chủng tử ác thì không phải là “Mật Nhân”. Điều này giảng ra, giảng như thế nào đều đúng, chủ yếu là quý vị phải thông suốt hiểu rõ. Nếu thông suốt rồi thì không vào mà không tự đắc; nếu không thông thì hướng về chỗ này đụng phải vách tường, hướng về chỗ khác thì đụng đầu. Cho nên đối với kinh điển, nhất định phải thông suốt vô ngại, cần phải thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển.
“Liễu Nghĩa” này chính là cùng tận, không có dư thừa, không nhiều cũng không ít, chính là Trung Đạo; “Trung Đạo Liễu Nghĩa” tức là không nhiều, cũng không thiếu, cũng không nhiều, không ít, đó là “Liễu Nghĩa”.
Nếu không giảng hoàn toàn đầy đủ, lần sau có thể tiếp tục, vì điều này rất quan trọng. Nếu thông suốt rồi thì giảng ngang, giảng dọc, nói trần nói sát, nói gì cũng đều thông suốt, đó mới gọi là thông suốt, không phải chỉ pháp hội của chúng ta giảng như thế, quý vị cảm thấy: “A, giảng ngũ giáo, tôi đã hiểu được ngũ giáo! Giảng tứ giáo, tôi hiểu được tứ giáo”, cảm thấy: “Duy thức, pháp tướng, mỗi mỗi đều có cách giảng, vậy tôi thôi đi”. Quý vị cần phải thông suốt “Mật Nhân” mới được, “Mật Nhân” chưa thông suốt, không đạt, thì cái học ghi chép và nghe này không được! Vì “Mật Nhân”, quý vị cần phải thông suốt, cần phải thật sự thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải, mới thật sự có thể nhận thức kinh điển. Nếu nhận thức được kinh điển, hoà với kinh điển làm thành một khối, thì nói như thế nào cũng đúng, không có nhất định, không có chấp trước nhất định nào cả.
Lại còn máy ghi âm và viết đều là những thứ xấu nhất, những thứ này làm hư đi trí nhớ của con người.
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết.
Nhị: Giáo Khởi Nhân Duyên
I. Tổng nhân duyên
Tiếp theo giảng mười môn phân biệt:
Môn thứ nhất là Tổng Thích Danh Đề đã giảng rồi. Nay giảng môn thứ hai là “Giáo Khởi Nhân Duyên”, nhân duyên giáo hóa hưng khởi. Giáo là gì? “Thánh nhân bị hạ chi ngôn” gọi là giáo,Thánh nhân bị hạ chi ngôn có nghĩa là Chư Phật Bồ tát dùng những lời giáo hóa chúng sanh, gọi là giáo. Vậy thì làm sao để sanh khởi giáo? Thì cần phải có nhân duyên. Nhân duyên từ đâu đến? Nhân duyên từ chúng sanh mà đến. Nếu không có chúng sanh thì không có Phật; nếu không có Phật thì cũng không có giáo, nên giáo này vì chúng sanh mà thiết lập, nhân duyên là khiến cho chúng sanh liễu thoát sanh tử, cho nên có giáo.
Làm sao khiến chúng sanh liễu sanh thoát tử. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì muốn khiến cho chúng sanh liễu thoát sanh tử mà thị hiện ở đời. Nên kinh Pháp Hoa nói: “Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời”. Gì là đại sự? Đại sự chính là vấn đề sanh tử của mỗi một chúng ta, sanh từ đâu đến? Chết đi về đâu? Đạo lý này không hiểu rõ thì có sanh tử, hiểu rõ rồi thì sẽ không còn sanh tử. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến thế giới này chính vì muốn cho chúng sanh chúng ta hiểu rõ sanh như thế nào? Tử như thế nào? Sanh từ đâu mà đến, tử đi về đâu? Sanh ở chỗ nào đến? Chết lại đi về đâu?
Chúng ta khi có sanh mệnh, đến thế giới này, chính là vì cuộc sống mà bôn ba bận rộn cực khổ. Tại sao vậy? Vì muốn tìm chỗ ở, nên vì chỗ ở mà bận rộn; lại nghĩ cách mua y phục để ngăn ngừa nóng lạnh cho thân thể, vì y phục che thân mà bận rộn; lại nghĩ cách để trị cái da bụng này, để nó không đói nữa, vì miếng ăn mà bận rộn. Người bình thường đều không phải nói như vậy sao? v. v… nói: “Vì hai bửa cơm mà phải đi làm. Nếu hỏi họ: “Tại sao cần phải đi làm?”
Họ sẽ trả lời: “Vì muốn hai bữa cơm cho no lòng”.
Đó là tư tưởng của người Trung Quốc. Chúng ta bất luận là người Trung Quốc hay là người ngoại quốc, mỗi người đều vì miếng cơm, manh áo, chỗ ở mà bôn ba bận rộn. Tại sao vì những thứ này mà bận rộn? Nếu không bận rộn về những thứ này, thì không thể giải quyết vấn đề này, nên cần phải vì miếng cơm, manh áo, chỗ ở mà bận rộn.
Nhưng không có ai vì sanh tử mà bận rộn, lại không có ai suy nghĩ:
“Tại sao tôi đến thế giới này? Tôi đến như thế nào? Từ đâu mà đến?”
Cũng không thấy có người lúc gặp nhau sẽ hỏi thăm: “Anh từ đâu đến đây? Đến bao lâu rồi?”
Chúng ta mỗi người không hỏi bản thân mình từ đâu mà đến, ngay chỗ mình đến cũng quên, chỗ mình đi cũng quên. Đến khi chết: “Tôi chết sẽ đi về đâu?”, cũng không nhớ nghiên cứu vấn đề này. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thấy mọi người không còn nhớ việc đại sự sanh tử, cho nên đến thế giới này nhắc nhở chúng ta cần phải chú ý và nghiên cứu vấn đề sanh tử này. Nên phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa nói: Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Muốn cho chúng sanh khai mở Phật tri kiến, nên xuất hiện ở đời; muốn chỉ cho chúng sanh Phật tri kiến, nên xuất hiện ở đời; vì muốn cho chúng sanh ngộ Phật tri kiến nên xuất hiện ở đời; vì muốn cho chúng sanh nhập Phật tri kiến, nên xuất hiện ở đời.
1. Khai Phật tri kiến
“Khai Phật tri kiến” là gì? Tất cả chúng sanh vốn đầy đủ tri kiến Phật, trí huệ bổn lai đều giống như Phật, giống như mỏ vàng đang đợi khai phá, mà trước tôi đã giảng đến, trong mỏ vàng này, vàng chưa được khai phá, nên chưa hiện ra. Phật tánh vốn có của mình cũng vậy. Nay biết mình vốn có Phật tánh, cần phải như pháp tu hành thì sau đó bản tánh mới có thể xuất hiện,- như khai phá mỏ vàng, mới được vàng ròng, trong vàng ròng thì không có tạp chất cặn bã, nếu lẫn vào tạp chất thì không phải là vàng ròng nữa.
Vậy thì, Phật tánh vốn có của chúng ta, ở đâu vậy? trí huệ vốn có của chúng ta, ở đâu vậy? Quý vị có muốn biết không? Tôi nay bảo cho quý vị biết Phật tánh vốn có chính là trong phiền não của mỗi người chúng ta. Mỗi người đều có phiền não, chính là mỗi người đều có Phật tánh, chỉ vì chúng ta chưa có thể làm cho Phật tánh hiển hiện ra, nên biến thành phiền não.
Nay đưa ra một ví dụ, ví dụ gì? Phiền não của chúng ta như nước đá, Phật tánh như nước. Nước có tánh ướt, mà trong nước đá cũng có tánh ướt; nước là trí huệ, nước đá là phiền não, trong trí huệ và phiền não đều có Phật tánh. Phật tánh là gì? Là ví như tánh ướt của nước. Quý vị không thể nói nước đá không có tánh ướt, quý vị cũng không thể nói nước không có tánh ướt, nước và nước đá đều có tánh ướt. Nhưng nước đá có thể hại người; nước thì không thể hại người.
Thưa rằng: “Bạch thượng nhân, Thượng nhân giảng điều này cũng có lý, nhưng con cho rằng lại không có lý. Tại sao vậy? Nước đá có thể hại người, con biết rồi, Thượng nhân thường thường nói nếu dùng nước đá đánh người, thì có thể đánh chết người, thì có hại đối với người. Nhưng mình có đánh thì người kia mới chết!”
Đánh người là gì? Chính là lúc quý vị sanh phiền não, sanh phiền não thì giống như đánh người vậy. Khi một bát nước chưa biến thành nước đá, quý vị dội vào mình người khác, họ không cảm thấy đau đớn gì hết; nếu biến thành nước đá rồi, quý vị đánh vào đầu người, thì có thể đánh bể đầu họ, thậm chí có thể đánh chết người. Đạo lý này thì rất rõ ràng.
Người có trí huệ, dù có mắng người: “Ông không nên làm như thế!”
Người có trí huệ khi nói ra, thanh âm làm cho người nghe rất hoan hỷ. Đó giống như dội nước trên mình người, người ta không cảm thấy đau nhức. Nếu quý vị có phiền não, quý vị dùng phiền não để mắng người: “Cái vô minh của ông quá to!”
Lời vừa nói ra cũng khiến người ta sanh phiền não, thậm chí còn đánh nhau. Đánh nhau thì nhất định có sự tổn thương, đó là sự khác nhau giữa nước và nước đá, cũng là sự khác nhau giữa phiền não và trí huệ.
Nước đá và nước đều có tánh ướt, tánh ướt đó ví dụ cho Phật tánh. Mỗi một người chúng ta có thể biến phiền não thành trí huệ, đó là phản bổn hoàn nguyên. Nước không phải là nước đá, nhưng quý vị không thể nói nước đá không phải là nước, nước đá là do nước hóa thành. Quý vị cũng không thể nói nước không phải là nước đá, vì nước đá có thể hóa thành nước, nước cũng có thể hóa thành đá. Cho nên không thể nói chúng sanh không phải Phật, Phật không phải chúng sanh. Kỳ thực, Phật là Phật trong chúng sanh, chúng sanh là chúng sanh trong Phật. Chúng ta nếu có thể hiểu được đạo lý này, như nước đá chính là nước, nước là nước đá, là một sự chuyển biến. Nếu quý vị không chuyển biến, thì có chỗ hại! Nếu quý vị chuyển biến thì có chỗ ích lợi.
Thưa rằng: “Thượng nhân nói nước không làm hại người, nhưng nước lớn cũng có thể dìm chết người”.
Quý vị nói rất đúng! Nhưng nay tôi lấy nước ít để làm ví dụ, chứ không phải lấy nước lớn làm ví dụ. Nếu quý vị dùng lời vấn nạn không hợp đạo lý thì rất là nhiều không bao giờ hết. Vì thế nay quý vị lấy ý nghĩa này mà không nên phát sanh chướng ngại: “A! Thượng nhân nói nước không làm hại người? Nước lớn có thể làm dìm chết người. Đạo lý này tôi không tin!”
Nếu quý vị thật sự không tin, tôi giảng cái gì quý vị cũng không tin; nếu quý vị tin, tôi nói cây đẻ ra trứng, quý vị cũng sẽ tin. Nếu được vậy, quý vị sẽ có trí huệ. Nếu quý vị không có lòng tin như thế, quý vị sẽ không bao giờ sanh ra trí huệ chân chánh, trí huệ chân chánh cũng là từ ngu si chân chánh mà ra. Nên nước đá biến thành nước thì có trí huệ; nước biến thành nước đá thì là ngu si. Phiền não cũng chính là ngu si. Tại sao sanh phiền não? Vì quý vị không hiểu rõ, nếu quý vị hiểu rõ, làm gì có phiền não? Nếu quý vị thấu triệt, thì sẽ không có phiền não.
Nên tôi giảng kinh là giảng cái lý, quý vị không nên đưa cái sự vào. Giảng đạo lý, quý vị không nên dùng sự để mà bình luận cái lý, sự và lý không giống nhau. Nên quý vị phải từ từ nghe, nghe nhiều rồi quý vị biết lời giảng của tôi là đúng; quý vị nghe ít, thì cảm thấy hoàn toàn xa lạ: “Giảng cái gì mà tôi không hiểu!” Quý vị vốn chưa nghe qua làm sao hiểu được? Nếu quý vị chưa từng nghe qua mà đã hiểu, vậy thì trí huệ của quý vị quá tuyệt vời rồi! Chính vì trong kiếp quá khứ hoặc đã nghe qua, hoặc đời này đây là lần đầu tiên; lần đầu tiên thì cảm thấy có chút xa lạ. Như quý vị lần đầu tiên gặp người này: “A! Người này không biết tôi có quen hay không? Tôi có gặp qua chưa vậy?” Đến khi nhiều lần gặp nhau: “Tôi biết người này!” Vì thế quý vị nghe kinh cũng như vậy.
Nay quý vị hiểu rõ tự tánh chính là Phật tánh, quý vị có thể biến phiền não thành Bồ đề, Bồ đề là đạo lý giác ngộ. Quý vị giác ngộ cái gì? Giác ngộ tất cả đều không nên chấp trước. Quý vị có chỗ chấp trước thì sẽ không giác ngộ; quý vị không có chấp trước, bất cứ sự việc gì cũng không chấp trước. Như tôi, tôi chưa có giác ngộ, nhưng tôi không có chấp trước.
Thưa rằng: “Thượng nhân không có chấp trước, Thượng nhân cũng chưa có giác ngộ, vậy thì chúng ta giống nhau!”
Tôi và quý vị không giống nhau, nếu quý vị không có chấp trước thì sẽ giác ngộ. Tại sao vậy? Vì tôi không muốn giác ngộ, tôi muốn ở chung với chúng sanh. Tâm của quý vị và tôi không giống đâu. Tôi không nở bỏ chúng sanh, tôi thấy người nào cũng đều tốt, nên tôi không muốn giác ngộ.
Tôi bảo cho quý vị phương pháp để quý vị giác ngộ. Kỳ thật, đó chính là phát tâm Bồ tát. Phát tâm Bồ tát là muốn mọi người tốt, đối với bản thân mình thì không để ý đến, nên tôi thường nói rằng: “Nếu quý vị tất cả đều có thể thành Phật, tôi xuống địa ngục thọ vô lượng khổ tôi cũng bằng lòng”. Nên nay tôi bảo quý vị phương pháp tu hành, như có đồ ăn ngon, tôi muốn cho mọi người ăn, còn tôi ăn ít, thưởng thức chút mùi vị được rồi. Nay đối với mùi vị giác ngộ, đã nếm được chút ít, nên tôi muốn cho quý vị ăn được mùi vị giác ngộ. Mùi vị của giác ngộ chính là muốn quý vị đoạn trừ phiền não, đến lúc không còn phiền não; không còn vô minh, thì sanh ra trí huệ, nhân đó mà được giải thoát, đó gọi là khai Phật tri kiến.
2. Thị Phật tri kiến
Quý vị mở ra tri kiến Phật rồi còn phải “thị Phật tri kiến”. Thị tức chỉ thị. Tri kiến Phật khai mở rồi, cần phải dụng công phu. Dụng công phu như thế nào? Giống như khai thác mỏ vàng, cần có công nhân làm việc. Làm như thế nào? Trước quý vị phải đào đất, sau đó từng chút từng chút trong đất đãi cho ra được vàng ròng. Cho nên cần phải chỉ chúng sanh như thế nào mà đạt được vàng ròng, đây là thị Phật tri kiến, chỉ cho quý vị tri kiến Phật vốn có của chính quý vị.
3. Ngộ Phật tri kiến
Sau đó phải “ngộ Phật tri kiến”. Chỉ thị rồi, quý vị phải tự tu hành, phải dụng công, nên chúng ta ngày ngày tọa thiền, thì một ngày nào đó sẽ hoát nhiên quán thông, lập tức khai ngộ. Khai cái ngộ gì? Quý vị ngộ: “Ồ! Thì ra là như vậy!” Quý vị hiểu biết thực sự, hiểu rõ thực sự vấn đề nhân sanh. Vấn đề nhân sanh quý vị thật sự hiểu rõ rồi, đó là ngộ Phật tri kiến.
Tri kiến Phật không giống với tri kiến chúng sanh chúng ta. Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối toàn là vọng tưởng, chấp trước. Ai đối với mình không tốt liền sanh lòng phiền não: “Bạn đối với tôi không tốt a!” Tại sao người ta đối với quý vị không tốt? Nếu quý vị đối với người ta tốt, thì làm sao có người không tốt với bạn? Hiểu rõ đạo lý này thì sẽ không có người không tốt với quý vị, vì không phải người ta không tốt với mình, mà là chính mình không tốt với người ta. Một bàn tay vỗ không kêu. Quý vị vỗ một bàn tay có kêu không? Không kêu được; quý vị vỗ hai bàn tay thì sẽ kêu. Nên nếu quý vị thật lòng đối tốt với người, thì người sẽ đối tốt lại với quý vị.
Ví như người người đều lễ Phật, cung cung kính kính cúi đầu đảnh lễ Đức Phật. Tại sao đối với Phật cung kính như thế? Vì Phật thật là tốt, nên không có ai không tốt với Phật.
Thưa: “Điều này con cũng không tin, vì có người hủy báng Phật, nói Phật không tốt!”
Có người hủy báng Phật, thì vốn không nên xem người đó là người. Người hủy báng Phật là người như thế nào? Người đó không hiểu đạo lý làm người, nên mới hủy Phật, báng Pháp, báng Tăng. Nói Phật không đúng, căn bổn là người đó không hiểu vấn đề nhân sanh, nên báng Phật, báng Pháp, báng Tăng. Nếu hiểu rõ đạo lý này, thì người ấy sẽ không sanh ra tâm hủy báng.
4. Nhập Phật tri kiến
Sau khi ngộ Phật tri kiến là “nhập Phật tri kiến”. Làm thế nào để được nhập Phật tri kiến? Quý vị cần phải nỗ lực dụng công. Hiểu rõ rồi sau đó dụng công, hồi quang phản chiếu, đến lúc hào quang chiếu đến tâm của quý vị; thì trong tâm quý vị khai mở trí huệ chân chánh, đó là nhập Phật tri kiến. Nhập Phật tri kiến thì tri kiến ấy giống như tri kiến Phật vậy, không hai không khác. Đó gọi là khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến.
II. Biệt Nhân Duyên
Đây là phần thứ hai của “giáo khởi nhân duyên”. Ở trên đã nói về nhân duyên chung là căn cứ theo Đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh hơn ba trăm hội, vì chúng sanh thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh. Đây là chỉ cho pháp mà Phật thuyết ra, đại khái một đời giáo hóa chúng sanh. Nếu nói về nhân duyên Phật nói kinh “Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh” này là nhân duyên riêng, lại chia ra làm sáu nhân duyên. Sáu nhân duyên là: 1. Thị đa văn, hốt định lực; 2. Cảnh cuồng huệ, hộ tà tư; 3. Chỉ chân tâm, hiển căn tánh; 4. Thị tánh định, khuyến thật chứng; 5. Tiêu đảo tưởng, trừ tế hoặc; 6. Minh nhị môn, lợi kim hậu.
1. Nhân duyên thứ nhất là: “Thị đa văn, hốt định lực”
Thị là ỷ lại, ỷ lại vào cái gì? Ỷ lại đa văn. Đa văn là nhiều kiến văn, học rộng biết nhiều. Gì là đa văn? Như đọc kinh nghe pháp nhiều, trí thức cũng nhiều. Như A Nan có năng lực đa văn, những pháp mà Phật thuyết ra, vì A Nan thường theo hầu Phật mấy mươi năm, mỗi pháp hội Đức Phật nói ra điều gì, Ngài đều ghi nhớ hết, thật là nghe rồi không quên, sức ghi nhớ của Ngài vô cùng tuyệt vời, đó gọi là đa văn, cũng gọi là bác văn cường ký. Bác chính là quảng bác; cường ký là không cần ép buộc mà vẫn nhớ dai. Sự ghi nhớ của A Nan không cần miễn cưỡng, Ngài tự nhiên ghi nhớ. Nếu quý vị bác văn, chính là xem sách rất nhiều; cường ký là quý vị dùng tâm sức ghi nhớ những đạo lý ở trong sách, đó gọi là bác văn cường ký.
Vì đạo lý ghi nhớ rất nhiều nên có chỗ ỷ lại. Gì gọi là ỷ lại? Chính là “bạn xem, tôi hiểu biết nhiều việc hơn bạn”. Đó là ỷ lại: “Tôi học rất nhiều, các bằng Tiến sĩ Khoa học, Triết học, Văn học tôi đều đạt được. A, bạn xem! Một mình tôi có hơn một trăm bằng cấp học vị Tiến sĩ”. A Nan có chỗ ỷ lại về sự học rộng nghe nhiều, đó gọi là thị đa văn.
“Hốt định lực”: Hốt là xem thường, không chú ý, cho rằng việc đó không quan trọng. Việc gì không quan trọng? Cho định lực không quan trọng. A Nan cho rằng: “Định lực này không quan trọng, không có vấn đề gì. Tôi biết rất nhiều, tôi có trí huệ là được rồi! Định lực? Không quan hệ gì cả, do định phát huệ, tôi đã có trí huệ rồi”. Vì thế, A Nan không xem trọng sự tu dưỡng định lực. Kinh này là vì A Nan mà nói ra. Tại sao vì A Nan mà nói? Chính là vì A Nan không có định lực. Tại sao A Nan không có định lực? A Nan hằng ngày không dụng công tham thiền, hằng ngày chuyên viết chữ, xem sách, học kinh. Ngài không ngồi thiền, không tham thiền. Người ta đi ngồi thiền, thì Ngài đi xem sách, Ngài không xem trọng định lực như thế.
Lớp hè hiện nay của chúng ta, đó mới là tuyệt diệu, không thể dùng ngôn ngữ diễn tả được! Vừa ngồi thiền, vừa nghe kinh. Ngồi thiền là thực hành, nghe kinh là giải, cần phải hiểu rõ đó là giải hành song tu, cùng nhau tương ứng. Hiểu rõ rồi, sau đó mới dụng công tu hành, dụng công thì sẽ khai ngộ. Tôi hy vọng trong thời gian lớp hè này, ít nhất cũng có mười người trở lên khai ngộ mới được, như thế mới mãn nguyện của tôi. Nếu chỉ có một hai người, tôi cảm thấy không đủ với giá trị thời gian của tôi bỏ ra!
Nên tôi hy vọng các vị mỗi người đều phải tôn trọng việc làm, nắm bắt công phu này, cũng không nên thị đa văn, cũng không nên hốt định lực. Chúng ta ở đây vừa xem trọng định lực, vừa xem trọng đa văn; đa văn chúng ta cũng học, định lực chúng ta cũng học, đó là đa văn và định lực cần phải tiến hành song song. Chúng ta dụng công cả hai mặt đa văn và định lực, cảnh giới này là cảnh giới thù thắng bất khả tư nghì. Vì thế, pháp hội khó gặp này, quý vị mỗi người nếu khai ngộ mới không bỏ phí công cực khổ tu hành của mình. Quý vị không uổng công cực khổ, tôi cũng vậy. Chúng ta đều cảm thấy đại hoan hỷ. Nên tôi kêu quý vị mỗi người mỗi ngày phải viết tóm lược trích yếu (summary) của quý vị đưa cho tôi xem. Quý vị ngồi thiền có cảm giác gì, có cảnh giới gì cũng viết ra đưa cho tôi; quý vị nghe kinh có cảm tưởng gì cũng viết ra cho tôi, và những đạo lý nghe được cũng nên ghi chép lại, cần phải như vậy.
Pháp hội này vô cùng hy hữu. Chúng ta có thể ở thời đại Mạt pháp này, dũng cảm tinh tấn tu hành như thế, sáng sớm thức dậy, tối ngủ trễ, đó chính là tinh tấn học tập Phật pháp. Đó chính là đã không thị đa văn, cũng không hốt định lực. Đó cũng học đa văn, cũng tu định lực, đó là cơ hội khó được.
Bộ kinh này thuyết ra chú Lăng Nghiêm để giải cứu Tôn giả A Nan. Tại sao cứu Tôn giả A Nan? Vì Tôn giả A Nan từ trước đến nay chú trọng học tập văn tự Bát nhã mà không tu tập thực tướng Bát nhã. Ngài chú trọng văn tự Bát nhã cho rằng có thể thành Phật, có thể được khai ngộ. Ngài lại có lòng ỷ lại. Ỷ lại gì? Ngài nghĩ rằng, Ngài là anh em chú bác của Đức Phật, Đức Phật đã thành Phật rồi, nhất định sẽ giúp Ngài thành Phật, nên Ngài tu hay không cũng không có vấn đề gì. Vì có tư tưởng như thế, nên A Nan xem thường định lực, nên không ngồi thiền, cũng không tham thiền, không dụng công, chỉ chuyên học tập văn tự Bát nhã, như thế Ngài lại để thời gian luống qua rất nhiều.
Một ngày nọ, A Nan một mình đi khất thực. Khất thực chính là ôm bình bát đến mỗi nhà hóa duyên, hóa duyên cơm đem về ăn. Như thế Ngài một mình đi khất thực gặp phải cô Ma Đăng Già. Mẹ của cô Ma Đăng Già là ngoại đạo Hoàng Phát (tóc vàng), bà tu trì pháp ngoại đạo. Ngoại đạo này cũng có chú thuật của họ, có pháp lực của họ, pháp lực của họ cũng rất linh ứng.
Do vì Ma Đăng Già Nữ nhìn thấy Tôn giả A Nan, thấy tướng mạo của Tôn giả A Nan vô cùng viên mãn, vô cùng tuấn tú, liền lập tức ưa thích Tôn giả. Cô ta ưa thích Tôn giả nhưng không có cách nào được, bèn trở về nói với mẹ rằng:
- Mẹ ơi! Nhất định phải mang A Nan về cho con, kết hôn với con; nếu mẹ không mang A Nan về cho con, con sẽ chết, con không muốn sống!
Mẹ của cô ta vì thương yêu con gái, nên dùng chú Tiên Phạm Thiên, dùng một loại chú thuật của ngoại đạo, vừa niệm chú thì sức mạnh của chú này đã làm cho Tôn giả A Nan mê đi. Gì là mê? Tôn giả A Nan không còn làm chủ được mình, vì không có định lực nên không thể làm chủ được mình, nên theo chú đó mà theo bà ta về nhà, mà gần phá giới. Tôn giả A Nan phá giới gì vậy? Phá giới dâm. Năm giới sát sanh, trôm cắp. Hành dâm, vọng ngôn, uống rượu, Tôn giả A Nan sắp phá giới dâm này.
Lúc sắp phá giới, Phật Đà biết được. Tôi tin tưởng lúc đó Phật cũng vì sự quan hệ anh em chú bác với A Nan. Vừa thấy em của mình gặp nạn nên lập tức nói chú Lăng Nghiêm này. Nói chú Lăng Nghiêm phá chú Tiên Phạm Thiên của ngoại đạo tóc vàng, dùng sức mạnh của chú Lăng Nghiêm làm A Nan tỉnh lại từ trong lưới mê. A Nan như uống rượu say, lại như uống thuốc mê, gì cũng không biết. Vừa niệm chú Lăng Nghiêm Tôn giả A Nan liền tỉnh lại. Tỉnh lại liền nhìn và tự hỏi tại sao mình đi đến chỗ này? Vì thế A Nan liền trở về, khóc nức nở bạch với Phật rằng: “Ngã nhất hướng đa văn, vị toàn đạo lực!” Con từ trước đến nay ưa thích đa văn, nên đạo lực không đầy đủ. Đạo lực chính là định lực, con không có định lực, thỉnh Phật dạy cho con mười phương chư Phật tu hành như thế nào, mới được định lực này để thành chánh giác? Cho nên nhân duyên của bộ kinh này là vì Tôn giả A Nan trước ỷ lại đa văn, xem thường định lực; nên nay Phật phá cái mê chấp của Tôn giả A Nan, cứu Tôn giả trở về, sau đó thuyết kinh Lăng Nghiêm này. Tôn giả A Nan lần này mới phát tâm tu hành, vì thế “Thị đa văn, hốt định lực” là nhân duyên thứ nhất.
2. Nhân duyên thứ hai là: “Cảnh cuồng huệ, hộ tà tư”
Cảnh là cảnh giới, cảnh cáo. Cảnh cáo gì? Cảnh cáo những người có cuồng huệ. Cuồng huệ là gì? Cuồng huệ là thông minh thiên phú; thông minh thiên phú thì có nhưng lại không làm những việc chánh đáng, ngược lại ỷ vào trí huệ của mình mà làm những việc không chánh đáng; dùng trí huệ của mình đi làm những việc hại người. Đó là tư tưởng tà ác. Có tư tưởng tà ác, lại che giấu tư tưởng tà ác của mình. Người đó cho rằng tư tưởng tà của mình là chính xác. Nên bộ kinh này cảnh cáo người có cuồng huệ, người ấy hộ trì tư tưởng không chánh đáng của mình. Hộ tà tư, chính là người có cuồng huệ bảo hộ tư tưởng tà ác của mình. Người ấy cho rằng tư tưởng mình không phải tà, nói: “Tư tưởng của tôi là chánh đáng”. Thế gian này có rất nhiều người, thông minh thì rất thông minh, nhưng thông minh lại bị thông minh làm hại, chỉ làm những việc hồ đồ. Giảng đến đây nhớ lại vài câu cách ngôn, cách ngôn rằng:
Thông minh nãi thị âm chất trợ
Âm chất dẫn nhập thông minh lộ
Bất hành âm chất sử thông minh
Thông minh phản bị thông minh ngộ.
“Thông minh nãi thị âm chất trợ”: Vì sao được thông minh? Vì người thông minh này đời trước có đức hạnh cho nên sanh ra đời nay rất thông minh. Hoặc là kiếp trước đọc sách nhiều, hoặc là tụng niệm kinh điển nhiều nên đời này rất thông minh.
“Âm chất dẫn nhập thông minh lộ”: Tại sao được thông minh? Vì đã từng làm rất nhiều việc tốt, làm nhiều việc thiện lành. Gì là âm chất? Âm chất tức là những việc âm đức, những việc thiện mà người ta không thấy. Giả như làm một việc tốt rồi nổi chuông nổi trống, lại đăng báo, hoặc là phát thanh trên đài, hoặc là phát biểu trong radio, thậm chí trên tờ fax cũng biểu diễn, nói “A! ai đó hiện nay đang làm việc tốt!”. Đó không phải là âm chất, đó chỉ có thể nói là làm việc tốt. Âm chất là làm việc tốt mà người ta không biết. Làm việc tốt mà không có ai biết, đó mới thực sự là việc thiện chân chánh. Nên nói:
Thiện dục nhân kiến, bất thị chân thiện,
Ác khủng nhân tri, tiện thị đại ác.
“Thiện dục nhân kiến, bất thị chân thiện”: làm việc thiện, việc tốt lành, thích người khác biết, đi khắp nơi nói cho người ta biết: “Tôi nay thông báo cho mọi người biết, tôi đã nhiều làm việc tốt rồi”. Đó không phải là chân thiện. Tại sao vậy? Đó chỉ là cái danh, chỉ vì tham cái danh thiện mà thôi, chứ không phải thực sự muốn làm điều thiện, cho nên nói đây không phải là chân thiện, cái thiện chân chánh, cái thiện thật sự.
“Ác khủng nhân tri, tiện thị đại ác”: làm việc ác nhưng sợ mọi người biết, đó là một việc đại ác.
“Bất hành âm chất sử thông minh”: Nay vì thông minh rồi bèn không cần âm chất nữa, không làm việc tốt và cũng không cần hành thiện; chuyên môn sử dụng những cái thông minh nhỏ nhặt đó, tiểu trí tiểu huệ. Đó không phải là thông minh chân chánh, mà là tiểu trí tiểu huệ, quên đi cái gốc.
“Thông minh phản bị thông minh ngộ”: Như thế thì sao? Cuối cùng bị cái thông minh nhỏ nhặt đó làm hại, không còn tinh tấn làm những việc tốt nữa mà đọa lạc dần dần.
Trung Quốc thời Tam Quốc có Tào Tháo, quý vị có nghe qua chưa? Tào Tháo là người rất thông minh, nhưng rất gian. Có câu nói “Tào Tháo gian như quỷ, Nghiêu Đế trí như Thần”. Tào Tháo gian như quỷ, gian đến trình độ nào? Quý vị thấy quỷ kia, chỉ có ban đêm mới xuất hiện, ban ngày không có mặt. “Nghiêu Đế trí như thần”, Trung Quốc có vua Nghiêu, trí huệ của vua Nghiêu như thần tiên vậy. Nên ở nước Mỹ của quý vị, nói người có trí huệ như thần tiên. Joe Miller thường thường nói với người ta:
- Thầy Phương trượng (Abbot) chính là God, chính là thần tiên.
Kỳ thật tôi không muốn làm thượng đế, thượng đế có ý nghĩa lớn lao gì đâu. Joe cho rằng như thế là khen ngợi tôi, tôi cho rằng như thế là hủy báng tôi. Vì thượng đế, quý vị không nên xem quá cao, trong Phật giáo, thần thì rất nhỏ. Thần trên trời đều phải ủng hộ Tam bảo, đều phải hộ trì Phật, hộ trì Pháp, hộ trì Tăng, chư thiên hay thượng đế chỉ có thể làm vị Hộ pháp trong Phật giáo mà thôi.
“Thiện dục nhân kiến, bất thị chân thiện, ác khủng nhân tri, tiện thị đại ác”. Nhưng người làm việc đại ác, nếu hồi đầu thì là đại thiện; ngược lại, bậc đại thiện sĩ nếu bị đọa lạc thì giống như kẻ đại ác. Kẻ đại ác biết giác ngộ: “Tôi nay muốn cải ác hướng thiện”, đó là người đại thiện. Tại sao vậy? Vì người đó có thể dõng mãnh sửa đổi lỗi lầm, đó là người đại thiện. Người đại thiện nếu đọa lạc thì giống như kẻ đại ác, quý vị thường ngày làm việc thiện, làm hoài làm mãi, cảm thấy không có cảm ứng gì: “A! Tôi làm việc thiện, việc tốt rất nhiều, mà không có cảm ứng gì, hay là đi làm việc xấu, việc ác cho rồi”. Làm hại người, gạt người, làm những việc bất lợi cho người, đó là đại ác. Tại sao vậy? Vì “minh tri cố phạm”, biết việc đó là không đúng, tại sao vẫn đi làm? Nên thành đại ác.
Người có cuồng huệ thường làm những việc ngược ngạo điên đảo, làm những việc không chánh đáng, nhưng họ cho rằng là đúng; thậm chí giết người rồi còn nói: “Nếu tôi không giết người kia, thì người kia sẽ giết người! vì thế tôi giết người đó đi, để họ khỏi giết người nữa!” Quý vị thấy lời này có đúng hay không? Người kia vốn không giết người, nhưng bị người đó nói giết để khỏi đi giết người. Kiến giải như thế gọi là “cuồng”, gọi là “tà tư”. Vốn là vì bất mãn với người đó nên giết người đó đi. Đã phạm pháp rồi, mà dùng lời biện hộ: “Tại sao tôi giết người đó? Vì tôi sợ người đó làm Tổng Thống, sẽ giết hết người Mỹ chúng tôi, nên tôi giết nó!” Quý vị xem tư tưởng này đúng hay sai? Cho nên đó gọi là “Cuồng huệ”. Vốn là không đúng nhưng lại đưa ra lý do, đó gọi là “Tà tư”.
“Cảnh cuồng huệ, hộ tà tư” câu này quý vị không nên hiểu lầm. “Cảnh cuồng huệ” là cảnh cáo những người có cuồng huệ. Chữ “hộ” trong “Hộ tà tư” không phải nói chúng ta giúp tà tư của người đó, ủng hộ tà tư của người đó, khen ngợi tà tư của người đó, không phải vậy. Đó là nói người có cuồng huệ này, che đậy tà tư của mình, dùng những lý lẽ không chánh đáng để biện hộ cho mình. Vốn không đúng, lại thiêu dệt ra lý do khiến mọi người vô phương giải quyết. Pháp quang khi nghe: “Người này nói rất có lý!” nên vốn là phải thường mệnh, kết quả lại thắng kiện. Đó gọi là có một loại cuồng huệ hộ trì tà tư của người đó. Kinh này chính là cảnh cáo loại người đó, không nên che đậy tà tư của mình mà nên sửa đổi lỗi lầm, không nên cho rằng mình là đúng. Như thế gian này có rất nhiều người thông minh, thường làm những việc không chánh đáng, đó đều gọi là cuồng huệ, nên đi vào con đường chánh, quay về tư tưởng chân chánh, không nên có những tư tưởng tà kiến.
3. Nhân duyên thứ ba là: “Chỉ chân tâm, hiển căn tánh”
Kinh Lăng Nghiêm là một bộ kinh trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Trực chỉ tâm gì của người? Trực chỉ chân tâm của người. Chân tâm của người có hình tướng gì? Chân tâm của người, quý vị nhìn không thấy đâu. Có người nói:
- Con có cái tâm, con có thể nhìn thấy.
- Quý vị nhìn thấy cái tâm của quý vị có hình dáng gì?
Nói:
- Trong thân thể của con giống như hoa sen treo ngược, nên con biết con có cái tâm này.
Đó không phải là chân tâm của quý vị, chỉ là cái nhục đoàn tâm (tâm bằng thịt) của quý vị. Nhục đoàn tâm này sẽ không có tác dụng gì, chỉ duy trì cái mạng sống của quý vị mà thôi, nó không phải là tâm có thể chi phối quý vị, có thể khiến quý vị chân chánh hiểu biết tất cả. Tại sao vậy? Nếu cái tâm này là chân tâm của quý vị, khi quý vị chết đi, tâm này chẳng phải không còn. Thân thể người đó còn ở đây, tâm thì vẫn ở trong mình người đó, tại sao nó không thể chi phối người đó? Điều đó thì rất rõ ràng, cái nhục đoàn tâm này không phải là chân tâm của quý vị.
Vậy thì chân tâm cũng chính là Phật tánh vốn có của quý vị, nên hiện ra nơi căn tánh của quý vị. Phật tánh vốn có ở đâu? Phật tánh chính ở bên trong quý vị, nhưng không ở bên ngoài thân, không ở bên trong thân, cũng không ở chính giữa. Khi giảng đến phần chánh văn của kinh, quý vị sẽ hiểu rõ đạo lý đó, trong kinh này nói rất tỉ mỉ rõ ràng. Cho nên mười phen “hiển kiến”, hiển bày ra tánh thấy, tánh thấy này mới là chân tâm của quý vị. Bộ kinh này thật sự là nói về tánh thấy. Nên nhân duyên của bộ kinh này, cũng chính là muốn chỉ rõ “thường trụ chân tâm, tánh tịnh minh thể” của mỗi người chúng ta. Thường trụ chân tâm của chúng ta không đến không đi, bất động bất biến, không có thay đổi, nên mới là thường trụ chân tâm; tánh tịnh minh thể, bổn thể này cũng không có nhiễm ô. Nên đây chỉ ra chân tâm vốn có của mỗi người chúng ta, mà hiển ra căn tánh bổn nhiên, đó là nhân duyên thứ ba của kinh này.
4. Nhân duyên thứ tư là: “Thị tánh định, khuyên thật chứng”
Pháp môn tu định có rất nhiều loại, dù là ngoại đạo cũng tu định, cũng có định lực của họ. Nhưng sự sai khác trong đó lại là “sai chi hào ly, mậu chi thiên lý” – sự sai khác rất nhỏ, mà lầm lỗi rất lớn, nên chúng ta cần phải tu chánh định, mà không nên tu tà định. Định của tiểu thừa tu không phải là cứu cánh, định của ngoại đạo tu là tà định, không phải là chánh định. Vì không phải là chánh định nên bất kể tu đến lúc nào cũng không thể thành Chánh quả. Tại sao nói không thể thành Chánh quả? Vì cái định này không phải “tánh định”, mà là một loại tà định. Gì gọi là tánh định? Về “tánh định”, tôi có hai câu rất quan trọng, quý vị mỗi người cần phải viết vào vở:
Tánh định ma phục triêu triêu lạc,
Vọng niệm bất khởi xứ xứ an.
Tại sao chúng ta tu hành gặp phải vô vàn ma chướng, nghiệp chướng? Vì tánh của chúng ta chưa được định vậy! Nếu tánh định rồi, thì ma gì cũng bị hàng phục. Tại sao quý vị không thể hàng phục tất cả ma này? Vì tánh của quý vị chưa có định, nên chưa thể hàng phục được ma.
Ma có rất nhiều loại, căn cứ theo bộ kinh này nói thì có năm mươi loại ấm ma, kỳ thật ma có rất nhiều loại: thiên ma, địa ma, nhân ma, quỷ ma, yêu ma… Thiên ma là ma vương trên trời, đến nhiễu loạn thiền định của quý vị; Địa ma là ma ở trên mặt đất, đến nhiễu loạn thiền định của quý vị; lại có Nhân ma, đến nhiễu loạn thiền định của quý vị; lại có Quỷ ma đến nhiễu loạn thiền định của quý vị; lại có Yêu ma quỷ quái cũng đến nhiễu loạn thiền định của quý vị. Tại sao ma này muốn nhiễu loạn thiền định của quý vị? Nguyên nhân là vì mỗi người chúng ta trước khi thành Phật, hoặc chưa tin Phật, là người nhà hoặc là quyến thuộc với tất cả ma vương này. Nay quý vị muốn rời khỏi nhà của họ, quý vị muốn tu thiền định, liễu thoát sanh tử luân hồi, thì ma vương vì yêu quý quý vị, lưu luyến quý vị, không nỡ rời xa quý vị, cho nên đến quấy nhiễu tinh thần của quý vị, nhiễu loạn thiền định của quý vị, chướng ngại sự tu hành của quý vị. Vì vậy nếu định lực không đủ, quý vị sẽ bị cảnh giới ma chuyển mà đi theo ma; nếu định lực đầy đủ, như như bất động, liễu liễu thường minh, thì sẽ không đi theo ma. Như như bất động là định lực, liễu liễu thường minh là huệ lực, chính là sức mạnh định huệ. Quý vị có lực định huệ, nên ma gì cũng không làm quý vị giao động; ngược lại, nếu quý vị không có định lực, không có huệ lực, thì sẽ đi theo ma. Đi đến đâu? Đi đến quê hương của ma, làm ma con ma cháu, luân chuyển không ngừng, điều này rất nguy hiểm!
Ngoại đạo tu tập định lực, vì không biết sự quan trọng của tánh định, mà bắt đầu từ đầu ngọn chót đuôi, trong cái giả thân này dụng công phu. Việc đầu tiên là sai lầm cho cái thức của mình – tâm ý thức là chân tâm, cho rằng cái thức này là chân tâm, thật là điều sai lầm. Dù tu đạo có một chút cảnh giới tịch diệt, cũng đều không phải là thật tại. Giống như dùng một hòn đá đè lên cỏ, tuy có thể tạm thời khiến cho cỏ không thể sanh ra, nhưng khi dời đi cục đá, cỏ vẫn sanh trưởng bình thường. Dùng phương pháp cưỡng chế, khiến cho vọng tưởng không khởi, thì giống như dùng cục đá đè lên cỏ vậy, không phải biện pháp triệt để, nên không thể liễu thoát sanh tử. Nếu không đoạn trừ gốc rễ của vọng tưởng thì không thể liễu thoát sanh tử.
Thiền tông thường nói: “Niệm Phật là ai?”, tham ngộ câu thoại đầu này. Thoại đầu chính là quét sạch tất cả pháp, rời tất cả tướng. Tìm chữ “ai”, đó là triệt để trừ sạch nguồn gốc vọng tưởng, được như thế sẽ có ngày hoát nhiên khai ngộ, hoát nhiên quán thông. Sau khi hoát nhiên khai ngộ, quý vị mới biết lỗ mũi của quý vị hướng lên hay hướng xuống. Nay quý vị không biết lỗ mũi của quý vị là hướng lên hay hướng xuống; nếu quý vị biết lỗ mũi hướng lên hay hướng xuống thì sẽ có biện pháp.
Vậy lỗ mũi hướng lên hay hướng xuống, vấn đề này đợi đến khi quý vị khai ngộ mới có thể biết được. Nhưng lúc đó, Ấn Độ có một vài ngoại đạo không chú ý khai ngộ, họ học cái gì vậy? Học bò, học chó. Tại sao học bò, học chó? Vì ngoại đạo này, một ngày kia trong định, nhìn thấy một con bò sanh thiên, bèn nói:
- A! Con bò này sanh thiên rồi, tôi phải học theo bò.
Vì thế bèn học theo bò, bò không ăn họ cũng không ăn, lại học theo bò ăn cỏ, lại học bò ngủ nghỉ, rồi cũng ở trong chuồng bò. Ở nơi đó đương nhiên cũng học cách ngủ của bò, ngủ không được, thì tu một chút định, kết quả người ấy cũng không thành công, đó cũng là một loại tà định.
Lại có ngoại đạo hoặc nằm mộng, nhìn thấy chó sanh lên trời, bèn nói:
- Con chó sanh lên trời, tôi cũng phải tu theo như chó!
Vì thế, người ấy bèn học theo con chó giữ cửa, học theo chó ăn đồ, học cách chó ngủ, hành động, tất cả đều bắt chước theo chó. Đồ mà chó không ăn, người ấy cũng không ăn, đó là một cách tu ngoại đạo, kết quả cũng không thể thành công.
Lại có một lão tu hành tu theo pháp ngoại đạo, tu vô tưởng định. Đạt đến vô tưởng là không tưởng đến cái gì hết. Cho rằng, người thì vọng tưởng, mà ta thì không vọng tưởng, cái gì cũng không tưởng đến, cứ ở chỗ này tu đến tu đi, muốn sanh đến cõi trời Vô tưởng. Kết quả thì như thế nào? Sanh lên cõi trời Vô tưởng, sau đó vẫn phải đọa lạc, đó đều là tà định.
Tà định là chuyên môn tu pháp ngoại đạo, không phải là pháp môn triệt để, không phải từ căn bổn hạ công phu. Nếu từ tự tánh tu tự tánh, đó là từ căn bổn hạ thủ công phu. Nếu dùng tâm vọng tưởng tu Phật pháp, thì tu mãi, cũng giống như nấu cát mà muốn thành cơm, không bao giờ thành tựu, dù có tu nhiều đời nhiều kiếp cũng khó thoát ra khỏi luân hồi! Dù có tu thời gian như số cát sông Hằng, rất nhiều kiếp cũng không thể thành Phật. Nên tu hành nhất định phải gặp minh sư chân chánh, quý vị mới có thể đạt được định lực chân chánh. Nói đến định lực chân chánh này, quý vị muốn có định lực chân chánh, nhất định còn có ma, vừa rồi không phải nói đến các thứ ma hay sao? Có rất nhiều loại ma. Ma mà trên đây đề cập, chỉ là ngoại ma, ma từ bên ngoài đến; lại còn tự tâm ma; ma từ bên ngoài đến còn dễ hàng phục mà ma từ trong tâm mình sanh ra thì khó hàng phục; lại có một loại ma khó hàng phục nhất là bệnh ma.
Tôi nhớ lại lúc còn trẻ tu học Phật pháp, lúc đó khoảng 17, 18 tuổi, tự cho rằng mình là người phi thường, rất tự mãn, đã nói ra những lời ngông cuồng. Nói lời ngông cuồng gì? Tôi nói:
- Mọi người đều sợ ma, nhưng ma thì lại sợ tôi; ma sợ tôi chớ không phải tôi sợ ma.
Quý vị thấy câu đó có ngông cuồng không? Tôi nói: “Thiên ma, địa ma, thần ma, quỷ ma, nhân ma, bất luận ma gì tôi cũng không sợ”. Ai ngờ nói lời này xong, ma liền đến. Quý vị đoán ma gì đến? Đó là bệnh ma.
Trải qua một cơn bệnh nặng, cuối cùng trở thành tôi sợ ma, không phải ma sợ tôi, tôi sợ con ma bệnh này. Vì khi bệnh, hành động không còn tự do nữa, dường như bị gông cùm trói buộc, thân này cũng không nghe lời nữa. Kêu nó đi nó cũng không đi nổi nữa, kêu nó ngồi cũng không ngồi được, suốt ngày từ sáng đến tối cứ nằm trên giường, cũng không thể uống nước, cũng không thể ăn cơm, bị bệnh ma này ràng buộc lấy thân. Lúc đó tôi nghĩ, tôi đã nói sai rồi. Tôi nói: “Mọi người đều sợ ma, nhưng ma thì lại sợ tôi”. Nay bệnh ma đến tìm tôi, tôi không đề kháng được bệnh ma này, lúc đó tôi khoảng 17, 18 tuổi.
Bệnh này như thế nào? Bệnh nặng đến nỗi không còn biết gì nữa, thoi thóp hơi tàn sắp chết. Nhưng, trong lúc sắp chết mà vẫn chưa chết đó, một cảnh giới hiện ra. Cảnh giới gì? Chính là thấy ba người con hiếu họ Vương ở Đông Bắc, ở quê hương tôi. Đông Bắc có ba người hiếu tử họ Vương, trong đó có hai người xuất gia, một người tại gia. Hai người xuất gia, một người là đạo sĩ, một người là hòa thượng; tại gia là một lão cư sĩ, cả ba đều đến đây, kêu tôi đi chơi với họ, tôi cũng theo họ ra đi.
Thật kỳ lạ, vừa ra khỏi cửa, thì cái chân không còn dính đất nữa, tuy không phải là ngồi máy bay, lại không phải đằng vân giá võ, nhưng mà đi trong hư không. Lúc đi, thì từ nóc nhà ra đi, nhìn xuống dưới, thì phòng rất là nhỏ, cũng thấy rất nhiều người, rồi như thế ra đi. Đi đến đâu? Đi đến rất nhiều chùa miếu. Núi cao sông lớn. bốn đại danh sơn của Trung Quốc là Ngũ Đài Sơn, Nga Mi Sơn, Cửu Hoa Sơn và Phổ Đà Sơn, đều tham quan khắp hết. Đến chỗ nào cũng thấy rất nhiều người, cũng thấy rất nhiều chùa miếu. Lúc đó các chỗ đi tham quan không những là các địa phương trong đất nước Trung Quốc mà các vùng ở nước ngoài cũng đi rất nhiều. Gặp rất nhiều người Tây phươn, tóc trắng lông mày trắng, cặp mắt xanh.
Đến một chỗ rất nhanh rồi ra đi, giống như xem phim vậy, xem xong màn này thì tiếp màn khác, đi đến chỗ này xem xong, thì đến chỗ khác. Xem phim thì trên màn ảnh từng màn từng màn thay đổi, không phải người xem phim đi đến màn bạc. Tôi xem phim là tôi đi đến màn ảnh, không phải màn ảnh động, mà chúng tôi bốn người, khắp nơi đi xem phim. Lúc đó xem rất nhiều việc, nghe rất nhiều điều.
Sau đó bèn trở về đến cửa nhà mình, mở cửa nhìn vào trong phòng, tại sao trên giường vẫn còn có tôi ở đó? Khi đang cảm thấy vẫn còn có một cái “tôi”, vốn là có hai cái tôi, nay lại biến thành một cái tôi. Lúc đang cảm thấy như thế, thì biến thành một cái tôi, biến thành một cái tôi thì lúc đó có hơi thở, có động đậy. Lúc đó cha tôi, mẹ tôi đang ở bên cạnh nhìn tôi, nói:
- Con chưa chết, sống lại rồi.
Tôi nghĩ: “Gì là chưa chết, sống lại rồi?”
Như thế tôi đã cảm nhận được tôi chưa có chết, đã sống lại. Mình nhìn mình, nằm trên giường, không thể nhúc nhích. Cha mẹ tôi nói tôi đã bảy tám ngày cái gì cũng không biết cả, tất cả đều bất tỉnh nhân sự, nay đã có tri giác, biết tôi vẫn chưa chết.
Sau việc này – trước đó tôi đã không nói đến sao? Đã biến thành một người hoạt tử nhân; tôi nghĩ tôi đã chết rồi, lần này lại sống lại. Từ đó về sau tôi không còn nói ngông cuồng nữa, không nói: “Tôi không sợ ma, ma sợ tôi”. Nay tôi bảo với quý vị rằng, người tu đạo nhất định không được phát biểu lung tung, không nên nói bậy nói bạ, không nên nói những lời như thế, không nên nói “cái gì tôi cũng không sợ”; cái gì quý vị cũng không sợ thì sau này sẽ sợ. Vậy thì nói: “Cái gì tôi cũng sợ”. Cái gì cũng sợ thì cũng không đúng. Tóm lại, không nên nói những lời không có ích dụng.
Nhưng lúc đó tôi vẫn còn có một việc nói đến thì rất kỳ lạ. Việc gì vậy? Lúc đó tu hành cảm thấy mình có chút công phu. Vì khi tôi chưa bệnh còn đang ở Đông Bắc, ở trong hội Đạo Đức. Ở trong hội Đạo Đức làm cái gì? Giảng về đạo đức, nhân nghĩa, chuyên khuyên người làm việc tốt. Vậy khuyên người ta làm việc tốt, tôi có làm việc tốt không? Tôi càng phải làm việc tốt hơn nữa, không những chỉ khuyên người ta làm việc tốt mà mình không làm việc tốt.
Lúc đó tôi xem sách thấy có một bài viết về hành vi cao cả của Trương Nhã Hiên. Tôi nhìn thấy hành vi của ông ta cao cả như thế, nên phát nguyện. Phát nguyện gì? Tôi nói với Trời rằng:
- Trời ơi! Việc của Trương Nhã Hiên, tôi nhất định học theo ông ta.
Nói xong bèn cảm thấy hối hận: “Muốn học theo ông ta, có ích dụng gì?”. Sau khi nói xong lời đó thì rất kỳ lạ, buổi tối hôm đó liền gặp phải ma đến thử thách tôi, xem tôi có thể bắt chước Trương Nhã Hiên không? Điều này thì tôi biết, nếu có nguyện lực gì, Bồ tát thầm đến thử thách mình, nên không được nói những lời tự mãn. Rốt cuộc tôi gặp phải việc gì và việc của Trương Nhã Hiên là việc gì? Xin lỗi, nay tôi không nói đến. Tai sao vậy? Vì chưa đến lúc, cho nên tôi cũng không cần nói đến việc này.
Chúng ta mỗi người cần phải ghi nhớ, không nên nói: “Tôi thích cái gì”; cũng không nên nói: “Tôi không thích thứ gì”. Nếu thích thứ gì thì theo đó sẽ có cảnh giới khiến mình ưa thích đến thử thách; không thích thứ gì, thì sẽ có một cảnh giới mà mình không ưa thích đến thử thách. Tóm lại, những lời không có ý nghĩa thì không nên nói ra. Vậy thì phải làm sao? Cần phải nhất tâm tu đạo, không nên dùng tâm người, mà nên dùng tâm đạo, cũng tức là nên tu “tánh định”, mà cầu “thật chứng”. Thế nào là “thật chứng”? Thật chứng là không hư vọng, không giống với hư vọng.
Hư vọng, ví như khởi lên vọng tưởng: “A tôi nay thành Phật rồi!” Cho nên trong lúc tọa thiền có cảm giác mình giống như Phật, cũng phóng hào quang, cũng chấn động quả địa cầu. Kỳ thật không có việc ấy, đó chỉ là một loại hư vọng, không phải cảnh giới chứng quả. Có lúc lại khởi lên vọng tưởng trong lúc ngồi thiền nhìn thấy Phật đến thọ ký cho mình, nói: “Ngươi sắp thành Phật rồi! không cần tu nữa, ngươi nay đã là Phật!” Đó không phải thực tại, là một loại vọng, không phải là thực chứng đạo quả.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chứng quả dưới cội Bồ đề. Ngài ngồi bốn mươi chín ngày dưới gốc cây, ban đêm nhìn thấy sao mai mà ngộ đạo, khai ngộ. Sau khi khai ngộ Ngài nói:
- Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật.
Trước khi Ngài chưa chứng quả, ma vương trên trời từng đến thử thách Ngài, biến thành mỹ nữ, vô cùng tuyệt đẹp, đến trước Phật khuyên dụ Phật không nên tu đạo nữa, kêu Ngài kết hôn với mình. Có một cô gái đẹp tuyệt vời như thế, yêu cầu Phật kết hôn với cô ta, lúc đó Phật đang ở trong định, không bị cô ấy làm cho giao động. Phật nghĩ rằng: ‘Ôi! Ngươi tự cho rằng ngươi đẹp như thế, kỳ thật ngươi giống như một bà già, nét nhăn trên mặt không biết bao nhiêu? Trong mắt của ngươi, ghèn, nước mắt đã chảy biết bao nhiêu rồi; lỗ mũi của ngươi cũng có nước mũi, trong miệng lại có đàm nước miếng, cũng rất là nhiều; chung quanh mình đều là lôi thôi nhơ bẩn, ngươi còn đến đây gạt ta sao?”
Vì Phật ở trong định quán sát như thế, nên chuyển biến sức mạnh của ma, ma vương này quả nhiên biến thành một bà già, tóc bạc, răng rụng, mũi chảy nước, vô cùng xấu xa!
Phật gọi ma vương nói:
- Ngươi hãy tự xem lấy mình!
Ma vương bèn nhìn lại thân mình, sanh lòng xấu hổ, bèn chạy mất. Còn có rất nhiều loại ma dùng đủ mọi cách mê hoặc thử thách Đức Phật, nhưng Phật đều không bị các ma này làm cho giao động. Vì không bị ma làm giao động, nên mới chứng quả, thành Phật quả.
Nay chúng ta mỗi người dụng công tu đạo, đến lúc quan trọng, thì có ma đến thử thách. Trước khi chưa có công phu, không có thành tích, sẽ không có ma khảo; khi có chút công phu, thì sẽ có ma khảo. Khi ma khảo đến, nếu không nhận biết, như vừa nói ở trên, thì sẽ đi theo ma, làm quyến thuộc của ma. Cho nên chúng ta muốn tu thật chứng, nhất định phải có tánh định. Khi tu có công phu tánh định rồi, tánh sẽ không giao động, sẽ có định lực, quả mà mình chứng đắc mới là chân thật, không phải là giả. Nếu bị ma làm giao động, không phải là định chân chánh, thì biến thành một loại tà định của ngoại đạo, tà định ngoại đạo thì không thể chứng được Phật quả.
Vừa rồi đã nói, người ngoại đạo thấy bò sanh thiên, bèn học theo bò; nhìn thấy chó sanh thiên, bèn học theo chó. Vậy bò này làm sao mà có thể sanh thiên? Chó này lại tại sao có thể sanh thiên? Vì bò này tiền sanh của nó tu thập thiện đạo, nhưng trước khi chưa tu thập thiện đạo nó làm rất nhiều điều ác, quả báo này phải đọa làm thân bò. Vì nó tu mười loại thiện, sau khi quả báo thân bò mãn thì được sanh lên trời. Còn chó thì sao? Chó sanh lên trời cũng như thế. Vì ngoại đạo không biết nhân quả kiếp trước của bò, cho rằng bò kiếp này làm bò nên được sanh thiên, làm chó nên được sanh thiên, vì thế nên nhắm mắt học theo các hành vi của bò, chó, rốt cuộc không có mảy may thành tựu, không thể đắc được thật chứng, không được điều lợi ích thật sự. Thực chứng này chính là chứng đắc một cách thật tại. Chứng cái gì? Chứng đắc trí huệ chân chánh vốn có của chúng ta, chứng đắc định lực vốn có của chúng ta, nghĩa là định huệ viên minh, định giúp đỡ huệ, huệ cũng giúp đỡ định, cùng nhau viên dung vô ngại, chứng đắc lý thể chân tịch này, đắc được chân tâm của chúng ta, đó là thật chứng.
5. Nhân duyên thứ năm là: “Tiêu đảo tưởng, trừ tế hoặc”
Thế nào là “đảo tưởng”? Đảo là điên đảo, không phải chính xác. Nói: “Người này thật điên đảo!”, không phải nói người đó thật điên đảo, mà nói người ấy tư tưởng điên đảo, tư tưởng không chính xác. Cho nên Tôn giả A Nan từ chỗ Ma Đăng Già Nữ trở về bên Phật, đảnh lễ khấu đầu nói:
“Diệu trạm tổng trì bất động tôn”, “Tổng trì”, Phạn ngữ là “Đà La Ni”, tức là chú. “Bất động tôn” tức là biểu hiện của đại định Lăng Nghiêm, định này gọi là Bất động tôn”. “Diệu trạm tổng trì” và “bất động tôn” hợp lại chính là Phật, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có thể xưng là “Diệu trạm tổng trì bất động tôn”.
“Thủ Lăng Nghiêm vương thế hy hữu”, chính là đại định Lăng Nghiêm, là pháp môn hy hữu quan trọng bậc nhất. Làm sao mà hy hữu? Vì có thể: “Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng”, có thể tiêu trừ ức kiếp điên đảo tưởng, ức kiếp là thời gian xa xôi vô lượng vô biên đời đời kiếp kiếp về trước. “Điên đảo tưởng” là tưởng những việc không chánh đáng. Vậy cái gì gọi là điên đảo tưởng? Tất cả những tư tưởng của những người thế gian chúng ta đều là điên đảo tưởng. Cho nên công dụng của kinh Lăng Nghiêm là có thể tiêu trừ vọng tưởng điên đảo của chúng ta, “Trừ tế hoặc” là trừ đi những mê hoặc vi tế của chúng ta, những mê hoặc này nhỏ đến nỗi mắt thường không thể thấy, tai không nghe được, tâm nghĩ không ra.
“Bất lịch tăng kỳ hoạch Pháp thân”, có nghĩa là tiêu trừ tư tưởng điên đảo từ vô thủy đến nay, từ vô lượng kiếp về trước, mà không cần trải qua ba tăng kỳ trăm ngàn ức kiếp, không cần trải qua thời gian xa xôi lâu dài mà liền có thể đốn ngộ chân tâm tức là Pháp tánh thân vốn có, cũng tức là Như Lai Tạng Tánh. xx
Chúng ta khi một niệm bất giác liền sanh ra ba loại tế hoặc. Niệm là thời gian rất ngắn, trong một thời gian rất ngắn có thể sanh ra ba loại mê hoặc vi tế. Có câu: “Tế hoặc như trần, tự tánh như cảnh” Mê hoặc này giống như bụi trần. Nếu ở phòng này có bụi bặm, thì trong một giây có rất nhiều bụi dính trên gương. Khi dính bụi ít thì không cảm nhận được; khi dính bụi nhiều thì tấm gương không còn trong sáng. Mê hoặc vi tế của chúng ta cũng giống như bụi bám trên tấm gương vậy. Tự tánh Đại Viên Cảnh Trí của chúng ta giống như tấm gương sáng, nhưng vì sanh ra tế hoặc này nên che lấp tấm gương sáng, che lại che đi, che càng ngày càng dày. Nên Đại sư Thần Tú mới nói bài kệ tụng rằng:
“Thân thị Bồ đề thọ,
Tâm như minh cảnh đài,
Thời thời cần phất thức,
Vật sử nhạ trần ai!”
Dịch:
Thân như cây Bồ đề,
Tâm như đài gương sáng,
Thường siêng năng lau chùi,
Đừng để dính bụi nhơ!
Có người nói bài kệ này không đúng, nhưng tôi cho rằng đúng. Tại sao vậy? Vì mỗi người đều vốn có hột giống Bồ đề, cho nên ví dụ thân này như cây Bồ đề, bổn tánh chân tâm của người giống như tấm gương thanh tịnh sáng suốt, cho nên Ngài nói cần phải thường thường lau chùi, tức là cần phải thường thường tu hành và khuyên hành giả không nên để cho chân tâm sáng suốt thanh tịnh bị thế trần ô nhiễm, thật là: “Hôm nay lau, ngày mai chùi, chùi đi chùi lại như gương sáng”, chùi sạch hết bụi thì gương sáng lại hiện ra, thì không còn mê hoặc vi thế nữa. Cho nên nói “thường siêng năng lau chùi đừng để dính bụi nhơ”, khích lệ người tinh tấn, siêng năng tu hành là đúng, trước khi khai ngộ cần phải theo đó mà tu hành.
Nhưng Lục Tổ Đại sư thì nói:
“Bồ đề bổn vô thọ,
Minh cảnh diệc phi đài.
Bổn lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai?”
Dịch:
Bồ đề vốn không cây,
Gương sáng cũng không đài.
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi nhơ?
“Bồ đề bổn vô thọ”, không có cây bồ đề nào. “Minh cảnh diệc phi đài”, tấm gương sáng chính là tấm gương sáng, không có đài gương. “Bổn lai vô nhất vật” vốn là không có bụi trần, thì cần gì phải lau chùi? “Hà xứ nhạ trần ai?” cái gì cũng không có, thì bụi trần lại dính vào đâu được. Nên bài kệ này là người khai ngộ nên biết, nên tuân theo. Có nghĩa:
“Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện,
Lục căn hốt động bị vân giá”.
Một niệm không sanh khởi, Phật tánh tức hiện tiền, định lực cũng xuất hiện; sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý vừa động, thì giống như bầu trời bị mây che phủ.
Vọng tưởng điên đảo tiêu diệt rồi, tế hoặc cũng trừ xong, thì rất nhanh chóng sẽ thành tựu Phật quả. Đáng tiếc chúng ta mỗi người đều không muốn thành Phật, mà muốn lưu luyến cõi ngũ trược ác thế này, ở thế gian này ở lưu luyến quên về, cho khổ là vui, đi ngược với giác ngộ, hợp với bụi trần, không liễu thoát được sanh tử mà còn cho rằng là hay, là tốt: “Xem tôi đây, vừa thông minh vừa đẹp đẽ, ai thấy tôi cũng đều ưa thích, việc mà người không hiểu, tôi đều hiểu rõ”. Thực tế, thì giống như tấm gương bị dính bụi trần, càng bám càng nhiều, bị phủ đầy vô số bụi trần, một chút ánh sáng cũng không có. Nay quý vị cảm thấy thông minh. Quý vị đợi đấy mà xem, qua mười đời sau, biến thành heo ngu si như thế cũng không chừng. Chớ nên không chú ý chỗ đi của chúng ta kiếp này, kiếp này chúng ta phải quyết định chỗ đi của chúng ta, nhận rõ con đường đi, nhận rõ chỗ đi mới có biện pháp.
Cho nên vì chúng sanh tiêu trừ điên đảo tưởng, “Trừ tế hoặc” tức là một nhân duyên lớn của kinh này.
6. Nhân duyên thứ sáu “Minh nhị môn, lợi kim hậu”
Nhị môn là hai pháp môn bình đẳng và phương tiện. Pháp môn bình đẳng hay Thật pháp, là nhất tâm vạn pháp, nghĩa là vạn pháp thì bình đẳng nhất tướng, vốn không sai khác. Pháp môn phương tiện là pháp quyền nghi hay Quyền pháp. Quyền là pháp quyền biến, không phải thật tại. Pháp quyền biến này là ngẫu nhiên, ở trong thật pháp mà thiện xảo vận dụng quyền pháp này. Quyền pháp là pháp tạm thời, không phải vĩnh viễn, mà thật pháp là pháp thật thật tại tại, vĩnh viễn không thay đổi, cho nên nói pháp có hai môn quyền pháp và thật pháp. Pháp môn phương tiện là quyền pháp, quyền xảo phương tiện, để dẫn vào thật pháp.
Thế nào là quyền pháp? Tôi đưa ra một ví dụ: như “Không quyền độ tử” của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài co nắm tay không, để cứu độ một đứa bé. Nguyên nhân là vì có một đứa bé đang bò về phía miệng giếng, sắp rơi vào trong giếng, nếu mà rơi vào giếng sẽ bị ngộp nước chết. Nếu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni kêu nó quay lại nhất định nó không nghe đâu, mà cứ tiếp tục bò về phía trước, vì thế Đức Phật Thích Ca Mâu Ni liền nắm bàn tay lại nói:
- Trong tay ta có kẹo, con nhanh nhanh đến đây, ta sẽ cho con kẹo.
Đứa bé nghe nói có kẹo ăn, bèn bò trở lại. Kỳ thật trong tay của Đức Phật không có gì hết, kẹo cũng không có. Đây có phải là Phật nói láo gạt đứa bé không? Không phải vậy! Vì đứa bé sắp rơi vào giếng, nếu không dùng một sức hấp dẫn nó, khiến nó nhanh chóng trở lại thì nó đã rơi vào miệng giếng rồi, nên Đức Phật dùng nắm tay không này, trong nắm tay không đó không có gì hết, mà Phật nói trong nắm tay có kẹo, khiến cho đứa bé quay trở lại. Tại sao quay trở lại? Vì muốn ăn kẹo.
Phật Đà giáo hóa chúng sanh, thường dùng loại pháp môn phương tiện thiện xảo này. Vốn không có gì, mà Đức Phật nói với chúng sanh:
- A! Ta ở đây có đồ quý báu, các ông đến chỗ ta, ta sẽ cho ông quý giá, ta ở đây có bảo châu vô giá, lại có đồ tốt nhất.
Vì chúng sanh có lòng tham, hễ nghe nói có ích lợi bèn đến, đến rồi thì kết quả là pháp môn phương tiện, đó là quyền xảo. Pháp môn quyền xảo độ chúng sanh, đó là dùng một loại pháp môn phương tiện, đó là môn thứ hai, là pháp môn phương tiện.
“Lợi kim hậu”: lợi là lợi ích, lợi ích kim hậu. “Kim” có thể chỉ lúc Phật còn tại thế, cũng có thể chỉ bây giờ, từ bây giờ cho đến nhất thiết chúng sanh ở tương lai, vì mọi người đều có thể đạt được lợi ích này, được thấm nhuần trong Phật pháp, cho nên nói “Minh nhị tướng, lợi kim hậu”, đó là điều thứ sáu trong môn thứ hai “khởi giáo nhân duyên”.
Do có nhân duyên này nên thuyết bộ kinh Lăng Nghiêm, mà kinh này thì lấy hai loại pháp môn bình đẳng và phương tiện thuyết pháp. Pháp môn bình đẳng là thật pháp, pháp môn phương tiện là pháp quyền nghi, Phật dùng hai loại pháp môn này giáo hóa hết thảy chúng sanh, khiến cho hết thảy chúng sanh lìa khổ được vui, cuối cùng chứng được Phật quả. Đó là bộ kinh này làm lợi ích chúng sanh.
Vì có sáu loại nhân duyên nên thuyết bộ kinh Lăng Nghiêm này.
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong lần thuyết giảng “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 2 tháng 4 năm 1987.
Quý vị nhất định không mong muốn tôi đến, vì sao không muốn tôi đến? Vì mỗi lần tôi đến, quý vị đều lúng túng, bối rối, lo lắng, hết hồn hết vía, thấp thỏm không yên, ăn không ngon, ngủ không yên, cũng không biết y phục trang nghiêm chưa. Nhưng quý vị lại mâu thuẫn mong muốn tôi đến, nên tôi không thể không đến, đó là mâu thuẫn trong mâu thuẫn. Trên thế giới có rất nhiều sự việc đều rất mâu thuẫn. Nhưng cũng từ trong mâu thuẫn mới có thể hiển bày ra không mâu thuẫn. Nay chúng ta giảng:
1. Thị đa văn, hốt định lực
Đây là một nhân duyên giáo khởi, vì Tôn giả A Nan lúc ban đầu không tu hành, chỉ học nhiều hiểu rộng, học những văn tự bên ngoài, rơi vào chướng ngại của văn tự, vì vậy không có định lực, khi cảnh giới vừa đến thì suýt nữa đã té ngã. Vì sao vậy? Vì A Nan đã xem thường định lực, không có định lực.
2. Cảnh cuồng huệ, hộ tà tư
Nếu một người đa văn học rộng, thì rất dễ dàng có “Cuồng huệ”, nhưng Tôn giả A Nan tuy đa văn nhưng không có “Cuồng huệ”, vì thế nên có thể cứu độ. Người “Cuồng huệ” không nhất định đa văn, chỉ nương vào cái học nghe và ghi nhớ mà phát cuồng; họ chấp chặt vào cái tà tri tà kiến của mình, rõ ràng không đúng, nhưng sẽ biện hộ, nguỵ biện.
“Cảnh cuồng huệ, hộ tà tư” có thể sửa thành “Cảnh cuồng huệ, vật tà tư”, cảnh cáo những người cuồng huệ chớ nên nghĩ bậy nghĩ bạ; “Hộ” rất dễ khiến cho người ta hiểu lầm là bảo hộ giữ gìn tà tư, sau đó họ cho rằng bảo hộ những tà tư những tư tưởng sai lầm của họ là đúng, không thể kêu người phá trừ những tà tri tà kiến của họ; đó thật là cuồng trong cuồng, mê trong mê, nên sửa thành “Vật” (勿) “vật tà tư” có nghĩa là chớ nên, không nên, không nên tà tư.
3. Chỉ chân tâm, hiển căn tánh
Đó là bảy chỗ chứng tâm, mười lần hiển bày cái thấy trong kinh.
4. Thị tánh định, khuyên thật chứng
Đây là cái tánh của mình cần phải định, không nên bồng bột, chẳng nên không thật thà, mà cần phải lão lão thực thực. “Định” tức là lão thực nghĩa là thật thà, không phải gì khác chính là giữ gìn quy củ, giữ gìn giới luật, đó gọi là “Định”. Không nghĩ bậy nghĩ bạ, ngó đông ngó tây, nhìn trước nhìn sau, đó đều gọi là “Định”. Không phải chúng ta ngồi thiền mới là “Định”, bình thời đi, đứng, nằm, ngồi đều giữ gìn quy củ, không nên phóng túng, đó gọi là “Định”. “Thị tánh định” tức là chỉ thị tánh cần phải định, không nên có tính khí nóng nảy, không nên có phiền não; cần phải thành thật mới có sự chứng đắc chân thật.
5. Tiêu đảo tưởng, trừ tế hoặc
Tiêu trừ những vọng tưởng điên đảo từ vô lượng kiếp đến nay, trừ những mê hoặc vi tế mà mình nhìn không thấy, giác sát không đến. Hoặc có hoặc thô, hoặc tế, hoặc trần sa. Hoặc tế tức là những mê hoặc mà nhìn không thấy, giác sát không đến, cũng chính là tư hoặc, cũng chính là mê lý mà khởi lên phân biệt; kiến hoặc chính là đối với cảnh giới khởi lên tham ái.
6. Minh nhị môn, lợi kim hậu
Chúng ta cần phải hiểu rõ hai môn phương tiện và bình đẳng, mới có thể lợi ích cho chúng sanh hiện tại và vị lai.
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết.
Tam: Tạng Thừa Nhiếp Thuộc
Môn thứ ba là: “Tạng thừa nhiếp thuộc” cũng có thể nói là “tạng thừa phân nhiếp”. Tạng tức Tam tạng, chia làm Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng, Tam tạng lại thuộc về Tam vô lậu học. Tam vô lậu học là “Giới, Định, Huệ”. Kinh tạng thuộc Định học, Luật tạng là Giới học, Luận tạng là Huệ học. Trong kinh điển Trung Quốc thường thấy “Tam tạng Pháp sư”, tức là chỉ vị pháp sư thông hiểu Tam tạng Kinh Luật Luận. Những điều giảng trong Kinh tạng thuộc về Định học, đa số là dạy người tu định, ví dụ bộ kinh này là dạy người tu thiền định, trước đã nói “Thị tánh định, khuyến thật chứng” là tôn chỉ của bộ kinh này, cho nên bộ kinh này thuộc về Định học. Trong kinh cũng đề cập đến Giới học, có nói đến “tứ chủng thanh tịnh minh hối” - bốn lời dạy rõ ràng về sự thanh tịnh, đó là giảng về giới luật. Bộ kinh này cũng có Huệ học, nhưng giải thích không nhiều. Vì Giới, Huệ không nhiều nên bộ kinh này không thuộc Giới học, cũng không thuộc Huệ học, mà bộ kinh này lấy Định học làm gốc, thuộc về Kinh tạng, thuộc về Định học.
Nói đến thừa, vậy thừa là gì? Thừa là ví dụ xe cộ, xe có lớn nhỏ, xe nhỏ. Xe nhỏ chỉ có thể chở một người hoặc hai người, như xe đạp chỉ có thể ngồi một, hai người ở phía trên. Tiểu thừa không phải chỉ cho xe đạp mà là chỉ chung các loại xe nhỏ, xe nhỏ có thể chở người, nhưng không nhiều, nên gọi là tiểu thừa. Tiểu thừa là Thanh văn, Duyên giác thừa. Đại thừa là Bồ tát thừa, Bồ tát thừa ví dụ cho xe lớn, có thể chở rất nhiều người. Nên trong giáo lý của Đức Phật, có đại thừa và tiểu thừa.
Mà bộ kinh này là kinh điển đại thừa? Hay là kinh điển Tiểu thừa? Bộ kinh này là pháp dạy Bồ tát, là Chư Phật sở hộ niệm, là thuộc pháp Bồ Tát đại thừa, là đại thừa sở nhiếp, cho nên là một bộ kinh điển đại thừa. “Tạng thừa nhiếp thuộc” chính là như vậy.
Tại sao nói bộ kinh này là pháp dạy Bồ tát? Vì có một số A la hán muốn hồi tiểu hướng đại, phát tâm Bồ tát, hành đạo Bồ tát. Tôn giả A Nan từ nhà Ma Đăng Già Nữ trở về chỗ Phật, liền cầu thỉnh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chỉ cho A Nan con đường Bồ đề mà tất cả Như Lai thời quá khứ đã tu, vì thế Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới trả lời câu hỏi của A Nan. Pháp này là pháp tu của Bồ tát, cho nên bộ kinh này thuộc về Bồ tát thừa, không phải pháp tiểu thừa. Bộ kinh này đã thuộc về pháp Bồ tát, vậy sự “tạng thừa phân nhiếp” của bộ kinh này đã rõ ràng rồi.
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong lần thuyết giảng “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 6 tháng 4 năm 1987.
Khi phiên dịch, có nói người này muốn con mắt phải của Tôn giả Xá Lợi Phất không? Không. Chúng ta cần phải chú ý điểm này. Nếu người đó yêu cầu mắt phải, mà Tôn giả Xá Lợi Phất đã cho mắt phải rồi, thì như thế người này không đúng. Tại sao vậy? vì Tôn giả Xá Lợi Phất đã cho người ấy những gì người ấy muốn, vì thế người này không thể nói mắt cho mình là không đúng. Do vì người này không nói rõ điều mình muốn, mà Tôn giả Xá Lợi Phất cũng không hỏi rõ ràng người này muốn con mắt nào, nên móc ra con mắt phải cho người ấy. Nên người ấy mới nói: “Tôi muốn con mắt trái!” và đạp nát con mắt phải của Ngài. Như thế chúng ta không thể nói người này đầu tiên xin con mắt phải, mà y theo yêu cầu của người này sau khi đã cho rồi mà người này không cần. Như thế thì rất mâu thuẫn.
Người tập giảng pháp, không có nhắc đến người yêu cầu con mắt, thực tế là Thiên Nhân đến thử thách Tôn giả Xá Lợi Phất, để xem Ngài có phải là thật sự hành Bồ tát đạo không, muốn tu pháp Đại thừa không. Người giảng pháp không có đề cập đến, thì sẽ khiến cho mọi người không dám hành Bồ tát đạo. Nếu Tôn giả Xá Lợi Phất không dám hành Bồ tát đạo, thì chúng ta là ai? Chúng ta làm sao có thể dám hành Bồ tát đạo? Thì lần này sẽ khiến mọi người không dám phát tâm Bồ đề. Vì thế người giảng pháp cần phải khi kết thúc, nói rõ thực tế đây là Thiên Nhân đến thử thách Tôn giả Xá Lợi Phất.
Vậy thì Tôn giả Xá Lợi Phất đã xả bỏ con mắt, rồi sau đó thối lui về Nhị thừa, không hành Bồ tát đạo nữa. Con mắt của Ngài không phải là không còn, mà con mắt phải lại khôi khục, vẫn còn đó, nhưng Ngài không thông qua kỳ thì này, cho nên Ngài vẫn là một người Tiểu thừa. Chúng ta ở đây giảng pháp, nhất định phải học cho rõ Logic học, nếu quý vị không hiểu Logic mà thuyết pháp, sẽ khiến cho người thối tâm.
Lại nữa có người nói Tiểu thừa là tà định, Tiểu thừa không phải là tà định, nhưng nếu tâm lượng của người ấy nhỏ, thì định cũng giống như vậy, không có rộng lớn như Đại thừa. “Na Già thường tại định, vô hữu bất định thời”, bậc Bất Lai thường ở trong định, không lúc nào mà không định. Chánh định là đi, đứng, nằm, ngồi đều ở trong định, đều không thể làm những việc vọng động, trong bất cứ trường hợp nào đều không thể tùy tiện cười giỡn, như hiện ra cái dáng a dua nịnh bợ cho người ta xem, hoặc là nói bậy nói bạ, đó đều là không có định lực.
Nên từ điểm này, quý vị là những người học tập Phật pháp, đầu tiên cần phải học không nóng nảy. Bất cứ việc gì nóng nảy còn có thể được, nhưng là người tu đạo thì không thể nóng nảy. Sáu tông chỉ lớn chính là dạy cho người trừ đi sự nóng nảy, nếu không trừ được tánh nóng nảy, thì làm người nào cũng không được; ai có tánh nóng nảy thì người đó không thể tu hành! Việc khác có thể nóng nảy, chỉ có sự tu hành thì không thể sử dụng cái nóng nảy này, trong bất cứ trường hợp nào, bất luận là ai, khi giận lên thì rất xấu, cho nên không có ai quan tâm để ý đến. Trong Phật giáo, đối với Tỳ Kheo ác tánh là “Mặc tẩn”, không có ai nói chuyện với người này, Tỳ Kheo ni ác tánh thì càng không có ai mong muốn nói chuyện với người đó, hoặc là giao lưu kết bạn với người ấy, vì thế không nên mỗi chút mỗi nóng giận, điều đó thì không được!
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết.
Tứ: Nghĩa Lý Thâm Thiển
Môn thứ tư là: “Nghĩa Lý Thâm Thiển”. Vậy nghĩa lý mà kinh này nói ra là sâu hay cạn? Đạo lý mà bộ kinh này nói ra thuộc về giáo nào?
Căn cứ phán đoán của Thiên Thai tông, chia làm Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo, và Viên giáo. Tạng giáo là pháp tiểu thừa, thuộc Tam tạng giáo. Tam tạng giáo thuyết ra những kinh điển nào? Kinh điển nói ra là A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma), lại gọi là kinh A Hàm; kinh A Hàm (Agama) là tiếng Ấn Độ, tiếng Hoa dịch là “Vô Tỷ Pháp”, tuy nói là Vô Tỷ Pháp, nhưng theo sự phán giáo của Thiên Thai thì thuộc về pháp tiểu thừa, nên bộ A Hàm kinh còn gọi là Tam tạng giáo.
Sau Tam tạng giáo lại có Thông giáo. Thông tức là thông đạt. Ý là trước thông Tam tạng giáo, sau lại thông tới Biệt giáo, tức có nghĩa thông đạt trước sau, nên gọi là thông giáo. Sau Thông giáo là Biệt giáo, là giáo đặc biệt. Thế nào là Biệt giáo? Biệt giáo thì khác trước khác sau, không giống Thông giáo ở trước cũng không giống Viên giáo ở sau, nên rất đặc biệt. Sau Biệt giáo là Viên giáo. “Tạng, Thông, Biệt, Viên” là bốn giáo do Thiên Thai tông phán định.
Còn nếu phán định theo Hiền Thủ tông, thì giáo lý bộ kinh này thuộc về giáo nào? Pháp phán định của Hiền thủ tông, chia làm năm giáo, tức Tiểu giáo, Thủy giáo, Chung giáo, Đốn giáo và Viên giáo. Tiểu giáo tức Tạng giáo của Thiên Thai tông, Thủy giáo tức là Thông giáo và Biệt giáo của Thiên Thai, Chung giáo, Đốn giáo, Viên giáo đều bao gồm trong Viên giáo của Thiên Thai tông. Nên ngũ giáo tứ giáo này, tuy tên không giống nhau, nhưng lý luận là một. Y theo sự phân chia của Hiền Thủ tông, Thủy giáo là cái bắt đầu của đại thừa giáo, tiểu giáo chỉ biết nhân không, mà không biết pháp không, đối với pháp vẫn còn chấp trước, chưa được không. Còn Chung giáo thì đã nhập vào bên trong của pháp đại thừa, tức hiểu rõ nhân không và hiểu rõ pháp không; người cũng không, pháp cũng không, nhân không, pháp không, nhân pháp đều không còn. Đó là đạo lý thuộc đại thừa, nhân pháp đều không.
Nhắc đến nhân pháp đều không, tôi nhớ đến một công án:
Lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, thường có người cung thỉnh cúng dường, Đức Phật thọ cúng xong, thường thuyết pháp cho trai chủ nghe. Trai chủ (tức là người thỉnh Phật dùng cơm, cúng dường trai phạn). Chiếu theo luật nghi vị trai chủ phải hướng Phật cúi đầu đảnh lễ, sau đó cầu Phật thuyết pháp. Khi Phật không có, thì thỉnh đệ tử A la hán của Phật đi ứng cúng, ứng cúng xong cũng phải nói pháp cho trai chủ.
Một ngày kia, Phật dẫn chúng Đại Tỳ kheo đi ứng cúng, chỉ để lại một vị Sa di nhỏ ở chùa. Lúc đó có một vị trai chủ đến chùa muốn cúng dường. Cúng dường là làm một ít đồ ăn thanh khiết, thỉnh Đức Phật, hoặc Tỳ kheo hoặc Sa di đến nhà mình độ, đó gọi là “cúng dường Tam Bảo”. Nhưng Phật và chúng Đại Tỳ kheo đều đi trai hội, trong chùa chỉ còn một chú Sa di, vị trai chủ đó bèn nói:
- Chú là Sa di cũng được, tôi thỉnh chú đi ứng cúng, chú đi với tôi.
Chú Sa di này run lẩy bẩy đi ứng cúng. Tại sao run? Vì khi ứng cúng chú đều đi với các vị Tỳ kheo, chú chưa đi một mình bao giờ, nay người ta mời chú đi thọ trai, cũng không biết đến đó nói gì đây? Thuyết pháp nhưng không biết pháp thì làm sao mà thuyết? Nhưng không biết cũng phải đi, trai chủ thành tâm mời chú đi đến nhà cúng trai.
Thọ trai xong, vị trai chủ này bèn cung kính cúi mọp dưới đất hướng vị Sa di khấu đầu đảnh lễ cầu pháp. Vì Sa di đang ở trên tòa nhìn thấy trai chủ cúi đầu quỳ mọp đang đợi mình thuyết pháp. Quý vị đoán xem vị Sa di làm cách nào đây? Chú Sa di sợ quá bèn yên lặng rời khỏi tòa ngồi chạy một mạch về Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên. Chú ăn cơm xong, không thuyết pháp đã chạy đi. Trong tâm nhất định rất xấu hổ, rất ngại ngùng.
Vị trai chủ đó cúi đầu quỳ rất lâu, không nghe thấy giảng pháp gì: “A! Chú Sa di này nói pháp gì đây?”, bèn lén ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy tòa ngồi không có ai cả, chú Sa di không có ở đó nữa. Ông ta nhìn thấy chú Sa di không còn nữa, trong khoảnh khắc sát na đó liền khai ngộ. Vậy thì ông ta đã khai ngộ cái gì? Ngộ được nhân không pháp không, người cũng không, pháp cũng không. Lúc đó lập tức giác ngộ rằng: “A! thì ra là như vậy”. Nhưng mà chỉ khai ngộ vẫn không được, cần phải đi cầu ấn chứng, bèn gấp rút chạy đến vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc tìm vị Sa di đó cầu ấn chứng.
Vị Sa di đó, sau khi trốn trở về chùa bèn vội vàng trốn trong phòng của mình, đóng cửa khóa (lock) lại cẩn thận. Tại sao phải khóa cửa? Vì sợ vị trai chủ đó đến tìm chú đòi nợ pháp, muốn chú thuyết pháp, mà chú không có pháp nào để thuyết, nên khóa cửa lại, sợ vị trai chủ này tìm chú. Nào ngờ vừa khóa cửa không lâu, trai chủ quả nhiên đã đến nơi tìm và gõ cửa chú. Chú Sa di sợ quá cuộn mình co lại, không dám lên tiếng: “Làm sao đây, đã ăn cơm của người ta, nay người ta đến cầu pháp, làm sao đây?” Trong lúc lo lắng như vậy chú Sa di cũng khai ngộ. Hai người cùng khai ngộ, cũng khai ngộ được đạo lý “nhân không pháp không”.
Vì thế không biết có nhân duyên gì? Hoặc quý vị vừa lo lắng cũng có thể khai ngộ, hoặc là quý vị vui vẻ đều có thể khai ngộ, hoặc quý vị cảm thấy có cảnh giới gì đến, gõ vào, đụng vào, đều khai ngộ, nên khai ngộ không giống nhau. Có người nghe tiếng gió thổi bèn khai ngộ, có người nghe tiếng nước chảy bèn khai ngộ, có người nghe tiếng chuông, tiếng khánh đều có thể khai ngộ.
Thưa:
- Con nghe nhiều như thế tại sao chưa có khai ngộ?
Tôi làm sao biết được tại sao quý vị không khai ngộ? (Thượng Nhân gõ chuông) Nay nghe tiếng chuông này, có khai ngộ không? Vì thế khai ngộ, phải đợi đúng lúc, như nấu cơm, khi nấu cơm chín mới được ăn, sự khai ngộ của quý vị cũng phải đợi đến lúc cơ duyên chín mùi mới có thể khai ngộ, khi cơ duyên thành thục thì chỉ cần đụng vào, gõ vào, hoặc là như thế nào đó đều có thể khai ngộ.
Trung Quốc các vị Tổ sư các đời sự khai ngộ của các Ngài rất nhiều dạng, không phải là một dạng. Cho nên chỉ cần chuyên tâm nhứt trí tu hành, nghiên cứu Phật pháp, thì nhất định có ngày quý vị sẽ khai ngộ, sẽ hiểu rõ. Nếu quý vị hôm nay khai ngộ thì càng tốt, còn chưa khai ngộ, thì nên từ từ chờ đợi, đừng lo lắng nôn nóng; không nên lông lắng nôn nóng đến nỗi ăn không ngon, ngủ không yên, không nên như thế! Tôi biết Loni (Quả Dật) vì không lo lắng nôn nóng, nên cô ấy ngủ được, cứ thường muốn ngủ.
Chung giáo, ngộ nhân không và pháp không, đó là được vào trong biển giáo pháp đại thừa. Nhưng Chung giáo vẫn chưa là cứu cánh, lại có Đốn giáo cao hơn Chung giáo nữa. Chung giáo là pháp dạy Bồ tát. Lại có Viên giáo, Viên giáo là tất cả viên dung vô ngại, tất cả vốn là Phật. Kinh Pháp Hoa thuộc về Viên giáo, nên trong kinh Pháp Hoa nói tất cả chúng sanh tương lai đều có thể làm Phật: “Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng Nam mô Phật, giai cộng thành Phật đạo”. Đó là nói người này vào trong tháp miếu, khi người ta vào trong tháp miếu lễ Phật, tâm vốn phải thành kính, phải chuyên nhất, nhưng người đó đến tháp miếu lễ Phật, niệm Nam mô Phật không có thành tâm, nhưng nhờ một niệm Nam mô Phật mà tương lai sẽ thành Phật.
Giảng đến đây tôi nhớ một công án. Như chúng ta niệm Phật, một câu Nam Mô Phật, liền hồi hướng cho tất cả chúng sanh, niệm Phật nên vì mọi người mà niệm, vì chúng sanh niệm, chứ không phải vì mình mà niệm, như thế thì công đức càng thêm lớn, càng viên dung vô ngại. Tại sao vậy?
Lúc Phật còn tại thế, có lần dẫn chúng đệ tử đến một nước nọ, mà quốc vương thần dân ở nước đó đều không hoan nghênh và cũng không cúng dường Đức Phật và Chư Tăng. Lần đó Mục Kiền Liên không có đi chung với Phật. Sau đó khi Tôn giả Ma Ha Mục Kiền Liên đến chỗ này, quốc vương đại thần, cho đến dân chúng của nước đó đều cung kính đảnh lễ hoan nghênh và hết lòng cúng dường các thứ cần dùng.
Như thế đệ tử của Phật cảm thấy vô cùng lạ kỳ, không hiểu vì sao, bàn luận rằng:
- Đức hạnh sâu dày như Phật đến thành này không được người hoan nghênh, không được người cúng dường, ngược lại Mục Kiền Liên là đệ tử của Đức Phật lại được nhiều người cung kính, tại sao như vậy?
Bèn thưa hỏi Phật. Đức Phật bèn giải thích cho chúng đệ tử:
- Tại sao Ta đến đây, quốc vương, đại thần, dân chúng không cúng dường? Vì trong kiếp quá khứ Ta và họ không có gieo trồng thiện duyên, không có kết duyên gì cả, mà Mục Kiền Liên và họ có duyên gì? Trong vô lượng kiếp quá khứ về trước, Tôn giả Mục Kiền Liên là một vị tiều phu đốn củi. Có lần lên núi đốn củi, gặp phải một tổ ong. Tổ ong này đến châm đốt Mục Liên, Mục Liên lúc đó đã niệm Phật và phát nguyện: “Nam Mô Phật! Các ngươi không nên đốt tôi, tương lai tôi đắc đạo, trước sẽ độ các ông thành Phật, không nên khởi ác tâm hại người”. Khi Mục Liên phát nguyện như thế, đám ong không có đốt nữa. Sau đó, tổ ong này luân chuyển đến hôm nay, con ong chúa trở thành vua của nước này, các con ong thợ thì trở thành quan đại thần hoặc nhân dân của nước này. Vị tiều phu đó trong kiếp này là Tôn giả Mục Kiền Liên xuất gia làm Tỳ kheo, đến thành này, vì xưa kia từng phát nguyện độ chúng sanh, cho nên hôm nay gặp lại liền nhận được sự cúi đầu đảnh lễ, nhiệt liệt cung đón của tổ ong. Tại sao vậy? Đây là nhân duyên kiếp trước tạo thành, kiếp trước Mục Liên phát nguyện độ họ thành Phật, nên hôm nay được họ hoan nghênh tiếp đón như thế.
Từ việc cho nên chúng ta tu đạo cần nên kết duyên với tất cả chúng sanh, nên quan tâm họ, phát nguyện hóa độ họ, khiến cho mỗi một chúng sanh đều thành Phật, không những khiến cho mỗi một chúng sanh thành Phật mà độ cho tất cả chúng sanh đều thành Phật. Khi quý vị phát lời nguyện này, trong vô hình quý vị nhìn không thấy, nhưng người và tâm chúng sanh đều có một vô tuyến điện thông nhau, quý vị không nhìn thấy, nhưng quý vị đối với người tốt, người đó trong âm thầm nhất định sẽ biết.
Đối với tất cả chúng sanh quý vị đều nên có tâm muốn độ họ thành Phật. Nếu chúng ta mỗi người đều có tâm này, thì đi đến đâu cũng đều có duyên. Thưa: “Con đi đến một chỗ kia, không có ai chào hỏi con, không có ai quan tâm đến con”. Tại sao vậy? Vì đời trước của quý vị không có gieo duyên với người ở chỗ đó. Nên chữ “duyên” này rất quan trọng. Chúng ta mỗi người tu đạo, cần phải kết duyên với tất cả chúng sanh, nghĩa là: “Vị kết Bồ đề quả, tiên kết chúng sanh duyên”. Trước khi chưa thành Phật, cần phải kết duyên với chúng sanh.
Làm sao mà kết duyên với chúng sanh? Chính là đối xử tốt với tất cả chúng sanh, dùng tâm tốt đối với tất cả chúng sanh, lấy việc tốt đối với tất cả chúng sanh; việc nào mà sức mình làm được, thì nên cố gắng làm việc tốt. Điều này rất quan trọng, đây là phát tâm của Bồ tát đại thừa, không nên làm A la hán tiểu thừa, chỉ biết độ mình; không nên chỉ biết có mình, không để ý đến người khác.
“Muốn kết quả Bồ đề, rộng kết chúng sanh duyên”. Tại sao phải kết duyên với chúng sanh? Vì chúng sanh tức là Phật, quý vị đối với chúng sanh tốt tức là đối với Phật tốt; quý vị đối với chúng sanh không tốt tức là đối với Phật không tốt. Vì thế quý vị có thể xem tất cả chúng sanh là Phật, thì chúng sanh cũng sẽ xem quý vị là Phật; nếu xem chúng sanh là ma vương thì chúng sanh cũng xem quý vị là ma vương. Điều đó giống như mang một cặp kính màu xanh nhìn người, nhìn thấy người cũng có màu xanh. Còn người ta nhìn ngược lại quý vị thì sao? Thì nhìn thấy quý vị cũng là màu xanh như vậy. Còn đeo kính màu hồng thì sao? Nhìn người thì đều là màu hồng. Con mắt quý vị nhìn người như thế nào, thì người ta nhìn quý vị như thế ấy.
Cho nên tôi vừa mới nói: Trong tâm tất cả chúng sanh, đều có vô tuyến điện thông với nhau, cùng liên hệ với nhau. Quý vị đừng nên cho rằng quý vị móng lên một tâm niệm ác, người khác không biết. Đúng vậy! Người đó không biết, nhưng tự tánh của người đó có một loại cảm giác, sẽ biết được. Nên người đối với người, nếu đối với người tốt, đó thuộc về dương quang; đối với người xấu, đó thuộc về âm quang.
Môn thứ tư “Nghĩa lý thâm thiển” Nghĩa là ý nghĩa của kinh; lý tức là đạo lý. Nghĩa lý của bộ kinh Lăng Nghiêm này, là sâu hay cạn? Đạo lý của nó thì sâu như đại dương, nhưng đại dương đó quý vị biết nó sâu bao nhiêu không? Có người nói đo lường biết được; tuy nhiên, quý vị đo chỗ này sâu như thế, chỗ kia có thể là cạn một chút, hoặc là sâu hơn một chút, nên không đo được độ sâu của đại dương thực ra là bao sâu. Đạo lý của kinh Lăng Nghiêm cũng như vậy, cũng chính là quý vị không dễ dàng nghiên cứu cùng tận đạo lý này. Chúng ta mỗi người, người này được lợi ích từ kinh Lăng Nghiêm, người kia được ích lợi từ kinh Lăng Nghiêm, mỗi người đều được sự lợi ích không giống nhau, nhưng trí huệ này đều được từ kinh Lăng Nghiêm. Do vì lý sâu của kinh điển, cho nên trí huệ của chúng ta cũng rất lớn, định lực đắc được mới kiên cố, cho nên gọi là “Nhất Thiết Sự Cứu Cánh Kiên Cố”, cũng chính là đạo lý này.
Vậy cái định lực vừa sâu vừa kiên cố đó, chúng ta mỗi người nghiên cứu bộ kinh này, mỗi người đều có sở đắc, quý vị cũng đắc được, anh ta cũng đắc được, đối với nghĩa lý kinh, không phải quý vị đắc được mà nghĩa lý kinh giảm đi một chút. Lý thâm sâu huyền diệu của bộ kinh này cũng giống như nước biển vậy, quý vị lấy nước của biển lớn này, nước biển vẫn như vậy, nước biển thì vô cùng vô tận. Đạo lý của kinh này cũng vô cùng vô tận. Quý vị khai ngộ, đạo lý của kinh này vẫn nhiều như thế, quý vị chưa khai ngộ nó cũng nhiều như thế. Quý vị lấy đi bao nhiêu trí huệ, thì trí huệ mà kinh này chứa đựng, không tăng không giảm, nên nghĩa lý của bộ kinh này, sâu rộng như đại dương bao la mênh mông, không cùng tận.
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong buổi tọa đàm về chủ đề “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 6 tháng 4 năm 1987.
Nay chúng ta nghiên cứu kinh điển, không nhất định ai cũng có thể giảng rất chính xác, cho nên ai giảng không chính xác thì cần phải sửa lại, không nên lấy sai truyền sai, điều này rất quan trọng, nếu không chỉnh sửa lại, thì đến khi nói bên ngoài nói chuyện, dường như là đúng nhưng sẽ làm trò cười cho thiên hạ.
Pháp tuy là viên dung vô ngại, nhưng pháp cũng có bổn lai diện mục của pháp, bản thân như thế nào, không thể phụ họa, vơ đũa cả nắm, không thể tùy tiện, lý thì viên dung vô ngại, nhưng về sự thì có rất nhiều thứ không giống nhau. Giống như “Nghĩa lý thiển thâm”, tức là nói bản thân của bộ kinh Lăng Nghiêm này là sâu, là cạn chớ không nói việc gì khác, không phải nói Tiểu thừa thì như thế nào, Đại thừa lại như thế nào, mà nói về bản thân của bộ kinh này. Giống như người này rốt cuộc là cao hay thấp? là mập hay ốm? Cạn thì giống như ốm, sâu thì giống như mập; cạn cũng có thể nói là thấp, sâu cũng có thể nói là cao. Vậy bộ kinh này sâu bao nhiêu? Đúng vậy, bộ kinh này là khai mở trí tuệ, còn có tu định. Khai mở trí tuệ cần phải tu định, muốn tu định cần phải có giới, có giới để giúp đỡ cái định, có định mới có thể trợ giúp cho huệ, vì thế lên đến cực điểm như thế là sâu. Lại nữa kinh Lăng Nghiêm cũng giảng “Bốn loại thanh tịnh minh hối”, đó là chỗ từ cạn đi vào sâu, điều này rất đơn giản, rất dễ dàng nhận thức, nên nói “Bốn loại thanh tịnh minh hối” là căn bản của kinh Lăng Nghiêm. Cũng có thể nói như thế, bộ kinh này là khai ngộ thành Phật, đây là chỗ sâu sắc của kinh Lăng Nghiêm.
Đạo lý của kinh điển, người trí thấy trí, người nhân thấy nhân, người sâu thấy sâu, người cạn thấy cạn, người lớn thì thấy là đạo lý của người lớn, người nhỏ thì thấy đó là đạo lý của người nhỏ - giống như lời Tri Trinh đã nói, cách nhìn của cô ta thì đúng, đối với người chưa học qua Phật pháp thì rất có logic.
Tại sao Phật thuyết bộ kinh Lăng Nghiêm này? Vì để khai ngộ thành Phật, khai mở đại trí huệ! Vì thế bộ kinh này là cứu cánh kiên cố, là cứu cánh nhất, sâu nhất, ảo diệu nhất, đạo lý này không thể nghĩ bàn. Tuy có người nói là thông giáo, thông trước, thông sau, có thể thông tạng giáo ở phía trước, và thông biệt giáo ở phía sau, nhưng đó không phải là chánh đề, chỉ là ý nghĩa phụ thuộc.
Vì thế nhìn pháp cần phải nhìn cho viên dung vô ngại, rồi sau đó nhận thức, hiểu rõ. Giống như người chúng ta quen biết vậy, người này là cao hay thấp, mập hay ốm, đen trắng hồng, biết thế nào là bên ngoài, thế nào là nội tại bên trong. Nếu chúng ta xem một bộ kinh như xem một người, trong ngoài đều nhận thức hiểu rõ, sau đó mới có thể hiểu rõ kinh nghĩa, thì sẽ không sai bao nhiêu, không có yếu quyết nào khác. Mỗi người có một bộ kinh, bộ kinh này là nghĩa lý thâm sâu hay cạn cợt, là tạng thừa sở nhiếp, bộ này đều có. Vì thế nhìn pháp quý vị cần phải nhìn cho sống động nhưng sống động lại không thể giảng sai, cần phải có hệ thống.
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết.
Ngũ: Năng Thuyên Giáo Thể
Môn thứ năm trong mười môn phân biệt là: “Năng Thuyên Giáo Thể”
Giáo thể là gì? Tại sao lại cần có giáo thể. Tất cả pháp mà Phật thuyết ra đều có giáo thể. Giáo thể của bộ kinh này là gì? Là bao gồm: thanh, danh, cú, văn; danh là danh tự; cú là câu; văn là văn chương.
Lúc Bồ tát Văn Thù thỉnh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: “Con nay thỉnh Như Lai, xuất hiện ở đời”. Như Lai xuất hiện ở đời thuyết ra giáo thể là gì?” Đức Phật trả lời:
- Thử phương chân giáo nghĩa, thanh tịnh tại âm văn.
Thử phương, tức chỉ thế giới Ta Bà; chân giáo thể, giáo thể chân chánh là gì? Thanh tịnh tại âm văn, âm văn chính là thể của giáo. Âm văn là âm thanh, nhưng chỉ có âm thanh, không thể gọi đó là giáo thể; vì gió cũng có thanh âm, nước cũng có thanh âm, nhưng đó không thể trở thành giáo thể.
Vậy giáo thể là gì? Thanh, danh, cú, văn. Thanh là thanh âm mà Phật thuyết pháp ra, do thanh âm này mà sanh danh mục (words hay chữ), có danh mục tức sanh câu cú (sentences), từ câu cú thành ra văn chương (writings), cho nên thanh, danh, cú, văn là giáo thể của bổn kinh này.
Thanh, danh, cú, văn này gọi là “Tùy tướng môn”. Ngoài ra, còn có “Duy thức môn”, bộ kinh này lại lấy duy thức làm giáo thể. Lại có “Quy tánh môn”, quy tánh môn không giảng về tướng, lấy sự quay trở về tánh làm giáo thể; quy là quay về, tánh là tự tánh. Lại có “Vô ngại môn”, lấy vô ngại làm giáo thể.
Duy thức môn giảng “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni quan sát cơ duyên, nên dùng pháp gì để độ, Ngài bèn ở trong tịnh thức này, sanh ra một loại thuyết pháp mà giáo hóa chúng sanh. Chúng sanh đó ở trong thức này, cũng được lợi ích của pháp, nên gọi là “Duy thức môn”, lấy duy thức làm giáo thể của kinh này.
Quy tánh môn là viên dung vô ngại, không còn thức, quay thức trở về tánh, phản thức quy tánh, trở về cái tự tánh, lấy quy tánh làm giáo thể.
Thế nào là “Vô ngại môn”? Ở trên có lý có sự, quy tánh môn là một loại lý. Vậy bốn loại (Tùy tướng môn, Duy thức môn, Quy tánh môn và Vô ngại môn) hợp lại, có sự sự vô ngại, lý sự vô ngại, lý sự đều vô ngại, đó gọi là vô ngại. Lấy vô ngại làm giáo thể của kinh này, không có chướng ngại, tất cả đều viên dung vô ngại.
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong buổi tọa đàm về chủ đề “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 4 tháng 5 năm 1987
Tất cả những kinh điển Đại thừa Phật giáo, đều có thể phán là thực tướng, lấy thực tướng làm thể; thực tướng là vô tướng, nhưng không có chỗ nào mà không có tướng. Thực tướng này chính là cái “Năng” giữa trời đất, “Năng” là nhìn mà không thấy. Vậy thì thể của kinh Lăng Nghiêm có bốn môn, mà quy nạp lại tức là viên dung vô ngại, tức là lấy thực tướng làm thể. Vì thế kinh điển này giảng tới giảng lui, vẫn là lấy thực tướng làm thể.
Nếu hiểu rõ thực tướng là thể của kinh điển, thì sẽ biết được ý nghĩa trong kinh điển đều có mối liên quan với thực tướng, đều do thực tướng sinh ra. Vì thế bất luận là Tùy tướng môn cũng được, Duy thức môn cũng được, hoặc là Quy tánh môn, Vô ngại môn đều không ra ngoài thực tướng này. Phàm là kinh điển Đại thừa, bất luận bộ kinh nào cũng đều có thể lấy thực tướng làm thể của kinh. Bộ kinh này lấy tứ môn để giải thích thực tướng, tuyên dương hiển bày thực tướng. Nói về căn bổn, ngay thực tướng cũng là vô tướng. Thực tướng vô tướng, viên dung vô ngại, cũng chính là dạy chúng ta không nên chấp trước cái có tướng này, dùng bốn môn để giải thích thể của kinh điển, cũng tức là ý nghĩa tuyên dương hiển bày thực tướng, cũng chính là như thế. Và những ý nghĩa mà mỗi quyển kinh của bộ kinh này nói đến, đều là quy nạp vào thực tướng, giảng tới giảng lui, chỉ là hiển bày thực tướng. Tuyên là tuyên hiển, hiển bày ra ý nghĩa thực tướng của bộ kinh này, khiến chúng ta hiểu rõ được ý nghĩa của thực tướng: “A! thì ra là như thế!” Giống như nhận biết được người, người da trắng, người da đen, người da vàng, người da đỏ, rốt cuộc là loại người nào.
Thể của bộ kinh này là thực tướng, kinh Lăng Nghiêm thuộc về kinh điển Đại thừa, dùng thực tướng làm thể, một loại phân biệt ra bốn môn, không ngoài dạy cho chúng ta sáng tỏ ý nghĩa thực tướng.
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết
Y theo cách nói của Hiền Thủ sớ “Khởi Tín Luận”, lược phân làm bốn môn: thanh, danh, cú, văn mà trên nói đến là “tùy tướng môn”, căn cứ chỉ thú của vạn pháp duy thức, lấy duy thức làm giáo thể, nên gọi là “duy thức môn”. Nhưng thức tâm vô thể, kinh này nói nhứt nhứt đều quy Như Lai Tạng diệu chân như tánh, nên hai giáo thanh, sắc đều lấy quy tánh làm giáo thể, gọi là “quy tánh môn”. Lại nữa, để nói rõ lý ba môn trước, tâm cảnh lý sự đều tướng vô ngại, cùng nhau nhiếp thọ viên dung, tùy tướng môn thuộc cảnh, duy thức môn thuộc tâm, hợp thành tâm cảnh vô ngại. Lại hai môn tùy tướng và duy thức môn thuộc sự, quy tánh môn thuộc lý, mà thành lý sự vô ngại, nên gọi là “vô ngại môn”, là giáo thể của bộ kinh này. XXX
Lục: Sở Bị Cơ Nghi
Môn thứ sáu là: “Sở Bị Cơ Nghi”. Thế nào là “sở bị cơ nghi”? Là chúng sanh được giáo hóa, là căn cơ được giáo hóa, gọi là cơ nghi. Cơ nghi này – là chúng sanh được giáo hóa trong bộ kinh này, là chúng sanh nào? Chúng sanh mà bộ kinh này giáo hóa là “hữu tình và vô tình, đồng viên chủng trí, hữu tình, vô tình đều có thể thành Phật”. Chủ yếu được giáo hóa là Thanh văn, Duyên giác và hữu học.
Thế nào là Thanh văn? Thanh văn là người nghe âm thanh Phật mà ngộ đạo, tu Tứ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Thế nào là Duyên giác? Duyên giác có hai: một là sanh vào lúc Phật tại thế, gọi là Duyên giác, tu mười hai Nhân Duyên mà ngộ đạo; hai là sanh vào lúc không có Phật, tu mười hai Nhân Duyên mà ngộ đạo, gọi là Độc giác. Vị Độc giác này trụ ở chốn rừng sâu hoang vắng, ẩn trong núi cao hang động, quán hiện tượng sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh của vạn vật trong trời đất, có nghĩa là “mùa xuân quán trăm hoa nở, mùa thu nhìn thấy lá vàng rơi”, nhìn thấy cảnh giới này mà ngộ đạo, đó gọi là Độc giác.
Bộ kinh này vốn giáo hóa hai loại đương cơ là Thanh văn và Duyên giác, lại giáo hóa hành giả hữu học. Thế nào là hữu học? Hữu học là còn có sở học, đó là tứ quả La hán, Bồ tát…, tứ quả La hán, Bồ tát gọi là hữu học vị, đạt đến quả vị Phật mới là vô học vị.
Ngoài ra còn giáo hóa định tánh Thanh văn, định tánh Thanh văn là không muốn từ tiểu thừa hướng về đại thừa; vậy bất định tánh Thanh văn thì sao? Bất định tánh Thanh văn thì từ tiểu thừa quay về đại thừa. Hồi tiểu hướng đại là có thể từ quả vị Thanh văn qua Duyên giác mà thành Bồ tát. Đó là các căn cơ mà bộ kinh này giáo hóa. Tuy nói bốn căn cơ này là đương cơ, nhưng nếu nói rộng, thì tất cả chúng sanh trong tam giới đều là chúng đương cơ của bộ kinh này, đều có thể giáo hóa. Nên môn phân biệt thứ sáu “sở bị cơ nghi” này, có thể khiến cho định tánh Thanh văn hồi tiểu hướng đại, phát Bồ đề tâm, thành Bồ đề quả, cho nên bộ kinh này có thể nói là vô cơ bất bị, vô nhân bất độ (không căn cơ nào không được gia bị, không người nào không được độ).
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong buổi tọa đàm về chủ đề “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 24 tháng 5 năm 1987.
Giáo lý của kinh Lăng Nghiêm là dạy người tu định, khai mở trí huệ; tu định, khai mở trí huệ thì đầu tiên cần phải nghiêm trì giới luật, điều này trong bốn loại “Thanh tịnh minh hối” nói rất rõ ràng. Nếu chúng ta có thể y theo bốn loại “Thanh tịnh minh hối” tu hành, tức là “Sở bị chi cơ” của kinh Lăng Nghiêm; ai không y theo bốn loại “Thanh tịnh minh hối” tu hành, thì người đó không phải là “Sở bị chi cơ” của kinh Lăng Nghiêm – chỗ quan trọng chính là chỗ này.
Vậy thì chúng ta trì giữ giới luật, y theo “Thanh tịnh minh hối” tu hành, còn cần có chánh tri chánh kiến. Làm sao có thể biết được đó là chánh tri chánh kiến? chánh tri chánh kiến tức là phải giữ gìn quy củ, mọi thời, mọi chỗ đều phải giữ gìn quy củ, giới luật chính là quy củ. Tại sao chúng ta cần phải giữ gìn quy củ? Vì nếu không giữ gìn quy củ thì sẽ tẩu hỏa nhập ma, cho nên đã đưa ra năm loại ấm ma. Trong sự biến hóa của năm loại ấm ma, rất dễ dàng lầm đường lạc lối.
Nếu quý vị không có giới lực, định lực, huệ lực chân chánh thì sẽ đi lầm. Cho nên “Sở bị chi cơ” của kinh điển, bất luận là Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát hoặc là phàm phu ai có thể giữ gìn giới luật, giữ gìn quy củ thì đó là người mà bộ kinh này bao gồm, bộ kinh này giáo hóa. Nếu quý vị nghĩ như thế, thì biết được kinh điển là rất quan trọng, tại sao quan trọng? Chính là phải giữ quy củ, không nên ưa thích những sự hư vinh, hoa trương, đó tức là “Sở bị chi cơ”.
Hôm nay có người giảng rất mạch lạc, cũng có người giảng không đạt yêu cầu, vậy hy vọng người không hiểu hỏi những người hiểu, người hiểu thì dạy những người chưa hiểu, cần phải giúp đỡ lẫn nhau, như thế thì đều là “Sở bị chi cơ” của kinh Lăng Nghiêm.
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết
Thất: Tông Thú Thông Biệt
Môn thứ bảy là: “Tông Thú Thông Biệt”. Thế nào là tông? Tôn sùng, sùng thượng gọi là “tông”; sở quy, sở thú hướng của tông là “thú”. Thế nào gọi là “Tông”? Như người tu nhị thừa chuyên giảng về nhân quả, nhị thừa là quyền thừa. Giáo pháp mà Đức Phật thuyết ra, có quyền thừa và thật thừa, quyền là ngắn ngủi tạm thời, thật là vĩnh viễn thường hằng, pháp môn quyền thừa tạm thời nói nhiều về nhân quả, như chuyên thuyết nhân quả cho người nhị thừa, vậy nhân là tông, quả là thú. Đến thật thừa thì giảng về “ngộ nhập”, vậy ngộ là tông, nhập là thú. Kinh này lấy Tôn giả A Nan làm đương cơ bị nạn, lúc đó Phật cứu A Nan, dạy A Nan hồi tiểu hướng đại, đó là tông, đến lúc A Nan đạt đến quả cao nhất, đó là thú. Cho nên bộ kinh này, tông thú thì thông với Phật đạo, không giống như các kinh điển tiểu thừa khác, bị trói buộc hạn chế vào quyền nghi giáo pháp của nhị thừa, không thể đạt đến Phật quả, nên có sự phân biệt với giáo lý nhị thừa.
Đệ tử: tông thú?
Thượng nhân: “Tôn sùng gọi là Tông, rất tôn sùng người đó gọi là “Tông”, chính là quý vị sùng bái người này. “Sở quy của Tông” là “Thú”, Thú tức là hướng về phía trước, thú hướng của tông tức là “Thú” đây là một loại học vấn.
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong buổi tọa đàm về chủ đề “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 26 tháng 5 năm 1987.
Tông thú thông biệt: đây là tông thú thông biệt của kinh Lăng Nghiêm, không phải tông thú thông biệt của kinh Pháp Hoa. Mỗi bộ kinh đều có “Tông” của kinh, đây là “Tông”; mỗi bộ kinh cũng đều có “Thú” của kinh, đây là “Biệt”. Tông của bộ kinh này và tông của các bộ kinh khác, tông là tông giống nhau, nhưng ý nghĩa của mỗi bộ kinh này thì không giống nhau. Cũng giống như mỗi người chúng ta làm cái gì, công việc của mỗi người chúng ta không giống nhau, công việc chính là tông của người ấy, công việc tuy không giống nhau, nhưng đều đang công tác, làm xong công việc chính là “Thú”. Lại như hiện nay chúng ta nghiên cứu Phật pháp, thời gian nghiên cứu chính là “Tông”, nghiên cứu hiểu rõ rồi là “Thú”, “Tông thú” đều là không nhất định.
Bộ kinh này, nói một cách đơn giản, chủ yếu là phá mê hiển bày cái chánh, phá mê lầm của Tôn giả A nan để hiển bày ra cái chân tâm, hiển bày ra con đường chánh. Thế nào là “Thú” của bộ kinh này? Có thể nói là phản mê quay về giác là “Thú”, từ đường mê đi đến đường giác, đó là “Thú”. Nay y theo Cổ Đức giảng, giới hạn ở trong sáu đối: phá hiển, thiên toàn, ngộ nhập, thể dụng, hành vị, phân mãn. Nhưng nếu nhận thức một cách tỉ mỉ rõ ràng, thì giảng như thế nào thì có lý như thế đó, không vào thì không được. Huống chi Cổ Đức đưa ra đều là những đạo lý giống nhau về mặt đại thể chỉ khác nhau một chút ít, không nên vì danh từ không giống nhau mà không hiểu rõ, mà nhìn thấy rất sâu, rất khó hiểu.
Lại lấy công việc để ví dụ, làm vi tính là làm việc, nghiên cứu khoa học cũng là làm việc, tính chất của việc không giống, nhưng đều là đang công tác làm việc, mà mục đích cuối cùng đều là vì kiếm tiền. Mục đích cuối cùng của việc nghiên cứu Phật pháp của chúng ta, không phải là mục đích kiếm tiền, mà là vì đạt được trí tuệ. Thú hướng của chúng ta chính là hướng về con đường Bát Nhã, lấy việc khai mở trí huệ làm thú hướng, đây là chỗ mọi người đều mong cầu đạt đến, nếu không chúng ta nghiên cứu Phật pháp làm gì? Nghiên cứu Phật pháp chính là muốn chuyển ngu si thành trí huệ.
Ngu si làm sao có thể bỏ được? Chính là phải bỏ cái mê, mê chính là ngu si; không mê, không điên đảo chính là trí huệ. Đây là ý nghĩa hết sức đơn giản, không cần dùng những lời cao siêu để giảng tông thú của bộ kinh này. Bộ kinh này lấy phá mê hiển chánh làm tông, lấy thành Phật làm thú, cứu cánh là muốn thành Phật, những điều tương tự ở đây đều có thể giảng, không nhất định phải giảng theo chú giải. Chú giải chỉ là chỉ dẫn một con đường cho chúng ta, nếu hiểu rõ rồi thì giảng như thế nào thì có đạo lý như thế ấy, nhưng cần phải có căn cứ, điều giảng ra phải hợp lý, phải phù hợp với ý nghĩa của kinh điển, đó là được rồi.
Lại đưa ra một ví dụ đơn giản hơn, ví dụ con nít thì nói: “Má! Con đói rồi”. Đó chính là lấy ăn cơm làm tông, ăn cơm no chính là thú. Lại như: “Má ơi! Con lạnh rồi” đó chính là lấy muốn mặc y phục làm tông, không lạnh là thú. Như nói: “Má! Con mệt rồi”. Tức là lấy muốn ngủ làm tông, ngủ rồi là thú – những đạo lý đã đưa ra ở trên thì rất dễ dàng hiểu rõ.
Kinh điển chính là làm cho chúng ta khi mê thì cần phải học cho hiểu rõ, nên khi mê cần phải lấy việc nghiên cứu Phật pháp làm tông, nghiên cứu hiểu rõ rồi, có chánh tri chánh kiến, chính là thú; hiểu rõ được điều này cũng chính là hiểu rõ tông thú của kinh điển.
Lại nói “Ăn cơm, mặc áo, ngủ đều là tông thú” đây không phải là lời nói đùa, nếu có thể thật sự hiểu rõ câu này, cũng có thể hiểu được tông thú . Quý vị không nên cho rằng quý vị đều biết ăn cơm, mặc y phục, ngủ nghỉ, kỳ thực quý vị không phải biết gì hết. Thật sự biết ăn cơm thì không ăn cũng không đói; biết mặc y phục thì không mặc cũng không lạnh; biết ngủ nghỉ thì không ngủ cũng không buồn ngủ.
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết.
Bát: Thuyết Thời Tiền Hậu
Môn thứ tám là: “Thuyết Thời Tiền Hậu”. Bộ kinh này Đức Phật thuyết vào lúc nào? Nếu bộ kinh này là lời khai thi của Đức Phật về việc hồi tiểu hướng đại, thì đáng lẽ thuyết vào thời Phương Đẳng. Mà Đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, lúc đó Vua Ba Tư Nặc sáu mươi hai tuổi; vua Ba Tư Nặc cùng tuổi với Phật, nếu y theo số tuổi của vua Ba Tư Nặc, thì bộ kinh này nên thuộc về thời Bát nhã. Nên thời tiền hậu chính là xác định bộ kinh này thuộc thời Phương đẳng hay là thời Bát nhã, nên ở trên (Hiền Thủ Tông) phán định bộ kinh này thuộc Chung giáo, là một thực pháp, đây là “Thuyết thời tiền hậu”.
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong buổi tọa đàm về chủ đề “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 4 tháng 6 năm 1987.
Môn thứ tám Thuyết thời tiền hậu: kinh Lăng Nghiêm thuộc về Phương Đẳng giáo. Phương Đẳng giáo thuộc về thông giáo, “Thông” là thông đạt vô ngại, lại có thể thông trước thông sau, hướng về phía trước có thể thông đến Tiểu thừa, hướng về phía sau có thể thông đến Đại thừa. Nên giáo nghĩa của kinh Lăng Nghiêm, có thể nói là Phương Đẳng thời hoặc Bát Nhã thời đều được. Thời Phương Đẳng là thông thời A Hàm, nên thời này là dạy Tiểu thừa từ tiểu quay về đại. Tại sao nói là thông phía sau? Thông phía sau là thông thời Bát Nhã. Thời Phương Đẳng là một cửa đầu tiên của Đại thừa, khi mới phát tâm Bồ đề Đại thừa. Vì thế có thể nói bộ kinh này là thuộc về Phương Đẳng hoặc thời Bát Nhã, thời này đều thông cả. Chúng ta nhìn thấy kinh điển phải nhìn cho linh hoạt, không nên chỉ chấp trước một phần; chấp trước một phần, đó là “Dĩ nhất phế bách”, lấy một cái mà phế cả trăm cái, cũng có thể nói là cố chấp không thông.
Vì thế “Thuyết thời tiền hậu” này là lúc nào? Chính lúc nói bộ kinh Lăng Nghiêm này. Lúc đó có thể nói là thời Phương Đẳng hoặc là thời Bát Nhã, đều là thông cả. Lúc đó vua Ba Tư Nặc 62 tuổi, nên Đức Phật cũng có lẽ là 62 tuổi. Đức Phật vốn thuyết xong thời Phương Đẳng là 50 tuổi, Đức Phật 30 tuổi thành đạo, 12 năm nói A Hàm, 8 năm nói Phương Đẳng, nên Đức Phật 50 tuổi. Nhưng vua Ba Tư Nặc nói vua 62 tuổi, nên cũng có thể là thời kỳ Bát Nhã, nhưng là đương thời Phật thuyết bộ kinh điển này, bộ kinh này không thuộc Bát Nhã giáo, mà thuộc về Thông giáo, nên phán là thời Phương Đẳng, đây là một ý nghĩa đại khái như vậy.
Chúng ta không nên quá chấp những điều nhỏ nhặt, chấp trước vào “Thời” này, mà thời này không phải là vấn đề. Từ xưa đến này các vị đại đức cao tăng, phân khoa phán giáo, có chỗ thì chính xác, có chỗ thì dư thừa vô ích, không cần thiết. Người đời sau nên nhìn những đạo lý này thật linh hoạt, cũng không nên nói nhất định là như thế, hoặc nhất định là không phải như thế; sử dụng cái ngã kiến của mình, nói nó không phải là lúc đó, hoặc là lúc đó, đây là “Pháp vô hữu định”.
Thời gian vốn là không có quá khứ, không có hiện tại, không có vị lai. Vậy thì hiện tại có thể nói là dường như lúc đó – nay nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, nay chính là lúc nói kinh Lăng Nghiêm; nhưng sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, nói chúng ta nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm. Cho nên “Thời” này là không nên chấp trước, chúng ta nếu vì nghẹn mà bỏ ăn, thì quá tiếc, vì thế không nên vì nghẹn mà không ăn cơm.
Đức Phật thuyết pháp, Cổ Đức tuy chia làm năm thời – thời Hoa Nghiêm, thời A Hàm, thời Phương Đẳng, thời Bát Nhã, thời Pháp Hoa, nhưng kinh điển không nhất định ở trong một thời nào giảng, chính là thuộc vào một loại nào, quy nạp vào trong thời nào. Nếu có thể nghĩ được như thế thì thật là viên dung, vô ngại, mới có thể “Tiền hậu quán thông”, thật sự đạt đến nghĩa lý của kinh. Đưa ví dụ ra nói, tuy nói Đức Phật 22 năm thuyết Bát Nhã, nhưng chúng ta không nên tin Đức Phật 22 năm chỉ nói Bát Nhã. Trong 22 năm chắc chắn sẽ có những giáo nghĩa khác, như Phương Đẳng giáo, cho nên không nên chấp trước vào thời gian. Có thể Đức Phật ở trong thời Bát Nhã cũng giảng một số giáo lý về Phương Đẳng, hoặc là trong thời Phương Đẳng cũng giảng một ít giáo lý Bát Nhã. Nếu lấy Gia Du Đà La thọ ký làm tiêu chuẩn, thì nói đó là thời Pháp Hoa Niết bàn, vậy thì làm sao biết được Phật trước kia không có thọ ký cho Gia Du Đà La? Đó đều không nhất định, đó đều là lấy tư tưởng phàm phu để đánh giá cảnh giới của Phật.
Cảnh giới của Phật là không thể nghĩ bàn, chúng ta không có cách nào biết được. Chúng ta không nên quá chấp trước Phật lúc nào thuyết kinh nào, chúng ta cũng không thể nói sau khi Đức Phật đã nói một bộ kinh thì không nói về nó nữa. Tóm lại chúng ta hôm nay nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, đó chính là lúc thuyết kinh Lăng Nghiêm; lúc nào không có nghiên cứu, đó không phải là lúc thuyết kinh Lăng Nghiêm.
Quý vị làm sao biết được vua Ba Tư Nặc không lần nữa thỉnh giáo kinh Lăng Nghiêm? Lúc đó vua Ba Tư Nặc nói vua 62 tuổi, cho nên quý vị làm sao biết được Đức Phật ở trong thời Bát Nhã, sẽ không thuyết lại kinh Lăng Nghiêm nghiên cứu thảo luận lại về ý nghĩa kinh Lăng Nghiêm? Vì thế chúng ta không thể nói sau khi Đức Phật đã thuyết qua rồi, thì sẽ không nhắc lại ý nghĩa của nó nữa. Ví dụ trước kia tôi giảng kinh Lăng Nghiêm, lúc đó là năm 1968, nay lại giảng, mà nay là 1987, như thế làm sao có thể nói chúng ta nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm là ở lúc nào? Đó không phải là hạn định ở một lúc nào. Nếu như Quả Bắc, năm 1968 ở phía bắc, nay đã đến phía nam, vậy thì đối với cô ta mà nói là năm 1987 nghe được kinh Lăng Nghiêm, lại cũng có thể thời Đức Phật giảng kinh Bát Nhã, mọi người đối với ý nghĩa kinh Lăng Nghiêm không hiểu, vì thế lại nghiên cứu lần nữa, như thế làm sao có thể xác định là lúc nào.
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết
Cửu: Lịch Minh Truyền Dịch
Môn thứ chín là: “Lịch Minh Truyền Dịch”. “Lịch” là kinh lịch trải qua; “minh” là làm cho mỗi người chúng ta đều minh bạch hiểu rõ sáng suốt; truyền là truyền thọ; dịch là phiên dịch. Ý là nói nguồn gốc sự lưu thông truyền bá phiên dịch của bộ kinh này.
Nói về nhân duyên của bộ kinh này, thì rất là lâu dài. Khi Thiên Thai Trí Giả Đại sư nghiên cứu tụng đọc kinh Pháp Hoa, thì chia tất cả kinh điển làm Tự phần, Chánh tông phần, và Lưu thông phần. Tự như trên đã giảng, là bài tựa; Chánh tông phần là tông thú của bộ kinh; Lưu thông phần, phần sau của kinh khuyên mọi người lưu thông bộ kinh này. Trí Giả Đại sư chia mỗi bộ kinh điển làm ba phần như thế.xx Khi Thiên Thai Trí Giả Đại sư gặp một vị Pháp sư từ Ấn Độ đến Trung Quốc, vị pháp sư này nói với Trí Giả Đại sư rằng:
- Ở Ấn Độ có một bộ kinh Lăng Nghiêm, bộ kinh này là cứu cánh, là cứu cánh nhất, sâu sắc nhất, là vi diệu nhất, đạo lý của kinh này thật không thể nghĩ bàn.
Thiên Thai Trí Giả Đại sư nghe nói như thế, mỗi ngày đều hướng về Tây phương lễ bái, mong cầu có thể nhìn thấy được bộ kinh Lăng Nghiêm, lễ bái suốt mười tám năm, mà cuối cùng vẫn không nhìn thấy được bộ kinh Lăng Nghiêm này.
Vì đương thời vua Ấn Độ vốn rất kính trọng kinh Lăng Nghiêm này, xem như quốc bảo. Tại sao là quốc bảo? Bộ kinh do Bồ tát Long Thọ lấy từ Long cung, cho nên người trong nước xem bộ kinh này là quốc bảo, cấm truyền ra nước ngoài. Sau đó Pháp sư Bát Thích Mật Đế, là vị phiên dịch bộ kinh này, đã từng có ý định lưu truyền bộ kinh này ra nước ngoài, nhất là muốn truyền đến Trung Quốc là nước có văn hóa sâu rộng. Lần đầu tiên Ngài muốn đem bộ kinh này truyền đến Trung Quốc, không ngờ vừa đến biên giới bị hải quan biên giới kiểm soát và tịch thu, không đem đi được. Sau đó Ngài trở về nghĩ đủ cách để đem bộ kinh này ra nước ngoài.
Ngài nghĩ ra biện pháp viết kinh này trên tấm vải trắng mịn màng nhất, viết chữ rất nhỏ, rồi lấy sáp niêm phong kỹ, sau đó Ngài tự rạch bắp tay nhét kinh vào, rồi dùng thuốc cao dán lên. Có người nói là giấu trong bắp đùi, tôi nghĩ giấu trong bắp đùi không cung kính, nhất định là Ngài giấu trong bắp tay, hoặc là một chỗ thịt dày trên thân, cắt thịt bỏ vào trong đó. Đợi đến vết thương lành mới xuất ngoại, lần này vì kinh giấu trong bắp thịt nên hải quan kiểm soát không ra, nên đã đem được đến Trung Quốc.
Khi Ngài đến tỉnh Quảng Đông Trung Quốc, vừa lúc gặp phải Thừa tướng Phòng Dung mới bị giáng chức đến Quảng Đông, bèn được Thừa tướng Phòng Dung mời đến chùa ở phiên dịch bộ kinh này. Đây là quá trình khó khăn của sự truyền dịch bộ kinh này. Nên hôm nay chúng ta mới có thể nghiên cứu đọc tụng bộ kinh này, là nhờ tâm không ngại cực khổ khó nhọc của vị Pháp sư Bát Thích Mật Đế, đem bộ kinh này đến Trung Quốc. Quý vị nghĩ xem, bộ kinh này quan trọng như thế! Trí Giả Đại sư được biết Thiên Trúc có kinh này, bèn kiền thành lễ bái mười tám năm, nhưng cuối cùng không nhìn thấy được một lần, chúng ta hôm nay không những được lễ bái mà còn có thể cùng nhau đọc tụng nghiên cứu, nhân duyên như thế, thù thắng biết bao nhiêu? Hy vọng quý vị trân trọng!
Nguyên văn:
唐中天竺沙門般刺蜜諦譯。
Âm Hán Việt:
Đường Trung Thiên Trúc Sa môn Bát Thích Mật Đế dịch.
Giảng:
“Đường” là triều đại nhà Đường. Trung Thiên Trúc: đây là tên của Trung Ấn Độ. Đời Đường vào lúc nào? Sau khi Vũ Tắc Thiên thối vị, niên hiệu Thần Long năm đầu tiên, có một vị Sa môn Ấn Độ.
“Thiên Trúc” là Ấn Độ. “Sa môn” (Shramana) là tiếng Ấn Độ, tiếng Hoa dịch là “cần tức”, nghĩa là tinh cần tu giới định huệ, tức diệt tham sân si. Phật cũng gọi là Sa môn.
Lúc Phật còn tại thế, có Tỳ kheo Mã Thắng đang đắp y đi trên đường, Tôn giả Xá Lợi Phất gặp Ngài, bèn hỏi:
- A! Thầy trang nghiêm uy nghi như thế, nhất định thầy có Sư phụ, xin hỏi thầy theo học với ai?
Tỳ kheo Mã Thắng trả lời:
“Chư Pháp tùng duyên sanh,
Chư pháp tùng duyên diệt,
Ngã Phật đại Sa môn,
Thường tác như thị thuyết”.
Nghĩa là tất cả pháp đều từ nhân duyên sanh ra, tất cả pháp cũng từ nhân duyên mà diệt. Sư phụ của tôi gọi là Phật, là vị Đại Sa môn, Ngài thường thuyết như thế. Xá Lợi Phất nghe Ngài Mã Thắng thuyết như vậy liền đi theo Ngài đến Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên, lễ Phật làm Thầy, xuất gia tu hành, cho nên Phật cũng gọi là Sa môn.
Vị Sa môn gọi là Bát Thích Mật Đế phiên dịch kinh Lăng Nghiêm này,
Bát Thích Mật Đế là tiếng Phạn, tiếng Hoa dịch “Cực Lượng”, ý là trí huệ tài năng đều cực kỳ phong phú, vô cùng viên mãn, tài năng của Ngài đạt đến cực điểm, là người chủ trì phiên dịch bộ kinh này. Tại sao gọi là dịch? Dịch là phiên dịch tiếng Ấn Độ thành tiếng Hoa. “Dịch” cũng chính là “dị”, có nghĩa là thay đổi biến dịch tức từ Phạn ngữ chuyển thành tiếng Hoa. Pháp sư Bát Thích Mật Đế là dịch chủ của bộ kinh này, sao gọi là “dịch chủ”?
Vì lúc đó đồng tiến hành phiên dịch bộ kinh này, không chỉ có mình Ngài, mà có rất nhiều Pháp sư tụ họp lại một chỗ cùng nhau phiên dịch bộ kinh này. Có khoảng bao nhiêu người? Có khoảng hơn hai trăm vị Pháp sư cùng nghiên cứu phiên dịch bộ kinh này. Lúc đó ở trong chùa Chế Chỉ, một ngôi tự viện lớn Quảng Châu, tiến hành công tác phiên dịch bộ kinh này.
Ngài đem bộ kinh này truyền vào Trung Quốc, phiên dịch thành tiếng Trung, rất nhanh chóng phiên dịch xong bộ kinh này. Tại sao Ngài muốn nhanh chóng dịch cho xong? Vì sau khi Ngài giấu kinh mang ra nước ngoài không bao lâu, quốc vương biết được và trách tội vị hải quan biên giới: “Tại sao các người lại để cho vị hòa thượng đem quốc bảo ra khỏi nước?” Cho nên Pháp sư dự định mau chóng về nước để nhận tội này, thà để quốc vương phạt mình chứ không muốn quốc vương trừng phạt những người hải quan. Vì thế sau khi nhanh chóng phiên dịch bộ kinh này, lại trở về Ấn Độ để nhận tội, tùy ý quốc vương xử phạt như thế nào thì thọ lãnh hình phạt như thế ấy. Do đây có thể thấy đức hạnh, tiết tháo cao thượng của vị Pháp sư này, và cũng có thể thấy được công đức cống hiến của Ngài đối với bộ kinh Lăng Nghiêm to lớn như thế. Chúng ta hôm nay được nghiên cứu bộ kinh này, phải nên tri ân công đức to lớn của Pháp sư Bát Thích Mật Đế, cho nên ngay đầu bộ kinh giới thiệu cho mọi người một đoạn hoằng pháp của vị Sa môn này.
Ở trên đã nói “Sa môn” là “Cần tu giới định huệ, tức diệt tham sân si”, chúng ta cũng nên học tập. Thế nào là “cần tu giới định huệ”? Đầu tiên cần quy y Tam Bảo, sau đó thọ trì ngũ giới; không phải chỉ thọ ngũ giới rồi thì thôi mà thọ rồi cần phải y theo giới thực hành. Thế nào là thực hành? Chính là không phạm giới. Tôi tin rằng mọi người đều biết ngũ giới là gì, ngũ giới là “không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu”. Năm giới này là rất quan trọng, là tiêu chuẩn, mực thước của người học Phật, nếu mỗi người chúng ta đều có thể tu trì ngũ giới, thực hành ngũ giới thì sẽ không làm mất đi thân người.
Có người nói:
- Không sát sanh, điều này có thể được, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, điều này cần nên giữ, không nên sát sanh; không trộm cắp, điều này cũng nên giữ, không tà dâm, điều này cũng nên giữ gìn; không vọng ngữ, điều này cũng nên giữ. Bốn giới này cần phải giữ là đúng rồi, nhưng tại sao uống rượu cũng nằm trong năm giới? Tại sao phải cấm rượu? Trong cuộc đời của tôi rất thích uống rượu, lại thích hút thuốc nên tôi không muốn học Phật pháp. Tại sao vậy? Vì có một giới điều cấm uống rượu nên không muốn học Phật pháp.
Nhưng quý vị nên tự mình phản tỉnh: hút thuốc có đúng không, uống rượu có nên hay không? Nói là: “Người người đều uống rượu, người người đều hút thuốc, đây là sở thích của con người, có gì sai?” nhưng sở thích của mỗi người, đó đều là “quen rồi nên không thấy”, nhiễm tập thành thói quen, không biết nên làm bậy, nhắm mắt a dua theo người. Người ta uống rượu mình cũng uống rượu, người ta hút thuốc mình cũng hút thuốc. Cứ huân tập hút thuốc, uống rượu mãi, cho đó là bình thường; ngu ngốc không giác ngộ, người ta nói sao mình nói theo vậy, cuối cùng thay hình đổi xác, nghiện ngập ngày càng nặng, tích tập khó trừ, lại còn cãi chày cãi cối, lấp liếm cái xấu của mình, đây quả thật là việc làm đáng buồn. Cần biết dù chưa gây thành bệnh nặng, cũng đã là bệnh nhẹ, dù chưa thành bệnh, cũng thuộc về tật xấu. Hút thuốc uống rượu là tật xấu, cần phải trừ bỏ, vậy mà thà không học Phật, chứ không chừa bỏ rượu thuốc, quý vị xem, thật là ngu xuẩn biết bao!
Tại sao chúng ta cần phải giữ giới rượu? Ở đây giảng cho quý vị nghe một câu chuyện:
Có người phát tâm tin Phật và thọ ngũ giới, chỉ có tật ưa thích rượu chưa bỏ được, nên sau khi thọ giới, giữ giới thứ năm không được. Người đó nghĩ thầm: “Mình chỉ uống có một chút rượu, đâu có sao!” Vì thế muốn uống rượu, nhưng lại không có đồ nhắm rượu - người Trung Quốc uống rượu đều cần có chút đồ nhắm, không giống như người Tây phương chỉ uống rượu không cần đồ nhắm. Lúc đó nhìn thấy con gà hàng xóm đang bơi móc tìm kiếm thức ăn, liền quá vui mừng, bèn bắt lấy.
Bắt con gà liền phạm giới trộm. Bắt con gà làm gì? Giết gà làm đồ nhắm rượu. Giết gà phạm thêm giới sát sanh, như thế trong chớp mắt liên tiếp phạm giới sát, giới trộm cắp, và giới rượu.
Có thịt gà làm đồ nhắm rượu, ăn uống thỏa thích đến say mèm, người vợ hàng xóm đến gõ cửa tìm gà. Anh ta mở cửa, người vợ hàng xóm bước vào hỏi:
- Anh có thấy con gà của tôi chạy qua đây không?
Anh ta lắc đầu lia lịa, nói:
- Không có, tôi không có thấy.
Lúc đó phạm luôn giới vọng ngữ.
Trong lúc khí rượu bừng bừng, anh ta lại thấy cô gái này rất đẹp, nên khởi lòng tà dâm, bèn cưỡng gian cô ta, làm nhiễm ô cô gái này. Sau việc này bị quan bắt, án theo pháp luật trừng trị, nhốt vào nhà tù.
Chỉ vì uống rượu mà người ấy liên tiếp phạm luôn năm giới. Đây là do rượu làm loạn tánh, cho nên Đức Phật ngăn cấm. Uống rượu nhiều thì thân không còn tự chủ; khi không còn tự chủ thì khi trời khi đất, lúc là trời, lúc là đất, đằng văn giá võ, việc gì cũng làm được. Đó vì một chút rượu mà phạm luôn năm giới, cho nên trong năm giới cần phải cấm rượu. Nếu không uống rượu say thì sẽ không làm những việc sai lầm; uống rượu say, rồi làm càn làm bậy, mà chiêu vời đại họa vào thân, thiệt là một đốm lửa nhỏ có thể đốt cháy cả cánh đồng. Nên trong Phật giáo đầu tiên cần phải giữ gìn năm giới, điều này rất quan trọng.
Sau khi quy y Tam bảo, thì thọ ngũ giới; thọ ngũ giới rồi, nếu quý vị không phạm giới thì mỗi một giới có năm vị thiện thần hộ giới bảo hộ cho quý vị. Nếu quý vị phạm giới, các vị thiện thần này chạy hết, không bảo hộ nữa, nên thọ giới trong Phật giáo rất quan trọng.
Cách thọ giới như thế nào? Không phải tự mình xem sách, sách nói “không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu” thì tính là đã thọ giới. Kỳ thật không phải đơn giản tùy tiện như thế. Cũng không phải nói tôi trước bàn Phật thắp hương, hoặc đốt vài cái liều hương, thì gọi là đã thọ giới. Vậy phải làm như thế nào? Người tại gia muốn thọ ngũ giới cần phải thỉnh cầu một vị cao tăng đại đức đến chứng minh truyền giới, mới gọi là thọ giới. Thọ giới xong cần phải giữ giới, như thế mới có công đức bất khả tư nghì. Như thế quý vị muốn thọ giới, nhất định phải ở trước vị tăng sĩ thỉnh cầu giới pháp đó mới hợp pháp.
Tôn chỉ của bộ kinh này chỉ dạy chúng ta tu tập đại định kiên cố, vì tu định thì trí huệ khai mở, nếu không có định lực thì không có huệ lực, không có huệ lực, thì làm sao có thể học Phật được? Vậy thì định lực từ đâu mà đến? Do từ giới mà sanh, bình thường không phóng túng dục tình, dùng đạo tâm xử sự, đó là định; tu định, nguồn gốc ở chỗ thọ giới trì giới mới có thể trong sự tu hành tương ứng với pháp, thấm nhuần trong biển pháp, mà được sự tinh tấn, an lạc vui vẻ. XXX
Nói đến “Định” thì có rất nhiều loại. Nói tóm lại, nếu không bị ngoại cảnh xoay chuyển giao động, đó chính là định. Như thế nào mới có thể đạt được cái định này? Trước hết phải an tĩnh, muốn tĩnh thì phải tham thiền ngồi thiền. Người thường chúng ta không định cũng vì hôm nay đi tây, ngày mai đi đông, thay đổi không thường, cứ giong ruổi khắp nơi, nên không được định. Nếu muốn được định thì phải dụng công tu hành, chúng ta hiện nay ngày ngày tu tập thiền định. Nhưng khi tu tập thiền định, có lúc sanh ra rất nhiều cảnh giới, khi cảnh giới đến, thì không nên bị cảnh giới xoay chuyển, đó chính là định; nếu bị cảnh giới xoay chuyển thì không có định.
Như nhận bức thư, có tin buồn, thì tâm sanh buồn bực, đó là không có định, vừa gặp phải thử thách đã không chịu nỗi; hoặc là gặp việc vui mừng, thì chạy theo cái vui đó, đó cũng không có định; hoặc gặp một việc làm cho mình tức giận, mình liền tức giận, đó cũng không có định, không có thành công về định. Cần phải không hỷ, không nộ, không ai, không lạc; cũng không làm việc bằng các thứ tình cảm hỷ, nộ, ai, lạc, mà phải làm việc bằng đạo tâm, đó là một loại định.
Tu định sau đó mới khai mở trí huệ; nếu không có định lực, thì không có huệ lực; không có huệ lực, thì làm sao mà có thể học tập Phật pháp được? Định lực, huệ lực từ đâu mà đến? Do giới mà sanh ra, nên trước phải thọ giới; thọ giới thì phải giữ giới, sau đó mới có thể tu hành, mới tương ứng với pháp; tương ứng với pháp mới có thể thấm nhuần trong biển Phật pháp.
Nhắc lại môn thứ chín “Lịch minh truyền dịch”. Truyền dịch là Đường, Trung Thiên Trúc Sa môn Bát Thích Mật Đế dịch. Bát Thích Mật Đế (Paramiti) là dịch chủ của đạo trường dịch kinh. Tại sao gọi Ngài là dịch chủ? Vì lúc đó đồng tiến hành phiên dịch bộ kinh này, không chỉ có mình Ngài, mà có rất nhiều Pháp sư tụ họp lại một chỗ cùng nhau phiên dịch. Có khoảng hơn hai trăm vị Pháp sư cùng nghiên cứu phiên dịch bộ kinh này. XXX
Ở trên giảng “Sa môn” là cần tu giới định huệ, tức diệt tham sân si. Ba loại tham sân si này giống như thuốc độc, gọi là “Tam độc”. Nguyên nhân mà chúng ta chưa thành Phật chính là vì ba thứ độc này; nếu ngăn chặn được ba thứ độc này, chúng ta sẽ nhanh chóng thành Phật.
Ba thứ độc là:
1. Tham tâm: là lòng tham không biết chán, bất luận cái gì cũng tham, tham muốn cho nhiều, càng nhiều càng tốt, đó là tham tâm.
2. Sân tâm: là sanh lòng sân nhuế, gặp phải việc gì cũng sanh lòng tức giận, sanh lòng sân hận.
3. Si tâm: chính là si tâm vọng tưởng, vô cùng ngu si, làm việc gì thì cứ hồ đồ hỗn độn, đó là si tâm.
Nếu có thể diệt trừ ba loại này, sẽ cùng với Đạo tương ứng, tu đạo dễ dàng thành tựu đạo nghiệp, đó là ý nghĩa của Sa môn.
Sa môn có bốn loại:
1. Thắng đạo Sa môn: chính là “tu hành chứng quả”, hoặc chứng quả A la hán, hoặc chứng quả Bồ tát; Sa môn chứng quả gọi là Thắng đạo Sa môn.
2. Thuyết đạo Sa môn: là hoằng pháp lợi sanh. Hoằng pháp là hoằng dương Phật pháp, hoằng là rộng lớn, như tôi nay đang giảng kinh cho quý vị, gọi là hoằng pháp. Lợi sanh là lợi ích chúng sanh, khiến cho tất cả chúng sanh được lợi ích, gọi là lợi sanh. Hoằng pháp lợi sanh là Thuyết đạo Sa môn.
3. Hoạt đạo Sa môn: là “tinh tấn trì giữ giới luật”. Hành trì giới luật, tinh tấn nghiên cứu giới luật, rất xem trọng giới luật, không phạm giới, sống đúng theo đạo, lấy việc tu đạo làm sanh hoạt của mình, nên gọi là Hoạt đạo Sa môn.
4. Ô đạo Sa môn: là “Khai trai phá giới”, ăn mặn phạm giới. Người này làm trái ngược với giới luật Phật dạy, đối với Phật giáo có chỗ ô nhiễm, làm ảnh hưởng xấu đến Phật giáo, khiến người nhìn thấy nói: “Người xuất gia này không giữ giới luật”, nên không sanh lòng tin; không sanh lòng tin thì không thân cận Phật giáo. Ô đạo Sa môn thuộc hàng xuất gia làm ô nhiễm Phật đạo.
Vị Sa môn Bát Thích Mật Đế phiên dịch bộ kinh Lăng Nghiêm thì thuộc về loại Sa môn nào? Ngài thuộc về ba loại trước, cũng có thể gọi là Thắng đạo Sa môn, cũng có thể gọi là Thuyết đạo Sa môn cũng có thể gọi là Hoạt đạo Sa môn, chứ không phải là Ô đạo Sa môn. Tại sao phải giảng vị dịch chủ này? Vì sự cống hiến, công đức của Ngài đối với bộ kinh Lăng Nghiêm này rất lớn, cho nên trước khi giảng kinh văn phải giảng đến tên của Ngài trước. Vì điều thứ nhất trong “lịch minh truyền dịch” chính là dịch chủ.
Nguyên văn:
烏萇國沙門彌伽釋迦譯語
Âm Hán Việt:
Ô Trường quốc Sa môn Di Già Thích Ca dịch ngữ.
Giảng:
Trong đạo trường dịch kinh do Pháp sư Bát Thích Mật Đế chủ trì công tác phiên dịch, có một vị trợ thủ, là vị Sa môn từ nước Ô Trường (Udyana) đến Trung Quốc. Ô Trường Quốc: là tên một nước thuộc Ấn Độ, “Ô Trường” còn gọi là “Ô Trường” (烏萇-烏場), trước kia là vườn hoa của vị vua. Vị Sa môn này là cao tăng của nước đó đến Trung Quốc, tên của Ngài là gì? Tên là Di Già Thích Ca (Meghashikara), tên này dịch ra tiếng Hoa là “Năng Hàng Phục”, Ngài có thể hàng phục tất cả phiền não, cũng có thể nói là hàng phục tất cả ma chướng. Tóm lại cái gì Ngài cũng có thể hàng phục. Vị Pháp sư này trợ lý công tác dịch ngữ: Ngài phiên dịch, duyệt sửa câu cú cho đúng từ tiếng Phạn dịch thành Hoa ngữ. Như tiếng Hoa dùng từ gì để phiên dịch từ ngữ Ấn Độ, vị pháp sư này làm công việc dịch ngữ, vị pháp sư này là công tác dịch ngữ, nên lúc đó cũng là một vị pháp sư đảm nhiệm chức vụ quan trọng trong đạo trường phiên dịch.
Nguyên văn:
羅浮山南樓寺沙門懷迪證譯。
Âm Hán Việt:
La Phù sơn Nam Lâu tự Sa môn Hoài Địch chứng dịch.
Giảng:
Cũng giống như trong quyển kinh này, thông thường đều không có tên của vị pháp sư mà tôi viết ở đây, quý vị có thể thêm vào, vì các bổn xưa đều có vị “Chứng dịch” này. Vị pháp sư này là người ở đâu? Ngài là La Phù sơn Nam Lâu tự Sa môn: “La Phù sơn”, là một trong những ngọn núi nổi tiếng ở tỉnh Quảng Đông, “Nam Lâu tự” là ngôi chùa mà Sa môn Hoài Địch cư trú.
Hoài Địch chứng dịch: Ngài làm công việc chứng minh, chứng minh như thế nào? “Chứng” có nghĩa là chứng minh, bảo chứng.
Khi sư phụ của Ngài đặt pháp danh Hoài Địch cho Ngài, cầu mong Ngài tinh tấn dụng công, cho nên đặt tên này, vì Hoài là hoài bảo, Địch có nghĩa là “Tấn”, có nghĩa là thường thường tinh tấn, lập chí tu hành, không nên nghỉ ngơi, không nên làm biếng. Pháp sư Hoài Địch học vấn uyên bác, bình thời nghiên cứu kinh giáo, hiểu rõ giáo lý kinh điển, dung hợp quán thông, giỏi Phạn ngữ Ấn Độ, cho nên có thể đương nhậm chức vụ chứng dịch trong đạo trường dịch kinh thời đó.
Pháp sư Bát Thích Mật Đế và Pháp sư Di Già Thích Ca đều am tường, tinh thông Phạn văn, Hoa văn, nhưng tại sao lại mời một vị Pháp sư Trung Quốc làm người chứng dịch? Vì hai Ngài tuy là thông suốt Trung văn và Phạn văn, nhưng mới đến Trung Quốc, sợ rằng không hoàn toàn triệt để hiểu hết tiếng Hoa, nên đặc biệt mời một vị Pháp sư Trung Quốc đến tham gia giúp đỡ chứng dịch, để cầu toàn thiện toàn mỹ, nên Pháp sư Hoài Địch là vị chứng minh bản dịch trong đạo trường phiên dịch bộ kinh này.
Pháp sư Hoài Địch là vị chứng dịch bộ kinh này. Nhưng mà trong các bản kinh điển gần đây thì không có nhắc đến tên Pháp sư Hoài Địch, các bổn xưa thì có. Tại sao ai lại lược bỏ tên của vị pháp sư này? Nay thì không có cách nào khảo sát được, nhưng tôi hy vọng mọi người đã biết được vị chứng dịch này là ai, nên nay tôi khi giảng bộ kinh Lăng Nghiêm cũng đặc biệt đề cập cho mọi người biết.
Nguyên văn:
菩薩戒弟子 前正議大夫 同中書門下 平章事 清河房融 筆受
Âm Hán Việt:
Bồ tát giới đệ tử tiền Chánh nghị đại phu đồng Trung thư Môn hạ Bình chương sự Thanh Hà Phòng Dung bút thọ.
Giảng:
Bồ tát giới đệ tử: “Bồ tát giới” tổng cộng có mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh, là giới pháp tu học Bồ tát đạo, cũng thuộc giới pháp đại thừa, là giới mà người xuất gia và người tại gia đều nên thọ trì. Bồ tát Phạm Võng giới Kinh nói: Bất luận là Quốc vương, bá quan văn võ đại thần, khi kế vị, khi ra làm quan, đều nên thọ Bồ tát giới. Phòng Dung là Thừa tướng, đối với nghĩa lý Đạo Phật, ông ta hiểu rất sâu sắc, vì nhận Phật làm cha, Bồ tát là anh, cho nên gọi ông ta là “Bồ tát giới đệ tử”. Bồ tát giới có bao nhiêu? Có mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, có mười loại đặc biệt quan trọng, bốn mươi tám loại thì nhẹ một chút, cho nên sau khi thọ giới Bồ tát tự xưng là đệ tử.
Sau khi thọ giới Bồ tát, ông ta làm “Tiền chánh nghị đại phu”. “Tiền” (Former) tức lúc trước, lúc trước làm, chứ không phải hiện nay làm Chánh nghị đại phu. “Chánh nghị”, sách Sử Ký gọi là “Chánh gián”, “Gián nghị đại phu”. Gián nghị là chức quan quản lý việc gì? Chính là “Ngôn quan”. “Ngôn quan” là gì? Quốc gia có việc gì không đúng, người này sẽ khuyến gián, sẽ phê bình. Có triều đại gọi là “Ngự sử”, tức là đất nước này có việc gì sai lầm, quan “Ngự sử” sẽ phê bình. Đại phu là một cách xưng hô của quan chức.
Đồng trung thư môn hạ: “Trung thư, môn hạ” đều là tên của phủ thừa tướng. Trung thư là phụ trách công văn giấy tờ chiếu thư của vua. Những hiệu lệnh của nhà vua ban ra đều do Thừa tướng Trung thư quản lý. Môn hạ là vị quan lo về việc hành chánh. Môn hạ là quản lý các việc chính phủ, trung thư là quản lý việc của vua. Nên hai chức Thừa tướng, một là quản lý phụ trách phát ra hiệu lệnh, một phụng hành thực hiện các hiệu lệnh đó.
“Đồng” (Concurrently) có hai cách giải thích:
Một là kiêm đồng, tức nói một người kiêm hai chức Tả - Hữu Thừa tướng, “Trung thư” là Thừa tướng, “Môn hạ” lại là Thừa tướng, một người kiêm cả hai chức Tả Hữu Thừa tướng, nên gọi là đồng Trung thư Môn hạ. Cách giải thích khác có nghĩa là đồng liêu với Trung thư, Môn hạ; Đồng liêu là đồng đẳng, cùng chung làm việc.
Bình chương sự: “Bình” là bình quân; “Chương” là rõ rệt, sáng rõ. Làm sáng tỏ các việc này, chính là đối với tất cả công việc của triều đình cần phải bình quân. “Sự” là sự vụ, có nghĩa là các chức vụ. “Bình chương sự” là công bằng xử lý chánh sự, làm sáng rõ pháp độ.
Thanh Hà Phòng Dung: “Thanh Hà” là tên của một địa phương, cũng chính là quê hương của Phòng Dung. “Phòng Dung” là tên người, họ Phòng tên Dung, Dung có nghĩa là viên dung, có con Phòng Quản, hai cha con đều làm quan đến chức Thừa tướng, sự tích về Phòng Dung rất ít, phần nhiều là được ghi từ trong ký sự của người con Phòng Quản.
“Bút thọ” là dùng văn bút nhuận sắc ý của kinh văn, gọi là người nhuận văn. Nhuận chính là làm cho chương cú ngữ pháp, văn lý, từ nghĩa tốt đẹp tuyệt diệu hơn. Nên kinh Lăng Nghiêm cách hành văn dùng từ đều rất ưu mỹ, có thể xưng tán bậc nhất trong các kinh, không kinh nào hơn được? tại sao vậy? Vì Thừa tướng Phòng Dung là một nhà văn học vĩ đại, rất có học vấn, do chính ông ta nhuận sắc kinh này, nên văn chương của bộ kinh này rất hay. Quý vị nếu có chí học Trung văn thì bộ kinh này cũng đủ làm quy phạm cho quý vị. Quý vị đọc nhuyễn, đọc thuộc, thì tiếng Hoa của quý vị sẽ khá, sẽ nâng cao trình độ. Người Trung Quốc chưa đọc được văn chương của bộ kinh này nhiều không biết bao nhiêu.
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong buổi tọa đàm về chủ đề “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 8 tháng 6 năm 1987.
Quý vị nhìn chỗ này, phía trước có ba vị pháp sư, phía sau có một vị cư sĩ; vị cư sĩ này đáng lẽ phải để trước vị pháp sư “Chứng dịch”, nhưng vì vị ấy là cư sĩ, cho nên để vị ấy ra phía sau. Pháp sư Hoài Địch là vị chứng dịch đương thời, Ngài không nhất định hiểu tiếng Phạn, nhưng Ngài chứng minh tiếng Trung được phiên dịch ra, ý nghĩa đều hoàn toàn chính xác, vì thế nói Ngài là “Chứng Dịch”. Vậy thì bốn người có thể dùng “bốn bước” phiên dịch chúng ta để thuyết minh.
1. Phiên dịch: Đây là “Sơ dịch”, cũng là bản thảo.
2. Dịch ngữ: là sửa chữa.
3. Bút thọ: cũng chính là nhuận sắc.
4. Chứng dịch: cũng chính là chứng ngữ
Điều này rất phù hợp với bốn bước phiên dịch của chúng ta hiện nay.
Quý vị không biết có nhìn thấy chỗ này không? Tại sao “Phòng Dung bút thọ?” Vì Phòng Dung là một nhà văn học rất có học vấn thời đó, cũng là một vị quan cao quyền quý, có địa vị, lại có học vấn, lại tin Phật pháp, vì vậy, ông lại phát tâm cùng nghiên cứu Phật pháp. Vấn đề ở đây không phải nói đáng tin hay không đáng tin, hoặc có thể nương tựa hay không nương tựa, đó chính là ông ta là một người tin tưởng Phật giáo, học vấn giỏi, lại là người có quyền cao chức trọng thời đó. Cho nên nếu phiên dịch kinh điển, cũng cần có sự ủng hộ của chính phủ quốc gia, mới có thể hoàn thành. Dường như lúc đó có mấy trăm người, mấy ngàn người phiên dịch kinh điển, nếu không có sức mạnh của quốc gia, thì không ai có thể làm được.
Chúng ta hiện nay ở phương Tây phiên kịch kinh điển, đây là một việc mới bắt đầu, là bước đầu tiên; tương lai nếu có sức mạnh lớn, có đại thiện trí thức, thì sẽ có rất nhiều người cùng nhau làm việc này, không phải quy mô nhỏ như hiện nay vậy. Mọi người đối việc này cần phải nhận biết rõ ràng! Cho nên “Lịch minh truyền dịch” có bốn bước, có bốn người, quý vị cần phải biết.
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết
Thập: Biệt Giải Văn Nghĩa
MỤC LỤC
QUYỂN THỨ NHẤT
(KINH TIỀN HUYỀN ĐÀM)
Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh.
KINH TIỀN HUYỀN ĐÀM..
Kinh Lăng Nghiêm là chân thân của Đức Phật
Kinh Lăng Nghiêm tồn tại, Phật Pháp sẽ tồn tại
Kính chiếu yêu, chày hàng ma, kiếm chém ma của Phật Giáo
Đa tầng học tập Kinh Lăng Nghiêm..
Lời tựa của ban biên tập.
Hình ảnh.
Kinh Tiền Huyền Đàm..
Mười môn phân biệt
Nhất: Tổng Thích Danh Đề.
I. Thất chủng lập đề: bảy loại đặt tên kinh.
II. Thích Đại Phật Đảnh.
III. Thích Như Lai Mật Nhân.
IV. Thích Tu Chứng Liễu Nghĩa.
V. Thích Chư Bồ Tát Vạn Hạnh.
VI. Thích Thủ Lăng Nghiêm..
VII. Thích Kinh.
Nhị: Giáo Khởi Nhân Duyên.
I. Tổng nhân duyên.
II. Biệt Nhân Duyên.
1. Nhân duyên thứ nhất là: “Thị đa văn, hốt định lực”
2. Nhân duyên thứ hai là: “Cảnh cuồng huệ, hộ tà tư”
3. Nhân duyên thứ ba là: “Chỉ chân tâm, hiển căn tánh”
4. Nhân duyên thứ tư là: “Thị tánh định, khuyên thật chứng”
5. Nhân duyên thứ năm là: “Tiêu đảo tưởng, trừ tế hoặc”
6. Nhân duyên thứ sáu “Minh nhị môn, lợi kim hậu”
Tam: Tạng Thừa Nhiếp Thuộc.
Tứ: Nghĩa Lý Thâm Thiển.
Ngũ: Năng Thuyên Giáo Thể.
Lục: Sở Bị Cơ Nghi
Thất: Tông Thú Thông Biệt
Bát: Thuyết Thời Tiền Hậu.
Cửu: Lịch Minh Truyền Dịch.
Thập: Biệt Giải Văn Nghĩa.
[1][1]. Hành giải : gọi chung Hành và Giải. Hành có nghĩa là tu hành, tức y theo giáo lý mà tự thân thực hành ; Tri là tri giải, trí giải, nhận thức, tức do thấy nghe học tập mà hiểu rõ lãnh hội giáo lý。Do thấy nghe học tập mà hiểu rõ lãnh hội giáo lý, từ đó thực hành theo những giáo lý đã hiểu. Hiểu chân lý và tu hành là hành giải tương ưng, hành giải cụ túc, khai giải lập hành. Giải và hành ví dụ như hai cánh của con chim, như hai bánh của chiếc xe, thiếu một không được, cũng là y giải mà khởi hành, y hành mà thực giải. Giải và hành đều là pháp môn căn bổn của người học đạo, nên chia thành giải học và hành học.
[2][2]. Đệ nhất Triền đà la ni : trong 3 thứ đà la ni mà trong Kinh Pháp hoa Phẩm Phổ Hiền khuyến phát có đề cập đến. Tức triền chuyển tâm phàm phu chấp trước chư pháp hữu tướng, khiến cho đạt trí lực lý không, bình đẳng không.
KINH TIỀN HUYỀN ĐÀM
Kinh Lăng Nghiêm là chân thân của Đức Phật
Trong Phật giáo có rất nhiều bộ kinh vô cùng quan trọng, nhưng bộ Kinh quan trọng nhất chính là Kinh Lăng Nghiêm. Chỗ nào có kinh Lăng Nghiêm, chỗ đó có chánh pháp tồn tại; Kinh Lăng Nghiêm không còn, thì thời Mạt pháp liền hiện ra trước mắt. Vì thế chúng ta mỗi một Phật giáo đồ, cần phải đem hết tất cả sức lực của mình, đem máu của mình ra, đem mồ hôi của mình ra để ủng hộ bộ Kinh Lăng Nghiêm này.
Kinh Pháp Diệt Tận nói: “Thời mạt pháp, kinh Lăng Nghiêm diệt trước. Các kinh điển khác, lần lượt mới diệt sau”. Nếu kinh Lăng Nghiêm không diệt, lúc đó chánh pháp sẽ hiện ra trước mắt. Vì thế chúng ta là Phật giáo đồ, cần phải lấy sanh mạng của mình để hộ trì kinh Lăng Nghiêm, lấy máu của mình, lấy mồ hôi của mình để hộ trì Kinh Lăng Nghiêm, đem hết sức lực khả năng hộ trì kinh Lăng Nghiêm, lấy chí nguyện của mình hộ trì kinh Lăng Nghiêm, khiến cho kinh Lăng Nghiêm phát huy rộng lớn, lưu thông trong từng mỗi hạt vi trần, lưu thông cho đến mọi nơi trên thế giới, cùng tận hư không khắp pháp giới. Nếu được như vậy, hào quang chánh pháp có thể soi sáng khắp mọi nơi.
Tại sao kinh Lăng Nghiêm diệt trước? Vì kinh này giảng giải đạo lý rất xác thực! Kinh Lăng Nghiêm là chân thân của Đức Phật, Kinh Lăng Nghiêm là xá lợi của Đức Phật, Kinh Lăng Nghiêm chính là chùa tháp chân chánh của Đức Phật! Vì Kinh Lăng Nghiêm chân thực như thế, nên tất cả ma vương đều dùng đủ cách để phá hoại, huỷ diệt Kinh Lăng Nghiêm, Đầu tiên tạo ra lời đồn xuyên tạc, nói kinh Lăng Nghiêm không phải từ kim khẩu Phật thuyết ra, mà do người đời nguỵ tạo. Tại sao họ nói Kinh Lăng Nghiêm là giả? Đó vì Kinh Lăng Nghiêm nói ra đạo lý quá chân thực. Nhất là 4 loại thanh tịnh minh hối, hai mươi lăm bậc Thánh thuật lại sự tu hành viên thông của mình, năm mươi cảnh giới ấm ma. Đó là những điều làm cho bàng môn ngoại đạo yêu ma quỷ quái không chịu nỗi, vì thế có một số người vô tri nói rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả, là nguỵ tạo.
Những đạo lý do Kinh Lăng Nghiêm nói ra vừa chính xác vừa hợp lý, yêu ma, quỷ quái, bàng môn, tả đạo đều hiện nguyên hình, không chỗ ẩn núp. Một số người vô tri, nhất là những vị học giả vô trí, giáo đồ ngu xuẩn, không nhận thức được Phật giáo, không hiểu rõ Phật học, đã đánh giá sai lầm lời dạy của bậc Thánh. Sự hiểu biết của họ rất hồ đồ, không có học thức, không có trí tuệ chơn chánh, nên mới có sự phê bình sai lầm như vậy. Chúng ta là những người học Phật Pháp cần phải hiểu rõ sâu sắc về Kinh Lăng Nghiêm, cho nên chúng ta cần phải đề xướng Kinh Lăng Nghiêm, chúng ta cần phải tuyên dương giảng thuyết Kinh Lăng Nghiêm, chúng ta cần phải giảng giải bộ Kinh Lăng Nghiêm này cho mọi người khắp nơi khắp chốn. Tại sao vậy? Vì chúng ta muốn chánh pháp tồn tại lâu dài ở thế gian.
Nay tôi cam đoan với quý vị, cam đoan Kinh Lăng Nghiêm này chắc chắn là chân kinh! Nếu Kinh Lăng Nghiêm là thật thì tức nhiên không có vấn đề gì, nếu Kinh Lăng Nghiêm là giả, tôi nguyện vĩnh viễn đoạ vào địa ngục, vì tôi không nhận thức được Phật Pháp, lấy giả làm thực. Nếu Kinh Lăng Nghiêm là chân thực thì tôi nguyện đời đời kiếp hoằng dương đại pháp Lăng Nghiêm, thời nào, chỗ nào tôi đều phải hoằng dương chân lý Lăng Nghiêm. Điều này quý vị cần phải chú ý, nếu Kinh Lăng Nghiêm không phải do Đức Phật nói ra thì không ai có thể nói ra được, cho nên chỉ có những người vô trí mới phê bình một cách sai lầm như vậy, mong rằng những người này mau chóng tỉnh ngộ, không nên tạo cái nhân khổ, tạo cái nhân cắt lưỡi đoạ địa ngục. Bất luận vị học giả nào, người học Phật Pháp ở quốc gia nào, phải lập tức sám hối sửa đổi lỗi lầm, bản thân mình sai lầm mà biết sửa đổi thì không có điều thiện nào lớn hơn. Cuối cùng tôi cầu chúc cho những người đọc Kinh Lăng Nghiêm, những người nghe được Kinh Lăng Nghiêm, những người nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm đều sớm thành Phật đạo.
Kinh Lăng Nghiêm tồn tại, Phật Pháp sẽ tồn tại
Tuyên Hóa Thượng Nhân - tháng 1 năm 1983
Kinh Lăng Nghiêm là một bộ Kinh quan trọng, là kính chiếu yêu trong Phật giáo, tất cả tà ma, ngoại đạo, li mị, võng lượng vừa nhìn thấy Kinh Lăng Nghiêm đều hiện nguyên hình, không chỗ ẩn núp, không có chỗ nào mà chạy cho khỏi. Vì thế thời quá khứ, đại sư Trí Giả nghe nói có bộ kinh như thế, bèn hướng về Ấn Độ hàng ngày lễ bái, lễ bái hơn 18 năm, dùng 18 năm với tâm chí thành cần cầu khẩn thiết như thế. Các vị Cao Tăng đại đức xưa kia, tất cả những vị Cao Tăng có trí tuệ không ai mà không tán thán Kinh Lăng Nghiêm. Vì thế Kinh Lăng Nghiêm tồn tại Phật Pháp sẽ tồn tại; nếu Kinh Lăng Nghiêm hủy diệt Phật Pháp sẽ bị hủy diệt.
Mạt pháp là như thế nào? Mạt pháp là Kinh Lăng Nghiêm bị hủy diệt trước. Ai là người hủy diệt Kinh Lăng Nghiêm? Chính là thiên ma ngoại đạo, những thiên ma ngoại đạo này vừa nhìn thấy Kinh Lăng Nghiêm thì giống như đinh trong mắt, gai trong thịt vậy, ngồi cũng ngồi không yên, đứng không vững, vì thế thiên ma ngoại đạo cần phải đưa ra một tà thuyết nói Kinh Lăng Nghiêm là giả. Chúng ta là Phật giáo đồ cần phải nhận thức chân lý, những đạo lý mà Kinh Lăng Nghiêm nói đến, mỗi một chữ đều là chân kinh, chân điển, không có một chữ nào mà không nói về chân lý. Cho nên chúng ta hiện nay nghiên cứu về 50 loại ấm ma, càng phải hiểu rõ hơn sự quan trọng của Kinh Lăng Nghiêm, những tà ma yêu quái sợ nhất chính là Kinh Lăng Nghiêm.
Lão Hòa thượng Hư Vân thọ 120 tuổi, suốt cuộc đời của Ngài, không có chú giải kinh điển nào khác, chỉ có chú giải bộ Kinh Lăng Nghiêm này. Bản thảo chú giải Kinh Lăng Nghiêm, Ngài giữ gìn rất cẩn thận, giữ gìn hơn 10 năm, sau đó vì sự biến Vân Môn mà bị mất đi. Đây là việc di hận nhất trong suốt cuộc đời của Hòa thượng Hư Vân. Ngài chủ trương những người xuất gia đều cần phải thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm, học thuộc từ đầu cho đến cuối, từ cuối tụng thuộc cho đến trước, đọc ngược đọc xuôi, ngược xuôi đều có thể tụng đọc thuộc lòng. Đó là chủ trương của Ngài, nên tôi biết Hòa Thượng Hư Vân rất đặc biệt xem trọng Kinh Lăng Nghiêm.
Có người nhắc đến lão Hòa Thượng Hư Vân đã từng nói: “ Kinh Lăng Nghiêm có người cho là giả, là ngụy tạo”. Lão Hòa Thượng nói: “ Tại sao gọi là mạt pháp? Vì có một số người đã làm cho vàng thau lẫn lộn, không phân biệt đúng sai, nói ra những điều làm mê lầm người, làm mờ mắt người, khiến cho người không nhận thức được rõ ràng Phật Pháp. Số người này cho chân thực là giả tạo; giả tạo họ cho là chân thực. Quý vị nhìn xem những người này, người đó viết một quyển sách, họ cũng cầm lên xem, người kia viết một quyển sách, họ cũng cầm lên xem, nhưng những Kinh Điển thật sự do Đức Phật thuyết ra thì họ lại bỏ vào trong tủ sách, mãi không xem đến. Nên đây có thể nhìn thấy nghiệp chướng của chúng sanh rất nặng, nếu nghe các thứ tà tri tà kiến lại rất tin tưởng. Ông giảng pháp chánh tri chánh kiến, thì họ lại không tin, tại sao vậy? Đó là vì thiện căn không đủ, căn cơ không đủ, cho nên đối với chánh pháp có tâm hoài nghi, không tin tưởng.
Tại Vạn Phật Thành của chúng ta, cần phải thành lập đạo tràng Lăng Nghiêm, tốt nhất ai phát tâm hàng ngày đọc tụng Kinh Lăng Nghiêm, hoặc là một giờ hoặc là hai giờ, có thể đọc như là đọc sách, có thể ghi nhớ và tốt hơn nữa là có thể học thuộc lòng. Các bộ Kinh Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, thậm chí Kinh Hoa Nghiêm đều có thể đọc tụng thuộc lòng. Ai có thể thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm thì là lúc chánh pháp vẫn còn tồn tại trên thế giới này. Vì thế Vạn Phật Thành của chúng ta là một chỗ tốt đẹp như thế, mọi người cần phải phát đại Bồ đề tâm làm một số công việc, không phải nói chúng ta và người thi đua mà chúng ta cần phải làm một số công việc vượt trội hơn mọi người, tốt đẹp hơn mọi người.
Trước kia tôi có tâm nguyện như thế, muốn học thuộc lòng Kinh Pháp Hoa rồi lại học thuộc Kinh Lăng Nghiêm. Ở Hương Cảng có một vị đệ tử có thể thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm, tôi dạy người đó học Kinh Pháp Hoa, cuối cùng người này chưa hoàn toàn thuộc lòng, đây là điều rất đáng tiếc. Chỗ của chúng ta tốt như vậy, mọi người cần phải phát đại tâm, thuộc lòng Kinh Phật và giới luật - Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Tứ Phần Luật, Phạm Võng Kinh đều phải thuộc lòng, đây là việc làm tốt nhất, được như thế chỗ của chúng ta chánh pháp chắc chắn sẽ tồn tại lâu dài.
Kính chiếu yêu, chày hàng ma,
kiếm chém ma của Phật Giáo
Tuyên Hóa Thượng Nhân khai thị năm 1974 tại Việt Nam
Tôi hôm nay giảng về vấn đề này, chúng ta cần phải nghiên cứu một bộ kinh điển, bộ kinh điển này chính là kính chiếu yêu của Phật giáo, chày hàng ma của Phật giáo, kiếm chém ma của Phật giáo! Đó là bộ kinh điển nào? Chính là Kinh Lăng Nghiêm. Kinh Lăng Nghiêm là một bộ Kinh khai mở trí tuệ, nhưng bộ Kinh này đang gặp phải sự kỳ thị của các học giả tại các nước trên thế giới. Tại sao nói như vậy? Họ nói bộ Kinh này là giả không phải là thật.
Tại sao họ nói bộ kinh này là giả? Chúng ta tại sao cần phải nghiên cứu bộ Kinh này? Vì bộ kinh này rất có giá trị, bộ kinh này rất có giá trị nghiên cứu. Bộ kinh này nói ra tất cả tà tri tà kiến của bàng môn ngoại đạo, nói rất rõ ràng những tà tri tà kiến không hợp với Phật pháp, vì thế bộ kinh này là một bảo kính chiếu yêu, cũng tức là chày hàng ma, kiếm chém ma! Vậy thì bộ kinh điển này nếu mọi người đều hiểu rõ, thì thiên ma ngoại đạo tự nhiên không còn nữa, thế giới này chiến tranh cũng sẽ ngừng lại, tất cả nhân loại đều được sự an ổn, cho nên bộ kinh này rất quan trọng!
Thanh niên hiện nay cần phải nỗ lực nghiên cứu Phật học; nghiên cứu Phật học là nghiên cứu cái gì? Tôi chủ trương các vị đều phải tận tâm tận lực nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm. Kinh Lăng Nghiêm là một bộ Kinh khai mở trí tuệ, quý vị nếu có thể hiểu được Kinh Lăng Nghiêm, thì tất cả Phật học đều có thể thông suốt, nhất là Chú Lăng Nghiêm là một loại chú bất khả tư nghì. Vị cư sĩ Quân Trọng này thường nghĩ cái này, tuởng cái kia, bất luận sự việc gì cũng đều suy nghĩ vọng tưởng rất nhiều. Nhưng mà Chú Lăng Nghiêm này quý vị nhất định sẽ suy nghĩ không hết, suy nghĩ như thế nào cũng không thông. Tại sao vậy? Vì chú Lăng Nghiêm có một sức mạnh bất khả tư nghì. Chú Lăng Nghiêm trong Phật giáo gọi là linh văn. Sao gọi là linh văn? Vì vi diệu nhiệm mầu không thể dùng lời để nói, nói suốt đời cũng không hết. Mỗi một người của chúng ta nếu có thể thuộc lòng chú Lăng Nghiêm, thì có tám vạn bốn ngàn Bồ Tát Kim Cang Tạng thường đến bảo hộ. Chú Lăng Nghiêm là chú mầu diệu nhất, một loại Chú dài nhất trong các loại Chú, Chú Lăng Nghiêm có khoảng hơn 2320 chữ. Này các vị thanh niên! Các con cần phải phát tâm học tập kinh Lăng Nghiêm, đọc tụng Kinh Lăng Nghiêm, nếu có thể thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm, thì nên thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm, như thế căn bản Phật học của các con đã vững chắc.
Tín chúng: Pháp sư dạy mọi người không những cần phải xem Kinh Lăng Nghiêm, mà còn cần phải học thuộc Kinh Lăng Nghiêm. Xin hỏi trong Kinh Lăng Nghiêm giảng những gì? Tại sao chúng con cần phải xem, phải đọc; không đọc không được sao?
Thượng nhân: Quý vị muốn biết trong Kinh Lăng Nghiêm giảng những gì, thì quý vị cần phải nên đọc, nếu không muốn biết thì vấn đề này không cần phải hỏi.
Tín chúng: Tại sao Pháp sư không giới thiệu Kinh Kim Cang? Giống như Lục Tổ Đại Sư do nghe Kinh Kim Cang mà giác ngộ. Tại sao không giới thiệu Lục Tổ Đàn Kinh vì quyển Kinh đó giới thiệu tâm đắc ngộ đạo của Lục Tổ Đại Sư. Tại sao Pháp sư chỉ giới thiệu bộ Kinh Lăng Nghiêm này mà thôi?
Thượng nhân: Sự quan trọng của Kinh Lăng Nghiêm tối hôm qua đã giảng qua. Khi Phật Pháp không còn là do Kinh Lăng Nghiêm trước đó đã bị huỷ diệt, nếu Kinh Lăng Nghiêm không còn thì yêu ma quỷ quái trên thế giới này đều xuất hiện. Vì trên thế gian này có ngũ đại ma quân, trong Kinh Lăng Nghiêm có Chú Lăng Nghiêm. Trong chú Lăng Nghiêm có năm bộ, năm bộ này là quản các ma quân trên thế giới, nếu như không có người đọc tụng Chú Lăng Nghiêm thì thế giới này sẽ bị huỷ hoại, điều đó không thể suy lường được, những yêu ma quỷ quái đều sẽ xuất hiện. Hiện nay những yêu ma quỷ quái sở dĩ không để cho quý vị thấy, không để cho quý vị nghe, không dám xuất hiện chính vì có Chú Lăng Nghiêm ở trên thế giới này; chỗ nào có người biết đọc Chú Lăng Nghiêm thì yêu ma quỷ quái đều không dám xuất hiện trước mắt!
Tín chúng: Kính bạch Pháp sư tiếng Quảng Đông nói Hạ giáng đầu, vậy xin hỏi có loại Cổ độc không? Tại sao có rất nhiều người bản thân đã trải qua vấn đề này? Chúng con là những người học Phật đối với quan niệm Cổ độc này phải như thế nào? Tại sao cho phép loại tà ác đó tồn tại?
Thượng Nhân: Ở trên thế gian này, trăm ngàn việc kỳ dị quái lạ; việc gì cũng đều có; trời đất rộng lớn, bốn biển bao la, không có việc kỳ lạ gì mà không có, nhưng có thể tổng quát lại, mỗi người chúng ta cần phải giữ chánh tâm, tu thân, trị quốc, bình thiên hạ, tâm chúng ta chánh thì bàng môn ngoại đạo gì đó cũng không làm gì được. Quý vị sở dĩ bị người ta giáng đầu, chính là trong tâm của mình trước không chánh đáng mới bị các thứ tà ma nhiễu loạn, nếu tâm của mình chánh thì tà không thể thắng chánh, Giáng đầu nào cũng không có linh nghiệm.
Nhất là tôi vừa đề nghị các vị đọc tụng Kinh Lăng Nghiêm, đọc tụng Chú Lăng Nghiêm, nếu quý vị có thể thuộc lòng chú Lăng Nghiêm, thì Giáng đầu nào cũng không có công dụng gì cả, cũng không có ích dụng gì cả, Chú Lăng Nghiêm này có thể phá tất cả lưới võng của ma, có thể phá tất cả pháp thuật của bàng môn ngoại đạo, trong đó sức mạnh của chú Lăng Nghiêm không thể suy nghĩ đến được. Nếu quý vị không muốn bị Giáng đầu nhiễu loạn thì nên đọc tụng Chú Lăng Nghiêm, tôi không phải vừa nói qua sao? Ai có thể thành tâm đọc tụng Chú Lăng Nghiêm thì có tám vạn bốn ngàn Bồ tát Kim Cang Tạng đến ủng hộ.
Tín chúng: Xin hỏi chúng con khi nào đọc tụng Chú Lăng Nghiêm?
Thượng Nhân: Không phải lúc nào lễ Phật mới đọc tụng Chú Lăng Nghiêm, mà bình thường khi đi đứng nằm ngồi đều có thể trì Chú Lăng Nghiêm. Quý vị trì chú Lăng Nghiêm thì sẽ không có các tạp niệm khác, giống như quý vị niệm Bồ Tát Quán Âm thì sẽ không còn tạp niệm, quý vị trì tụng Chú Lăng Nghiêm cũng chính là khiến cho mình được tam muội, tam muội tức là chánh định, chánh thọ, cũng khiến cho tâm không tán loạn, không có nhiều tạp niệm nữa.
Tín chúng: Chúng con không biết niệm Chú Lăng Nghiêm, nhưng chúng con biết niệm chú Đại Bi và Thập chú, cũng là bao hàm ở trong Chú Lăng Nghiêm.
Thượng nhân: Chú Đại Bi và Thập Chú tuy là một phần trong thời khóa buổi khuya, nhưng không thuộc về Chú Lăng Nghiêm. Chú Lăng Nghiêm tức là năm hội, năm hội có năm bộ, gồm có Phật bộ, Liên Hoa bộ, Bảo Sanh bộ, Kim Cang bộ, Yết Ma bộ. Năm bộ này quản lý năm phương.
Quý vị nói không biết, không biết thì học từ từ, bất luận người nào, không có ai sanh ra đã biết niệm Chú Lăng Nghiêm; sanh ra đã biết niệm Chú Lăng Nghiêm đó chính là Bồ tát rồi, cho nên không biết cần phải học. Chứ không thể nói “con không biết” rồi không học. Quý vị đi học, vì quý vị chưa có tốt nghiệp quý vị mới đi học; nếu nói: “Con không đi học” mà muốn tốt nghiệp thì không thể được.
Đa tầng học tập Kinh Lăng Nghiêm
Thích Hằng Trì - tháng 10 năm 2008 tại Úc Châu
Một ngày vào năm 1968, Thượng nhân Tuyên Hóa thăng tòa thuyết pháp, khai giảng bộ Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm, từ đó Kinh Lăng Nghiêm đã trở thành tiêu điểm, còn các thứ khác thì đã trở thành thứ yếu.
Còn tôi đối với Phật giáo và Trung văn không biết gì cả, và cũng từ đó bị hấp dẫn một cách sâu sắc. Tôi lắng nghe Thượng nhân đọc tụng chậm chậm một đoạn Kinh văn rồi sau đó giải thích nghĩa lý ở trong một cách sinh động. Sư phụ tài tình vi diệu mà rất trân trọng giải thích bằng tiếng Trung, truyền đạt những tính cách từ bi nhu hòa của Ngài, lại thêm những sự hài hước không ngờ, cùng với sự phát huy nhạy bén đối với thính chúng, tính chất đặc biệt này đã siêu việt lên chướng ngại của ngôn ngữ.
Nhưng mà cho đến khi bắt đầu phiên dịch tiếng Anh, lại nghe âm thanh của Sư Phụ tôi mới thật sự lãnh ngộ được hàm ý, mà cùng với trí tuệ tiềm tàng phát sanh đồng cảm, do đó mà được nghe được chút giáo lý. Tôi cẩn thận ghi chép trên quyển vở: Đại Phật Đỉnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm.
Như thế, Thượng nhân bắt đầu dạy dỗ cho người phương Tây chúng tôi về Phật pháp. Ngài không sợ gian nan, mà chọn một bộ Kinh điển Đại Thừa nghĩa lý thâm sâu huyền diệu để mở mang trí óc còn mông muội cho chúng tôi. Ngài giảng dạy rất tích cực, không có một chút nào qua loa lơ là. Ngài mạnh dạn giả thiết chúng tôi có năng lực rất tốt để học tiếng Trung - Kinh Phật bằng văn ngôn cùng với văn Bạch Thoại của Ngài giải thích sơ lược và hoàn toàn có thể lãnh ngộ nghĩa lý thâm sâu huyền diệu trong lời tuyên thị của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong bộ Kinh đặc biệt này, và cũng có thể tự thân mình thực hành. Ví dụ trong thời gian này có những người Mỹ bắt đầu ăn chay và ăn một bữa, tôi cũng là một trong số người đó. Đối với một người Mỹ từ nhỏ đã quen với thức ăn người Mỹ, thật là một điều không dễ dàng, Thượng nhân và sức mạnh của bộ Kinh Lăng Nghiêm đã giúp đỡ chúng tôi thành trưởng.
Không chỉ Thượng nhân đối với chúng tôi có sự hy vọng như thế, mà chúng tôi cũng bắt đầu có sự kỳ vọng vào bản thân của mình. Khi chúng tôi học đến đoạn Kinh văn dưới đây:
Như nhân dĩ biểu, biểu vi trung thời, đông khán tắc nam, nam quán thành bắc. Biểu thể ký hỗn, tâm ưng tạp loạn.
Ví như có người dùng tiêu chí, ký hiệu chính giữa, từ phương Đông nhìn qua thì cho tiêu chí ở phương Tây, nhìn từ phương Nam thì cho tiêu chí ở phương Bắc. Thể tiêu chí đã lẫn lộn, thì tâm cũng thành tạp loạn.
Thật giống như chúng tôi vậy, là những người sơ học không có trình độ Trung văn nào – đã có thể nhận biết được các chữ Hán đơn giản như “nhân”, “trung” (人、中),… điều này đã khích lệ chúng tôi đưa ra càng ngày càng nhiều câu hỏi, nhất là thường hỏi các vị đồng tham học giả hướng dẫn mọi người ôn tập hàng ngày, ví dụ tiếng Anh phiên dịch như thế nào, thì đối ứng với tiếng Trung – như có thể được, thì từng chữ đối chiếu giải thích, làm sao có thể sử dụng từ điển Hán-Anh; những gì là thuật ngữ Phật học, đương nhiên cũng hỏi đến nguyên câu là có ý nghĩa như thế nào.
Ý nghĩa của đoạn Kinh văn này là giả như có người dùng một tiêu chí để biểu thị “chính giữa”, ở phía Đông của chính giữa này nhìn, thì “chính giữa” này sẽ biến thành phương Tây, ở phía Nam của “chính giữa” này nhìn thì chính giữa này sẽ biến thành phương Bắc, như thế tiêu chí biểu thị sẽ hàm hồ không rõ ràng. Những đạo lý như thế nói tâm tại chính giữa, ở trong. Ý nghĩa này đã mơ hồ không rõ ràng.
Từ đoạn Kinh văn cùng với lời giải thích ở trên, chúng tôi không chỉ học được từ mới “biểu”. Chữ này khi dùng danh từ, thì có ý nghĩa là ký hiệu; khi dùng như động từ thì có ý nghĩa là tiêu chí. Đồng thời chúng tôi cũng học đến chữ “tâm”, từ xưa đến nay chúng tôi mãi giả định là ở trong thân của mình, không phải giống như sự tin tưởng kiên định của chúng tôi, là được đặt ở trong một chỗ của phương tiện nào đó.
Khi Thượng nhân giảng đến:
Phật ngôn: Đại vương, nhữ diện tuy trứu, nhi thử kiến tinh, tánh vị tằng trứu, trứu giả vi biến, bất trứu phi biến. Biến giả thọ diệt, bỉ bất biến giả, nguyên vô sanh diệt. Vân hà ư trung, thọ nhữ sanh tử ?
Phật nói: Đại vương ! Mặt ông tuy nhăn, mà cái tánh của kiến tinh kia chưa từng nhăn, có nhăn là biến hoại, không nhăn thì không thay đổi. Cái thay đổi ắt phải diệt, cái không thay đổi kia, vốn không sanh không diệt. Làm sao trong đó thọ chịu cái sanh tử của ông?
Chúng tôi cũng giống như vua Ba Tư Nặc vậy, đã học được một bài pháp quan trọng - tự tánh của chúng ta là không sanh không diệt. Tiếng Anh phiên dịch rất rõ ràng, đã chuyển đạt được ý nghĩa này: Đức Phật nói Đại vương mặt của ông tuy nhăn, nhưng mà kiến tinh của ông sẽ không nhăn, nhăn thì sẽ thay đổi, không nhăn thì không thay đổi, thay đổi thì sẽ diệt; những thứ không thay đổi thì sẽ không có sanh diệt. Như vậy, kiến tinh này thì làm sao có thể nhận chịu sự sanh diệt giống như thân thể của ông vậy?
Ngoài ra khi Thượng nhân tụng niệm Kinh văn, chúng tôi có thể dùng ngón tay chỉ theo lời Kinh cùng theo nhịp điệu, và rất vui mừng chúng tôi biết được rất nhiều chữ Hán đơn giản ví dụ như: ngôn, đại vương, sanh tử.
Đúng rồi, chúng tôi nhớ có một ngày, khi Thượng nhân đọc đến:
Nhược kiến thị vật, tắc nhữ diệc khả kiến ngô chi kiến. Nhược đồng kiến giả, danh vi kiến ngô, ngô bất kiến thời, hà bất kiến ngô, bất kiến chi xứ ? Nhược kiến bất kiến, tự nhiên phi bỉ, bất kiến chi tướng, nhược bất kiến ngô, bất kiến chi địa, tự nhiên phi vật, vân hà phi nhữ ?
Nếu cái thấy là vật thì ông cũng có thể thấy cái thấy của ta. Nếu cùng thấy gọi là thấy cái thấy của Ta, thì lúc Ta không thấy, sao ông không thấy chỗ không thấy của Ta ?Nếu thấy được cái không thấy của Ta thì không phải cái tướng không thấy; nếu không thấy được chỗ không thấy của Ta, thì kiến tinh tự nhiên không phải là vật, tại sao không phải là ông ?
Ngón tay của chúng tôi lướt qua từng hàng chữ, và đã nhận ra được 12 chữ kiến, khi làm động từ thì có nghĩa là nhìn thấy, khi làm danh từ thì có nghĩa là cái thấy, năm chữ “ngô”, đây là văn văn ngôn, có nghĩa là “ta” và “của ta”, và còn có 2 chữ “nhữ”cũng là văn ngôn có nghĩa là “bạn”, hoặc có nghĩa là “của bạn”.
Mặc dù thông qua sự phiên dịch của Anh văn, tôi cũng không hiểu rõ lắm ý nghĩa của đoạn Kinh văn nay; nhưng đã khích lệ tôi phải siêng năng cần mẫn học tập tiếng Trung.
Đoạn Kinh văn được phiên dịch hơi mới như sau: Nếu kiến tánh là vật thể giống như những vật khác, thì ông có thể nhìn thấy cái thấy của tôi hay không? Nếu như ông nói khi mà chúng ta cùng nhìn thấy một vật, ông nhìn thấy kiến tánh của tôi. Vậy thì khi tôi không nhìn thấy, ông cũng nên nhìn thấy cái thấy “tôi không nhìn thấy”, tại sao ông không nhìn thấy? Dù ông nhìn thấy được chỗ tôi “không thấy”, nhưng không nhất định là ông nhìn thấy cái tướng “không nhìn thấy” của tôi. Ông đã không nhìn thấy chỗ tôi không thấy, cái tướng không thấy đó, thì “cái thấy” này tự nhiên không phải là một vật thể. Vì thế ông làm sao có thể nói rằng “cái thấy” này không phải là của ông.
Chúng tôi hàng ngày chuyên tâm chú ý nghe Thượng nhân giảng Kinh, sau đó khi đi, khi ăn, khi ngủ đều ôn tập những gì mình đã học, cứ như thế, mùa hè ba tháng giảng giải Kinh Lăng Nghiêm đã nhanh chóng trôi qua. Chúng tôi nghiên cứu nghĩa lý, làm quen với thuật ngữ, đã đạt được sức quan sát thấu rõ mới, đồng thời bắt đầu bắt tay thực hành những gì mình đã học, ngồi thiền và suy tư; đến cuối cùng cách đây không bao lâu, chúng tôi dần dần quen thuộc từng chữ từng chữ, hiểu rõ được thuật ngữ của Phật giáo tiếng Trung.
Khi mùa hạ gần hết, Thượng nhân cũng sắp giảng xong bộ Kinh này, chúng tôi thật sự ý thức đến Kinh Lăng Nghiêm là một pháp thí vô cùng to lớn, Kinh Lăng Nghiêm đã trả lời vô cùng chính xác, rõ ràng một số vấn đề: chúng tôi là ai, chúng tôi sao đến đây, chúng tôi nay phải làm cái gì, chúng tôi vì sao phải tu hành, chỗ nào là chỗ quay trở về thật sự của chúng tôi, lại nữa tất cả khi nào bắt đầu, và khi nào kết thúc.
Chương tiết cuối cùng của Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật không hỏi mà tự mình thuyết, là vì Đức Phật biết thính chúng đương thời không có người nào hiểu được, không có người nào biết phải thưa hỏi như thế nào, nên phần này là chỉ nam thiền tu vô thượng, trong đó Đức Phật đã tường tận miêu tả trên con đường tu học của chúng ta, có thể gặp phải những cảnh giới bất đồng, và chỉ dạy cho chúng ta, như thế nào để tránh rơi vào hố bẫy tự ngã. Đoạn kết của phần kinh văn này, Đức Phật nói:
A Nan, thị ngũ thọ ấm, ngũ vọng tưởng thành. Nhữ kim dục tri nhân giới thiển thâm, duy sắc dữ không, thị sắc biên tế, duy xúc cập ly, thị thọ biên tế; duy ký dữ vọng, thị tưởng biên tế; duy diệt dữ sanh, thị hành biên tế; trạm nhập hợp trạm, quy thức biên tế. Thử ngũ ấm nguyên, trùng điệp sanh khởi, sanh nhân thức hữu, diệt tùng sắc trừ. Lý tắc đốn ngộ, thừa ngộ tịnh tiêu; sự phi đốn trừ, nhân thứ đệ tận.
Dịch: A Nan nên biết, năm thứ thọ ấm là do năm thứ vọng tưởng tạo thành. Ông nay muốn biết, giới hạn mỗi ấm là sâu hay cạn, chỉ có Sắc Không, chính là biên giới của vùng sắc ấm, chỉ Xúc và Ly chính là biên giới của cái thọ ấm. Nhớ và Quên đây chính là biên giới của cái tưởng ấm. Diệt và Sanh đây chính là biên giới của cái hành ấm, thanh tịnh lại hợp với cái thanh tịnh, chính là biên giới của cái thức ấm. Căn nguyên năm ấm trùng điệp sanh khởi. Sanh thì do thức mà trở nên có, diệt thì từ nơi sắc ấm mà trừ. Lý thì đốn ngộ, thừa ngộ cùng tiêu. Sự thì không phải lập tức tiêu trừ, phải theo từng lớp mới dứt hết sạch.
Từ Thượng nhân giảng giải Kinh Lăng Nghiêm đến nay đã trải qua mấy chục năm. Trong bản tiếng Trung mới này chúng tôi cẩn thận sao chép và biên tập những lời giảng giải của Thượng nhân, hy vọng có thể tường tận như thực ghi lại những lời dạy của Thượng nhân về ý nghĩa thâm sâu vi diệu của Kinh Lăng Nghiêm, khiến cho người đọc hiểu rõ, tại sao Thượng nhân nhiều lần nhấn mạnh: Phải không ngừng học tập Kinh Lăng Nghiêm y theo Kinh Lăng Nghiêm tu hành; cùng với lời Thượng nhân khích lệ mọi người phải dụng tâm hộ trì kinh Lăng Nghiêm, tuyên dương Kinh Lăng Nghiêm, vì Kinh Lăng Nghiêm là lời giáo hối dạy dỗ vô cùng quan trọng của Đức Phật.
Những năm gần đây các vị đệ tử kính cẩn khắc ghi sự xem trọng của Thượng nhân về Kinh Lăng Nghiêm: Thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm, phiên dịch Kinh Lăng Nghiêm, giảng giải Kinh Lăng Nghiêm, hành trì kinh Lăng Nghiêm, hộ trì Kinh Lăng Nghiêm, tuyên dương lưu thông Kinh Lăng Nghiêm. Tuy không phải mọi người đều có thể đốn ngộ nghĩa lý của kinh, nhưng mỗi một người đều có thể dần dần huân tu nghĩa lý tường tận trong Kinh.
Thông qua việc khai giảng Kinh Lăng Nghiêm khiến cho chúng tôi bước vào ngưỡng cửa Phật giáo, Thượng nhân không những đã bố thí pháp cho chúng tôi, mà còn ban cho chúng tôi sự Vô Úy. Lòng tin của Ngài đối với năng lực của các vị đệ tử, là sự khích lệ lớn lao dành cho chúng tôi, đem hết tất cả sự nỗ lực lớn nhất của mình dõng mãnh hướng về phía trước.
Lời ban biên tập: Pháp sư Hằng Trì là Tỳ Kheo Ni quốc tịch Mỹ, là một trong năm vị Tỳ Kheo theo Thượng nhân xuất gia sớm nhất, đã được Thượng Nhân giáo hối 26 năm, cho đến nay đã xuất gia được 40 năm.
Lời tựa của ban biên tập
Tháng 11-2008 tại California nước Mỹ
Kinh Lăng Nghiêm là một bộ Kinh trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật, năm 1968 Thượng Nhân Tuyên Hóa tại Phật Giáo Giảng Đường ở thành phố San Francisco nước Mỹ, tổ chức “Lớp giảng tu Lăng Nghiêm mùa hạ”.
Với thời gian 96 ngày, Thượng nhân đã giảng thuật suốt bộ Kinh Lăng Nghiêm cho hơn 30 vị sinh viên nước Mỹ, mở đầu sự nghiệp hoằng pháp cho người Tây Phương. Nội dung nghiên cứu học tập bao gồm: Kinh Tiền Huyền Đàm - nói về những nội dung trước khi vào Kinh, A Nan thị đọa, 3 lần phá thức, mười lần hiển kiến - trình bày cái thấy, bốn khoa bảy đại, từ căn giải kết, 25 bậc Thánh trình bày sự viên thông, bốn loại thanh tịnh minh hối, Lăng Nghiêm thần chú, 12 loại chúng sanh, lịch vị tu chứng, thất thú, 50 cảnh giới ấm ma… để giáo đạo chúng tôi từ căn bản bước vào, từ tự tánh tu tự tánh, là tiêu trừ những vọng tưởng điên đảo của chúng tôi, để đạt đến cảnh giới phá mê hiển chánh, ngược dòng mê quay về bờ giác.
Lớp giảng tu Kinh Lăng Nghiêm này mỗi ngày từ 6 giờ sáng cho đến 9 giờ tối, mỗi ngày giảng kinh một lần, dần dần lên đến 2 lần, rồi đến 3 lần, cho đến 4 lần; trong thời gian này sinh viên thực tập tu hành thiền tọa. Sau khi giảng Kinh, Thượng nhân cùng với sinh viên nghiên cứu sâu vào, thảo luận nghĩa lý của Kinh, đối với những chỗ khó khăn nghi ngờ tiến hành hỏi và đáp, chỉ đạo cho việc thiền tọa.
Với sự giải hành đều xem trọng, dung hòa việc nghiên cứu thảo luận Kinh điển với thực tập thiền tu, phương pháp giáo hóa này ở các nước Tây Phương có thể xem là việc sáng lập đầu tiên.
Để cho sinh viên chuyên tâm học tập, Thượng nhân ngoài việc mỗi ngày giảng kinh ba bốn lần, tất cả việc lớn nhỏ trong chùa, cho đến việc mua đồ ăn, nấu đồ ăn, quét dọn đều do một mình Thượng nhân đảm nhiệm - Tinh thần vì pháp quên thân của Thượng nhân đã làm sinh viên cảm động, thậm chí phát tâm xuất gia, hiện này nghe đến việc này không ai mà không kính phục.
Vì sinh viên nghe pháp đều là những thanh niên Tây Phương sơ cơ, Hoa văn không phải là tiếng quốc ngữ cho nên Thượng nhân không đi theo phương thức giảng kinh của các vị đại đức xưa kia mà thay đổi thành văn giảng dễ hiểu, từng câu giảng giải giải thích; và khi dạy các thanh niên Tây Phương nhận thức tiếng Hoa, từ trong đó phân tích tinh tuỷ Phật pháp, với nội dung sâu sắc, lời lẽ dễ hiểu, hy vọng người đọc học tiếng Hoa khéo tự thể hội nghĩa lý của Kinh, chớ không dùng văn tự cạn cợt lặp lại mà bỏ đi nghĩa lý tinh thâm uyên bác của kinh; và hy vọng có thể phát dương rộng lớn, làm cho Kinh Lăng Nghiêm được lưu truyền rộng rãi, khiến cho người đời sau tu học có chỗ y cứ nương tựa, khiến chánh pháp được tồn tại lâu dài ở thế gian.
Lăng Nghiêm Kinh Thiển Thích, bản phát hành của lần đầu tiên kiết tập vì nhiều chỗ biên tập không thỏa đáng, nên làm mất đi diện mạo nguyên gốc thiển thích của Thượng nhân cùng với thâm ý ở trong đó. Để tu chỉnh nhiều chỗ thiếu sót ở trong bản này! Thượng nhân đã dặn dò biên tập lại, nên có lần kiết tập thứ hai này. Những năm gần đây, vì nhân lực có hạn của ban biên tập, được sự hiệp trợ của các đạo tràng phân nhánh các nuớc, cùng bắt tay hiệp lực biên soạn lại những lời giảng giải thích của Thượng nhân. Đồng thời cung kính nghe lại những băng ghi âm giảng kinh của Thượng nhân năm xưa, tiếp tục và cẩn thận ghi chép, thận trọng cân nhắc, gọt giũa biên soạn hiệu đính những lời giảng giải của Thượng nhân, tất cả đều đem hết sức khôi phục lại diện mạo ban đầu, giữ gìn bảo toàn tinh túy, để cầu mong lần xuất bản này sẽ phương tiện cho người hiện nay đọc hiểu.
Lại nữa thời đó thiết bị ghi âm còn có hạn, khiến cho những băng ghi âm giảng giải của Thượng nhân không có cách nào toàn thiện toàn mỹ, nếu y theo lần kết tập này, thì không tránh khỏi sự thiếu sót lỗi lầm; cho nên vào những năm 70, 80, 90 nhiều lần thỉnh cầu Thượng nhân giảng bù một vài đoạn nhỏ ở trong đó để bổ sung cho được đầy đủ. Ngoài ra vào năm 1987 – 1988, Thượng nhân cũng từng chủ trì buổi thuyết giảng “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực”, dùng phương thức kích thích não lực cho đệ tử và những người thời đó, để tập trung trí tuệ nghiên cứu thảo luận Kinh Lăng Nghiêm. Mọi người hoặc là giảng, hoặc là bình, ý kiến độc đáo, tuyệt vời vô cùng, Thượng nhân thì vẽ rồng điểm mắt, tùy thời mà bình giảng. Có thể nói học phong thịnh hành một thời. Đáng tiếc đương thời chỉ tiến hành cho đến quyển 1 rồi chấm dứt, lại nữa Thượng nhân cũng đã từng ở Vạn Phật Thánh Thành và Kim Luân Thánh Tự chủ trì khoá học “Ngũ Thập Ấm Ma Nghiên Thảo Phiên Dịch Hội”. Sau đó Thượng nhân vì bôn ba cứu thế độ nhân, không tránh khỏi sức khỏe suy kém, không còn tự thân chủ trì các khoá học như vậy được nữa.
Lần xuất bản mới này không những đem các lần giảng bù của Thượng nhân đưa vào trong phần giải thích vốn có, và cũng đem phần bình giảng, phân tích của Thượng nhân ở trong “Ngũ Thập Ấm Ma Nghiên Thảo Phiên Dịch Hội”, “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” cùng đưa vào phụ lục để tránh sự hối tiếc mất đi hạt châu quý giá. Những chỗ trùng lập thì cố gắng đưa vào trong phần giải thích vốn có, chỗ giống nhau thì bỏ đi, chỗ thiếu thì thêm vào; nếu có sự giải thích khác hoặc phát huy riêng, thì không có nhập chung vào mà ghi vào ở sau mỗi đoạn, mỗi mỗi đều ghi chú để tiện tham khảo.
Lại nữa bản Kinh Lăng Nghiêm Thiển Thích mới này, tài liệu phong phú, đặc biệt chia thành nhiều tập để in ấn, để tiện cho độc giả cầm đọc; nhưng lần xuất bản này theo thứ lớp, theo nghĩa mà chia tập, chớ không phải y theo quyển hoặc y theo số lượng. Ví dụ “25 bậc Thánh chứng viên thông” chiếm quyển 5 quyển 6 trong bộ kinh, nếu đưa toàn bộ phần này vào trong một tập, thì không phải càng tiện hơn cho việc nghiên cứu sao? Lại như Ngũ thập ấm ma gồm nửa phần sau quyển 9 cho đến hết quyển 10, nếu lấy phần “ngũ thập ấm ma” làm thành một tập, thì người đọc không cần qua tập khác mà vẫn có thể đọc thông suốt từ đầu cho đến cuối, thì không phải là vui sao? Nếu có một tập mà bao gồm hơn 2 quyển, thì người biên tập vẫn chú thích rõ ràng ở giữa 2 quyển để làm cho không mất đi sự hoàn chỉnh và nguyên mạo của Kinh văn.
Kinh Lăng Nghiêm từ xưa đến này phiên bản rất nhiều, mỗi mỗi đều có phần chênh lệch không nhất quán, mà kinh văn của bản này là Đại Tạng Kinh Càn Long và Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch Sớ của Giao Quang Pháp sư, trong đó có khi dẫn từ Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh giảng nghĩa của Pháp sư Viên Anh. Bị hạn chế phần mềm vi tính cũng như công tác dàn trang, một vài chữ xưa trong Kinh văn thì lấy chữ hiện đại thay thế ví dụ lấy chữ dâm bộ thủy 淫 thay thế cho chữ dâm bộ nữ 婬, lấy chữ biến bộ sước 遍thay cho chữ biến bộ xích 徧, lấy chữ tỳ bộ điền bên cạnh毗 thay cho chữ tỳ bộ điền trên đầu毘, lấy chữ tu bộ nhân 修 thay cho chữ tu bộ nhục脩, lấy chữ lưu ly 琉璃thay cho lưu ly 瑠璃 …
Cuối cùng kính xin được y theo lời dạy từ bi của Thượng Nhân, trong lần kiết tập thứ hai, chọn phần khoa phán của Ngài Pháp Sư Viên Anh đưa vào trong Kinh. Phần cương yếu và mục lục thì lấy phần khoa phán giản yếu Pháp sư Viên Anh làm chủ và dung hòa với các nhà khác để làm cho mạch lạc phân minh, đầu đuôi nhất quán thông suốt, ngắn gọn trong sáng dễ hiểu. Lần biên tập sửa chữa Kinh Lăng Nghiêm thiển thích này, trải qua thời gian mấy năm, nhưng những chỗ lầm lẫn sai sót vẫn e khó tránh, kính mong các vị độc giả hoan hỉ cho, hoặc có những chỗ chưa được tường tận chính xác, cũng kính mong các vị đại đức thùy từ chỉ dạy để cho được hoàn thiện, đây là chỗ tha thiết mong cầu của ban biên tập.
Hình ảnh
Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh quyển một
唐中天竺沙門 般剌密諦 譯
烏萇國沙門 彌伽釋迦 譯語
羅浮山南樓寺沙門 懷迪 證譯
菩薩戒弟子,前正議大夫,同中書門下平章事
清河 房融 筆受
Đường Trung Thiên Trúc sa môn Bát Lạt Mật Đế dịch
Ô Trường Quốc sa môn Di Già Thích Ca dịch ngữ
La Phù Sơn Nam Lâu tự sa môn Hoài Địch chứng dịch
Bồ tát giới đệ tử, Tiền Chánh nghị Đại phu, đồng Trung thư Môn hạ Bình chương sự
Thanh Hà Phòng Dung bút thụ
Kinh Tiền Huyền Đàm
Mười môn phân biệt
Nguyên văn:
壹‧總釋名題
大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經
一、七種立題
Âm Hán Việt:
Nhất: Tổng Thích Danh Đề
Đại Phật Đỉnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh
I. Thất chủng lập đề: bảy loại đặt tên kinh
Giảng:
“Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm”. Mười chín chữ này là tên, đề mục của bộ kinh này, cộng thêm chữ Kinh ở sau tổng cộng là hai mươi chữ; hai mươi chữ này là tên kinh. Mười chín chữ trước thuộc về “biệt danh” (tên riêng), một chữ sau là “thông danh” (tên chung). Biệt danh là gì? Biệt có nghĩa là phân biệt, là có chỗ khác biệt với các kinh điển khác, tên không giống nhau; chữ “Kinh” ở sau thì tương đồng, vì tương đồng cho nên gọi là thông danh. Một thông danh, một biệt danh. Thông danh là thông với các kinh, biệt danh là khác biệt với bộ kinh này. Do vì tên bộ kinh này không giống với tên các kinh khác, cho nên có hai cách gọi là thông danh và biệt danh.
Kinh điển do Đức Phật nói ra có bảy cách đặt tên. Bảy cách đặt tên này bao quát tất cả kinh điển Tam Tạng mười hai phần giáo do Như Lai thuyết ra, tất cả kinh điển đều không ra ngoài bảy cách đặt tên này. Ý nghĩa của bảy cách đặt tên này là gì? Tức là đơn tam, phục tam và cụ túc nhất.
Thế nào gọi là đơn tam? Đơn tam là Ba cách đặt tên theo một ý. Phục tam tức là song tam, có nghĩa là ba cách đặt tên theo hai ý. Ngoài ra còn có cụ túc nhất là một cách đặt tên đầy đủ cả ba ý nghĩa, tức là người, pháp và tỷ dụ.
Đơn tam là gì? Đơn tam gồm có: 1. Đơn Nhân lập đề, 2. Đơn Pháp lập đề, 3. Đơn Dụ lập đề
1. Đơn Nhân lập đề: là cách đặt tên theo người. Như “Phật thuyết A Di Đà Kinh”, “Phật thuyết A Di Đà”, vì Phật là người, A Di Đà cũng là người, cho nên gọi là đơn nhân lập đề.
2. Đơn Pháp lập đề: là cách đặt tên theo pháp. Như “Đại Bát Niết Bàn Kinh”, “Đại Bát Niết Bàn” là đơn pháp, vì chỉ dùng pháp để đặt tên cho kinh mà thôi, nên kinh này thuộc đơn pháp lập đề.
3. Đơn Dụ lập đề: Dụ là tỷ dụ, ví dụ, là cách đặt tên theo ví dụ. Như “Phạm Võng Kinh”, “Phạm Võng” là tỷ dụ. Bộ kinh này dùng tràng phan lưới báu của vua trời Đại Phạm làm tỷ dụ.
Lời Ban Biên Tập: Phạm Võng Kinh do ngài pháp sư Cưu Ma La Thập phiên dịch, được gọi là “Phạm Võng Kinh Bồ Tát Tâm Địa giới phẩm”, có lúc bỏ bớt đi chữ giới mà gọi là Phật thuyết Phạm Võng Kinh Bồ Tát Tâm Địa phẩm
Ở trên chỉ dùng một ý Nhân, Pháp, Dụ đặt tên, nên gọi là “đơn tam lập đề.”
Phục tam là gì? Phục tam là ba cách đặt tên theo hai ý, gồm có: 1. Nhân Pháp lập đề, 2. Nhân Dụ lập đề, 3. Pháp Dụ lập đề.
1. Nhân Pháp lập đề: Cách đặt tên theo người và pháp. Như “Văn Thù Vấn Bát Nhã Kinh”, “Văn Thù” là người, “Vấn Bát Nhã” là pháp, thế nên được gọi là Nhân Pháp lập đề. Có người, có pháp, dùng người và pháp hợp lại để đặt tên cho kinh.
2. Nhân Dụ lập đề: Cách đặt tên theo người và ví dụ. Như “Như Lai Sư Tử Hống Kinh”, “Như Lai” là người, “Sư Tử Hống” là ví dụ, ví dụ âm thanh thuyết pháp của Đức Phật như tiếng gầm của sư tử, nên đây gọi là Nhân Dụ lập đề, dùng người và ví dụ đặt tên cho kinh.
3. Pháp Dụ lập đề: Cách đặt tên theo pháp và ví dụ. Như “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh,” “Diệu Pháp” là pháp, “Liên Hoa” là ví dụ. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là đặt tên theo hai ý nghĩa là pháp và ví dụ nên gọi là Pháp Dụ lập đề.
7. Cách đặt tên theo người, pháp và ví dụ: Như tên trong Kinh “ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm”. Đại Phương Quảng là pháp, Phật là người và Hoa Nghiêm là lấy bông ví dụ cho nhân của vạn hạnh, trang nghiêm vô thượng ví dụ cho quả của đức Phật.
Thế nào gọi là cụ túc nhất? Là một cách đặt tên đầy đủ ba ý Nhân Pháp Dụ. Như “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh”. “Đại Phương Quảng” là pháp, “Phật” là người, “Hoa Nghiêm” là ví dụ, bộ kinh này dùng hoa để tỷ dụ với cái nhân của lục độ vạn hạnh, trang nghiêm quả đức vô thượng. “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh” có đủ pháp, người và tỷ dụ nên gọi là cụ túc nhất.
Đề mục hay tên của tất cả kinh điển không ra ngoài bảy loại trên. Đề mục của trăm ngàn bộ kinh điển trong Đại Tạng đều bao hàm trong bảy cách lập đề này, không có vượt ra ngoài.
Người giảng kinh cần phải thấu rõ bảy cách đặt tên này mới có thể giảng dạy kinh điển. Nếu ngay cả bảy cách đặt tên cũng không rõ, thì làm sao dạy người khác hiểu rõ được? Ví như bản thân không giác ngộ, thì làm sao dạy người khác giác ngộ được? Vì thế điểm này rất quan trọng.
Bảy loại lập đề này, phàm là người học Phật pháp, phải nên biết. Không giống như người nào đó, xem mới tới hai quyển rưỡi kinh, chưa xong đến ba quyển, không cần phải nói đến bảy loại lập đề, năm loại huyền nghĩa, mười môn phân biệt, người ấy ngay một huyền nghĩa, một môn phân biệt cũng không biết, mà đi khắp nơi tự xưng là “Pháp sư”, tự xưng là “đạo sư giáo hóa chúng sanh”; đó không khỏi quá tích cực, quá tiền tiến. Chưa thật sự hiểu rõ Phật pháp mà thuyết pháp, giảng kinh, thì dạy người ta đi đến địa ngục. Ngay chính họ cũng sẽ đến địa ngục nhưng tự họ lại không hiểu vì sao mà đến! Những người nghe cũng vậy, cũng không biết tại sao mình rơi vào địa ngục. Điều này thật quá đáng thương! Cho nên, người học Phật cần phải thật sự hiểu rõ Phật pháp, thật sự có trí huệ, sau đó mới đi giáo hóa chúng sanh, thì mới không bị sai lầm!
Đạo lý trong kinh Lăng Nghiêm, thuyết ra thật vô cùng vô tận. Lần giảng kinh này, tôi không giảng theo năm loại Huyền nghĩa của Thiên Thai tông mà giảng theo mười môn Phân biệt của Hiền Thủ tông.
Hiền Thủ tông và Thiên Thai tông là hai tông phái lớn của Phật giáo Trung Quốc. Tất cả các Pháp sư giảng kinh, có vị học theo Thiên Thai mà không hiểu Hiền Thủ, có người rõ Hiền Thủ mà không thông Thiên Thai, cho nên lúc giảng kinh không đạt được viên dung vô ngại. Nay tôi giảng bộ kinh “Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm” này là y theo “mười môn phân biệt” của Hiền Thủ tông để giảng giải.
Trước khi vào kinh, sẽ giảng về “mười môn phân biệt”, có mười môn để phân biệt tất cả kinh Phật.
Mười môn là: 1) Tổng thích danh đề; 2) Khởi giáo nhân duyên; 3) Tạng thừa nhiếp thuộc; 4) Nghĩa lý thâm thiển; 5) Năng thuyên giáo thể; 6) Sở bị cơ nghi; 7) Tông thú thông biệt; 8) Thuyết thời tiền hậu; 9) Lịch minh truyền dịch; 10) Biệt giải văn nghĩa.
Môn thứ nhất là “Tổng Thích Danh Đề”, tức là giải thích tên của bộ kinh một cách tổng quát. Bảy loại lập đề (bảy cách đặt tên) đã giảng ở trên là bảy phương pháp phân biệt tên của các kinh Phật. Bây giờ chúng ta hãy “Tổng thích danh đề,” giải thích tên của kinh này.
Tên của kinh là: “Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm”. Đây là tổng danh của bộ kinh này, cũng là biệt danh; biệt danh tức không cùng tên với các kinh khác, chỉ có bộ kinh này mới có tên này.
II. Thích Đại Phật Đảnh
Chữ đầu tiên là “Đại.” Sao gọi là Đại? Bởi nó chứa đựng bốn yếu tố lớn, là: đại nhân, đại nghĩa, đại hạnh và đại quả.
Nhân này là “Mật Nhân”, khác với các nhân khác. Nhân này là nhân bí mật, là nhân mà người không biết được, ngoại đạo không hiểu rõ, Nhị thừa cũng chưa phát hiện đến, cho nên gọi là mật nhân. Mật nhân này vô cùng to lớn, cho nên gọi là “Nhân lớn”.
Nghĩa lớn là nghĩa lý “Tu Chứng Liễu Nghĩa”, cũng đặc biệt lớn. Ý nghĩa này vô cùng lớn.
“Chư Bồ Tát Vạn Hạnh”, hạnh này rất lớn nên gọi là “hạnh đại”. “Thủ Lăng Nghiêm” là Quả lớn. Bởi bộ kinh này đầy đủ bốn cái lớn trên: nhân lớn, nghĩa lớn, hạnh lớn và quả lớn, nên gọi là “Đại.”
“Phật”: chúng ta mỗi người đều biết “Phật”. Quý vị thường nói, “Tôi tin Phật giáo, tôi học Phật pháp”. Nhưng “Phật” nghĩa là gì, giải thích ra sao? Phật là tiếng Ấn Độ, viết đủ là Phật-đà-da, là phiên âm của tiếng Phạn Buddha. Bởi người Trung Quốc thích giản lược nên bỏ hai chữ sau là đà-da, mà dùng chữ Phật ở đầu. Vì “đà-da” không có phiên dịch thành tiếng Trung, nên có người cho rằng chữ Phật là tiếng Trung, kỳ thực không phải, vì đó chỉ là tiếng phiên âm, chữ là tiếng Hoa, nhưng âm không phải. Thế thì, nếu dịch thành tiếng Hoa thì “Phật” kêu là gì? Phật dịch là “Giác”. Giác là giác ngộ. Giác ngộ không phải là một loại, mà là ba loại, ba loại giác ngộ là gì? Là: tự giác, giác tha, và giác hạnh viên mãn.
Thế nào là tự giác? Tự giác nghĩa là tự mình đã giác ngộ, không còn mê nữa; do vậy, khác với người thường. Cảnh giới của người Tự giác thì không giống với cảnh giới của phàm phu chúng ta, như quý vị và tôi hiện nay là những người phàm phu chưa giác ngộ. Nhưng Đức Phật tự mình đã giác ngộ rồi. Tự mình giác ngộ vẫn chưa đủ, Ngài còn Giác tha. Tự mình khai ngộ rồi lại tìm cách giúp người khác cũng được khai ngộ như mình, đó gọi là giác tha. Trong cái giác ngộ của chính mình (tự giác) và giác ngộ người khác (hay giác tha) có nhiều tầng bậc và trình độ khác nhau bởi vì căn tánh của mỗi người không giống nhau. Vì giác ngộ có tiểu ngộ – giác ngộ chưa viên mãn, và đại ngộ – giác ngộ đã viên mãn. Đức Phật đã đạt đến đại giác ngộ, và cũng khiến cho người khác được đại giác ngộ. Khi tự giác đến được viên mãn và giác tha cũng đã viên mãn thì gọi là “Giác hạnh viên mãn”. Ba loại giác ngộ ở trên đều viên mãn, tức là “vạn đức trang nghiêm”. “Tam giác viên, vạn đức bị, cố danh vi Phật”, ba sự giác ngộ: tự giác, giác tha, giác hạnh đều viên mãn, và đầy đủ muôn ngàn đức hạnh, nên gọi là Phật.
Tại sao chúng ta phải tin Phật? Vì Phật chính là chúng ta. Chúng ta vốn là Phật, song chỉ vì hiện nay mê hoặc cho nên không thể chứng được quả vị Phật. Tại sao nói chúng ta vốn là Phật? Vì đức Phật đã nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể làm Phật. Nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên không thể chứng đắc”. Nếu tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng tại sao vẫn chưa thành Phật?
Chỉ vì “vọng tưởng chấp trước”. Có vọng tưởng, lại có chấp trước. Hết nghĩ đông đến nghĩ tây, hết nghĩ nam đến nghĩ bắc, nghĩ trên nghĩ dưới, trên trời dưới đất, không có chỗ nào mà không nghĩ đến. Vọng tưởng quá nhiều, đếm không xuể. Quý vị nói xem, trong ngày quý vị có bao nhiêu lần vọng tưởng? Quý vị biết có bao nhiêu không? Nếu biết, thì quý vị đã là Bồ tát rồi, vì quý vị không biết nên quý vị vẫn là phàm phu.
Chúng ta không những vọng tưởng mà lại còn chấp trước. Chấp trước những gì? Chấp trước cái này là của tôi, cái kia cũng là của tôi. Tất cả những hưởng thụ vật chất đều không buông bỏ được, sự hưởng thụ tinh thần càng không nói đến! Vì thế có các thứ chấp trước, nói: “A! Chiếc máy bay này là của tôi”, “A! Tôi có chiếc xe hơi đời mới, thật là tuyệt đẹp!” Mình có cái gì bèn chấp trước cái đó. Người nam có chấp trước của người nam, người nữ thì có cái chấp trước của người nữ, người thiện có cái chấp trước của người thiện, kẻ ác có cái chấp trước của kẻ ác… Vô luận là chấp trước vào cái gì, người mà có chấp trước thì không thể thoát khỏi, không thể buông bỏ. Họ cứ nắm mãi, càng có thì càng chấp thêm. A! Có các chấp trước này thì không phải là việc hay đâu! Chấp trước hưởng thụ, thì ưa thích ăn đồ ngon, ở nhà đẹp, du lịch vui chơi khắp nơi. Quý vị cho đó là tốt à? Chưa chắc là việc tốt đâu, quý vị đâu biết rằng, chính bởi do tham thích hưởng thụ mà không thể thành Phật. Cho nên Đức Phật nói: “Do bởi vọng tưởng và chấp trước mà tất cả chúng sanh không thể chứng đắc, mà không thể thành Phật”.
Phật đã từng nói: “Cuồng tâm nhược hiết, hiết tức Bồ đề”. Đó là đạo lý trong Kinh Lăng Nghiêm giảng dạy, ý nói tâm cuồng vọng tự đại của quý vị, tâm hiếu kỳ, ham thích những việc cao xa, tâm khinh thường kẻ khác! Loại người nghĩ mình là thông minh, mình là hay giỏi hơn mọi người. Ví như người ấy vốn rất xấu xí, vậy mà nói rằng: “A, tôi xinh lắm!”. Quý vị xem, chấp trước lớn như vậy! Mình vốn rất xấu, lại nói mình rất đẹp, đó đều là chấp trước. Nếu quý vị ngừng chỉ cái cuồng tâm chấp trước đó; “hiết tức Bồ đề”, cuồng tâm vừa hết, thì chính đó là Bồ đề. Bồ đề là gì? Chính là “giác đạo”, là khai ngộ, khai ngộ thì cách thành Phật không xa. Nếu quý vị có thể ngừng đi cái tâm cuồng vọng của quý vị, thì chính là chỗ tốt lành của quý vị.
Ba loại giác ngộ: “tự giác” là sự khác biệt giữa phàm phu và các bậc A la hán, phàm phu tức là “bất giác” – không giác ngộ; tự giác là tự mình đã giác ngộ. Người đã giác ngộ là người nào? Tức là A la hán và Bích chi Phật. Bích Chi Phật là tiếng Phạn, gọi đủ là “Bích-chi-ca-la” (Pratyekabuddha), ở Trung Quốc gọi là Bích Chi Phật. Bích Chi Phật do tu Thập Nhị Nhân Duyên mà ngộ đạo, còn các vị A la hán thì do tu pháp Tứ Đế mà đắc thành.
Tự giác là khác với phàm phu, còn “giác tha” thì khác với Nhị thừa – không giống với Nhị thừa. Giác tha là gì? Giác tha thì cần phải phát tâm Bồ tát, Bồ tát là giác tha, cũng có thể nói là lợi tha. Ai có thể thực hành hạnh lợi tha? Chính là Bồ tát. Bồ tát khác với Nhị thừa, và Thanh văn Duyên giác lại không giống nhau. Thanh văn, Duyên giác chỉ biết tự giác mà không chú trọng việc giác tha; Bồ tát thì phát tâm giác tha, lợi tha.
Vậy thì, Bồ tát và Thanh văn Duyên giác là hai người khác nhau hay là cùng một người? Thanh văn là A la hán, Duyên giác là Bích chi Phật, Bồ tát là Bồ đề tát đỏa. Vậy rốt cuộc ba bậc đó là một người, hay là hai người hay là ba người tu thành? Đây có thể nói là một người, cũng có thể nói là ba người? Vì sao như vậy? Vì có thể có một người trước tu Thanh văn, sau đó lại tu Duyên giác, rồi sau đó từ Duyên giác mà tu Lục độ vạn hạnh của Bồ tát, một người mà bao biện tất cả, tu nhiều hạnh, nhiều pháp môn như thế, cho nên có thể nói là một người.
Nhưng, lại có thể nói là ba người. Sao lại là ba người? Người thứ nhất tu Thanh văn, sau khi tu chứng ngộ không còn muốn cầu tiến thủ, tự mình liễu ngộ cho mình: “Tôi đã khai ngộ rồi, tôi đã hiểu rõ rồi, tôi không quản người khác, người khác tôi không màng đến”, ngừng ngay ở trình độ A la hán, không tiến lên trên con đường Bích Chi Phật nên đó là một người. Có người khác tu đắc quả A la hán, sau đó tiến lên quả vị Bích chi Phật; ở quả vị này rồi thì không tiến nữa, đây là hai người. Thêm người ở trên nữa, là người trước tu Thanh văn, sau đó lại tu Duyên giác, rồi sau đó từ Duyên giác mà tu Lục độ vạn hạnh của Bồ tát, nên đó là ba người.
Thế nên ba loại giác ngộ, đạt đến quả vị Bích Chi Phật cũng chỉ là tự giác, không phải giác tha, đến Bồ tát thừa mới là giác tha. Bồ tát do tu lục độ vạn hạnh - tu sáu ba la mật, vạn hạnh trang nghiêm mà thành Bồ tát. Thành Bồ tát, lại tinh tiến hành Bồ tát đạo, hành cho đến khi viên mãn, đó gọi là giác hạnh viên mãn, bèn thành Phật. Cho nên muốn “giác hạnh viên mãn” thì không được rời hạnh Bồ tát. Phật và Bồ tát lại không giống nhau, Phật thì giác hạnh viên mãn, khác với Bồ Tát. Ba loại giác ngộ, trong đó có rất nhiều cấp bậc, nếu muốn thực hành thì thiên sai vạn biệt, trong từng trình độ lại có trình độ, trong khác biệt lại có khác biệt, rất là phức tạp. Tóm lại viên mãn ba loại giác ngộ rồi thì thành Phật.
“Đảnh”: có nghĩa là chỗ tối cao vô thượng, không còn cái gì có thể cao hơn gọi là Đảnh, giống như trên đảnh của chúng ta gọi là đảnh đầu, trên đảnh đầu là trời, cho nên gọi là đảnh thiên lập địa, đầu đội trời chân đạp đất. Chúng ta, không chỉ là nam nhân mà nữ nhân cũng vậy, vì ở nước Mỹ, không nên quên người nữ, nữ nhân cũng là đảnh thiên lập địa, đầu đội trời chân đạp đất. Đó là đảnh đầu – đảnh ở trên đầu.
Vậy thì ba chữ “Đại Phật Đảnh” hợp lại, dù tôi không giảng, cũng tin rằng mọi người đều hiểu rõ, đó là chỉ cho cái đảnh của vị Đại Phật, một vị Phật lớn. Phật lớn là bao lớn? Đem thước đo, có lớn bằng tượng Đức Phật trong Chánh Điện này không? Thực ra, Đức Phật trong Chánh Điện đây không phải là vị Phật lớn, mà chỉ là một giọt nước trong bể cả, như một hạt bụi tí trong Tam thiên thế giới. Quý vị không nên lầm cho rằng đó là Phật lớn. Vị Phật lớn thì không có gì lớn bằng; lớn mà không ở ngoài, nên gọi là “Đại”. Vậy đây là Phật nào? Là vị Phật biến mãn khắp mọi nơi, không có chỗ nào có, không chỗ nào mà không có. Vậy Ngài ở chỗ nào? Chỗ nào Ngài cũng không có. Vậy chỗ nào Ngài không có? Thì chỗ nào Ngài cũng đều có.
Quý vị nói xem Ngài là lớn hay là nhỏ? Quý vị không có biện pháp nào đo lường được độ lớn của cái lớn này. Lớn đến trình độ nào mới là cái lớn thật sự? Đến cái lớn không còn nữa, không còn cái nào lớn hơn cái lớn này, đó mới là cái lớn nhất.
“Vậy ai lớn nhất?”
Là Đại Phật. Mà vị Đại Phật ấy là ai? Chính là quý vị! Cũng chính là tôi.
Nói: “Nhưng con không có lớn như vậy, và theo như con thấy, Thầy cũng không có lớn như thế. Tại sao Thầy lại nói chính là con, chính là Thầy lớn như vậy?”
Nếu không phải là quý vị không phải là tôi, thì nói người khác làm gì? Chính vì có sự quan hệ giữa tôi với quý vị, cho nên kinh mới đề cập đến. Vậy thì chúng ta tại sao mà to lớn như thế? Tôi nói cho quý vị biết Phật tánh của chúng ta thì rất lớn, chúng ta đều đầy đủ Phật tánh vốn có này, chính là vị “Phật lớn” này. Vị Phật này lớn không có gì sánh bằng, nên gọi là Đại Phật.
Không những là Phật lớn, mà là đảnh của vị Phật lớn. Vị Đại Phật này, vốn không có gì lớn hơn cao hơn; nhưng mà lại có cái đảnh, cái cao hơn Đại Phật là cái “đảnh” trên đầu của Ngài. Ba chữ đại Phật đảnh này, tôi không giảng quý vị cũng có thể hiểu rõ. Trên đảnh của vị Phật lớn lại hiện ra một vị Phật lớn nữa.
Nói: “Vị Phật lớn đó bao lớn?”
Vị Phật lớn đó thì không thấy được, cho nên trong bài kệ của chú Lăng Nghiêm nói: “Vô kiến đảnh tướng phóng quang Như Lai tuyên thuyết thần chú”.
“Vô kiến đảnh tướng thì không hiện hữu, là không có vì vô kiến (không thấy) mà! Đã không thấy, sao lại nói là có vị Phật lớn?”
Nhìn không thấy, đó mới chính là lớn! Vì sao? Vì lớn đến độ quý vị nhìn không thấy. Nếu Phật không lớn, tại sao quý vị không nhìn thấy?
“Làm sao mà không thấy được? Quá nhỏ con mới không thấy, nếu lớn thì con có thể nhìn thấy”.
Nếu là lớn thì quý vị có thể nhìn thấy được hay không? Bầu trời lớn như thế, quý vị có thể thấy hết không? Quý vị thấy không suốt hết đâu. Đất lớn như vậy, quý vị có thể hoàn toàn thấy hết diện tích của đất không? Không thấy hết được. Do vì thấy không được mới thiệt là lớn. Nếu không lớn, quý vị có thể thấy được. Cho nên nói “Vô kiến đảnh tướng, phóng quang Như Lai, tuyên thuyết thần chú”.
“Đại Phật đảnh” này tức là Vô kiến đảnh tướng của vị Phật lớn phóng hào quang.
Hào quang ấy bao lớn?
Quý vị nghĩ xem, là Đại Phật, Ngài có thể nào phóng hào quang nhỏ không? Đương nhiên là phóng hào quang lớn rồi! Vì thế Phật lớn thì phóng hào quang lớn. Hào quang lớn này chiếu cùng khắp tất cả mọi nơi.
Hỏi: “Hào quang ấy có chiếu đến con không?”
Chiếu đến quý vị từ lâu rồi!
Nói: “Tại sao con không biết?”
Quý vị muốn biết phải không? Tôi đã từng nói: “Tâm thanh thủy hiện nguyệt, ý định thiên vô vân”. Tâm của quý vị nếu thanh tịnh đến cực điểm, hào quang của Phật sẽ chiếu đến quý vị. Tâm không thanh tịnh, giống như hồ nước dơ, ánh sáng mặt trăng không chiếu xuống nước dơ được; nếu nước trong sạch, ánh trăng sẽ chiếu đến vào trong nước. Tâm thanh tịnh như ánh trăng sáng chiếu đến hồ nước trong. Hào quang của Phật lúc đó sẽ chiếu đến tâm chúng ta. “Ý tịnh thiên vô vân”, ý niệm của quý vị nếu định thì giống như trên trời không mây vậy, cảnh giới này vi diệu không thể nói được. Nếu mỗi người thật sự thanh tịnh hóa tâm mình, thì có thể đắc được định lực của Lăng Nghiêm Đại Định.
III. Thích Như Lai Mật Nhân
Như Lai: “Như” tức là không có gì mà không như như bất động (vô sở bất như). “Lai” tức là không có nơi nào mà không đến (vô sở bất lai). Như là bổn thể của pháp, bổn thể của Phật pháp là Như, dụng của Phật pháp là Lai; đó là hai chữ, thể dụng. Như như bất động, đến mà không đến. Nên nói rằng:
Như như bất động,
Đến rồi lại đến,
Đến mà không đến.
“Nếu vậy thì Ngài đi đâu?”
Không đi tới một nơi nào.
“Vậy Ngài từ đâu đến?”
Cũng không từ nơi nào đến.
Nên kinh Kim Cang nói: “Như Lai giả, vô sở tùng lai, diệt vô sở khứ”. Cũng không đến chỗ tôi, cũng không đi đến chỗ quý vị; mà cũng ở nơi quý vị, cũng ở nơi tôi, đó chính là “Như Lai”.
Như Lai là một trong mười hiệu của Phật. Phật có mười danh hiệu. Mỗi vị Phật ban đầu có bao nhiêu danh hiệu? Ban đầu mỗi vị Phật có một vạn danh hiệu. Sau đó mới giảm ít đi, vì người nhớ không nỗi. Sau đó mới giảm xuống mỗi vị Phật một ngàn danh hiệu, nhưng một ngàn danh hiệu người ta nhớ cũng không nỗi, cho nên lại giảm xuống một trăm danh hiệu, mỗi vị Phật có một trăm danh hiệu không giống nhau. Không những vị Phật này có một trăm danh hiệu không giống nhau, mà mỗi vị Phật đều có một trăm danh hiệu không giống nhau. Vậy mà chúng sanh vẫn không nhớ nỗi, cho nên lại giảm, giảm đến chỉ còn mười danh hiệu. Mười danh hiệu này, cũng chính là danh hiệu chung của mỗi vị Phật.
Mười danh hiệu của Đức Phật là gì? Danh hiệu thứ nhất là Như Lai. Như Lai là nương tựa vào đạo như thực mà đặng chánh giác, tức là thành Phật.
Danh hiệu thứ hai là Ứng Cúng, ý nói là bậc xứng đáng được trời người cúng dường.
Ba là Chánh Biến Tri.
Bốn là Minh Hạnh Túc.
Năm là Thiện Thệ Thế Gian Giải.
Sáu là Vô Thượng Sĩ.
Bảy là Điều Ngự Trượng Phu.
Tám là Thiên Nhân Sư.
Chín là Phật.
Mười là Thế Tôn.
Mỗi vị Phật đều có mười danh hiệu như thế. Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật.
“Mật Nhân”: Mật nhân là gì? Mật nhân chính là bổn thể định lực của mỗi người chúng ta. Tại sao là Mật nhân mà không gọi là Hiển nhân? Vì bổn thể định lực này mỗi người đều có sẵn, đều vốn đầy đủ, không ai mà không có, song mỗi người tự mình lại không biết, bởi vì không biết nên mới gọi là Mật nhân, biến thành bí mật. Cái bí mật này chính là bổn thể định lực. Bổn thể định lực này chính là bổn thể định lực của Như Lai; bổn thể định lực của Như Lai cũng chính là bổn thể định lực của tất cả chúng sanh. Cũng chính là mọi người đều có bổn thể định lực này, nhưng chỉ vì tự mình không biết, không phát giác ra mà thôi. Vì không biết nên gọi là Mật nhân.
IV. Thích Tu Chứng Liễu Nghĩa
“Tu Chứng Liễu Nghĩa”: Mật nhân này là để làm gì? Chúng ta cần phải tu nó thì mới chứng đắc mà thành Chánh quả được. Cần phải tu, nhưng tu như thế nào? Tham thiền hay niệm Phật đều là tu. Nhưng chữ “tu” ở đây là chỉ cho tu tham thiền, cần phải chuyên tu tham thiền mới có thể chứng đắc. “Chứng” này là “chứng đắc”. Chứng đắc cái gì? Chứng đắc nghĩa lý “liễu nghĩa”
“Liễu nghĩa” là gì? “Nghĩa” là ý nghĩa. Liễu nghĩa tức là nghĩa đã liễu rồi thì không còn ý nghĩa nữa. “Thế thì nó là vô nghĩa, không có ý nghĩa gì cả?”
Chúng ta những phàm phu, làm nhiều việc không chút ý nghĩa gì cả, đó là không có ý nghĩa. Nhưng cái “liễu nghĩa” này có nghĩa là đối với tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian là đã chứng đắc hoàn toàn, không thừa sót. Không còn pháp để tu, không còn pháp gì để chứng, đó cũng chính là “Quân bất kiến! Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân, bất trừ vọng tưởng bất cầu chân” trong “Chứng Đạo Ca” của Vĩnh Gia Đại Sư.
“Tuyệt học” là cái học tối cao, cái học mà không còn học nữa; “vô vi” là không làm nữa; “nhàn đạo nhân” là người ung dung thanh tịnh nhàn nhã, cái gì cũng không làm hết. “Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân”: Không trừ vọng tưởng, cũng không cầu chân lý. Tại sao không trừ vọng tưởng? Vì đã trừ hết rồi, vọng tưởng không còn nữa, nên mới không trừ. “Bất cầu chân”, vì chân đã đạt đến rồi, cho nên không cần cầu nữa. Quý vị chưa đạt đến mới cần cầu; người đã đạt đến chân lý rồi, nên không cần thiết phải cầu chân lý nữa. Chưa trừ sạch vọng tưởng mới cần trừ vọng tưởng, vọng tưởng đã không còn, thì không cần phải trừ nữa. Vì thế! Liễu nghĩa chính là ý này. Liễu nghĩa còn có nghĩa là tất cả nghĩa lý của Phật thuyết ra đã chứng đắc vô dư, không còn pháp có thể chứng, đã học đến chỗ rốt ráo, đã học đến chỗ không còn phải học nữa.
“Không liễu nghĩa” thì vẫn còn ý niệm, chờ đến lúc ý nghĩa gì cũng không còn, khô sạch mà thanh tịnh, thì đạt đến Mật nhân, cái bổn thể chánh định, và đó chính là tu chứng thành công mà đạt đến cảnh giới liễu nghĩa. Nếu quý vị không tu, thì không thể chứng đắc cảnh giới liễu nghĩa này. Cho nên, liễu nghĩa cũng chính là đại nghĩa, đại nghĩa bao gồm tất cả nghĩa.
Nói: “Nhưng Thầy nói liễu nghĩa là không còn gì nữa?”
Không còn nữa mới chính là thực sự có (chân hữu), nếu quý vị còn “có” thì không phải là thực sự có. Cho nên chứng đắc liễu nghĩa rồi thì không còn nghĩa nào có thể chứng đắc nữa, mà đã đạt đến cực điểm, tức gọi “liễu nghĩa”. Cực điểm là đến trình độ nào? Chính là đạt đến cảnh giới Phật, chứng đắc quả vị Phật.
V. Thích Chư Bồ Tát Vạn Hạnh
Nhưng muốn đạt đến cảnh giới Phật, thì cần phải hành Bồ tát đạo, nên nói “Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh”.
“Chư Bồ tát”: “Chư” ý nói là có rất nhiều rất nhiều, phải giải thích làm sao? Cũng có thể nói là “nhất thiết Bồ tát”. Nhất thiết Bồ tát lại bao gồm bao nhiêu? Nhiều là bao nhiêu? Nhiều đếm không hết, nói chung thì có năm mươi lăm đẳng vị. Năm mươi lăm đẳng vị này, sau sẽ giảng đến, bây giờ không giảng tỷ mỷ. Năm mươi lăm đẳng vị này gồm có: “Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa”, thêm vào Tứ Gia Hạnh, lại thêm vào “Đẳng Giác”. Mỗi đẳng bậc bao gồm hàng ngàn hàng vạn Bồ tát, cho nên năm mươi lăm đẳng bậc này, không phải chỉ có năm mươi vị Bồ tát, mà bao gồm vô lượng vô biên Bồ tát. Tóm lại có năm mươi lăm đẳng vị; vì bao gồm năm mươi lăm đẳng vị này, cho nên gọi là “Chư Bồ Tát”.
Vạn Hạnh: Còn “Vạn Hạnh” là gì? Tức là pháp môn tu hành rất nhiều. Nhiều là bao nhiêu? Có tám vạn bốn ngàn pháp môn! Vốn có thể nói là tám vạn bốn ngàn hạnh môn, ở đây tựa kinh đơn giản nói là “vạn hạnh”. “Vạn hạnh” là sở tu của Bồ tát.
Bồ tát không những tu vạn hạnh mà còn phải tu lục độ. Lục độ là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và Bát nhã.
1. Bố thí ba la mật: bố thí có ba loại, chứ không phải chỉ có một loại. Ba loại là gì? Là: 1.Tài thí, 2. Pháp thí, và 3. Vô úy thí.
1. Tài thí: “Tài” là chỉ tất cả tài sản vàng bạc, là thứ mà mỗi người đều quý trọng không nỡ xả bỏ, mà cũng là đồ nhơ bẩn nhất, không thanh tịnh nhất trên thế gian. Tiền bạc của chúng ta đếm lại đếm đi, không biết ở trên tay bao nhiêu người, trên đó không biết chứa đựng bao nhiêu là vi trùng, những thứ vi trùng này very dirty, rất dơ. Money is very dirty, tiền thì rất dơ. Why is it very dirty? Tại sao rất dơ? It's touched by every person's hand, vì bị mỗi người đụng tới. There are germs in this money, có rất nhiều vi trùng trên tiền.
Cho nên trong Phật giáo gọi tiền là “vật bất tịnh”. Vật bất tịnh vì nó là thứ không sạch sẽ. Tại sao gọi nó là thứ không sạch sẽ? Thứ nhất vì nguồn gốc không sạch, không rõ ràng, hoặc là trộm, hoặc là cướp, vì lai lịch không chánh đáng nên gọi là bất tịnh. Có người nói “Tiền mà tôi làm công kiếm được, không phải là bất tịnh?” Tiền mà quý vị làm công kiếm được, tuy lai lịch là chánh đáng, nhưng bổn thân của tiền chứa rất nhiều vi trùng. Quý vị xem, tiền không sạch sẽ như thế, nhưng mà mỗi người đều thích nó, đếm tới đếm lui, có người đếm tiền thì bôi nước miếng để đếm, trong đó rất dễ lây bệnh truyền nhiễm. Tại sao vậy? Vì trên những đồng tiền đó có rất nhiều vi trùng lây bệnh.
Tiền là thứ không sạch sẽ, nhưng mỗi người đều thích nó, càng nhiều càng tốt, bao nhiêu cũng cho không đủ. Tất cả tiền của nước Mỹ cho hết tôi, tôi cũng không cho là nhiều; cho hết quý vị, tin rằng quý vị cũng không cho là nhiều, nhưng tiền nhiều rồi, thì khuyết điểm cũng nhiều theo! Khuyết điểm gì? Ngũ không được, tính lại tính đi, ta có nhiều tiền như thế, để chỗ nào đây? Cứ thường tính toán như thế, vì thế tiền vốn là thứ không tốt. Tuy là một thứ không tốt như vậy mà mọi người đều thương tiếc như chính thân mạng của mình, mà không nỡ xả bỏ. Nếu quý vị có thể xả bỏ đó chính là bố thí; bố thí cho người chính là hành Bồ tát đạo. Bồ tát tu lục độ vạn hạnh, điều thứ nhất là cần phải bố thí, chính là đem tiền của mình bố thí cho người, giúp đỡ người, đó gọi là tài thí, dùng tiền bạc bố thí cho người.
Nhưng bố thí không phải là việc dễ làm, tâm của người thuộc “âm dương giao quan xứ”, là chỗ giáp mối của âm và dương; lại là “lý dục chiến tranh trường”, là chiến trường giữa lý và dục, lý là đạo lý, dục là desire, là dục vọng, là sự khát khao của con người. Chiếu theo đạo lý thì nói: “Tôi muốn bố thí, tôi thấy người đó gặp phải khó khăn, không có cơm ăn, tôi muốn cho ông ta một đồng, để ông ta đi mua cơm”, bèn đút tay vào túi lấy tiền ra cho. Nhưng, ngay trong lúc đó niệm thứ hai lại khởi lên: “Không được! Nếu mình cho ông ta một đồng, mình không còn tiền đi xe buýt, mình phải đi bộ, cái này… thôi đừng cho!” Cho nên, niệm thứ nhất thì muốn xả, niệm thứ hai thì sao? Thì lại nghĩ đến việc mình muốn đi xe buýt, bèn bỏ tiền trở lại túi, không muốn bố thí.
Như thế, từ vật nhỏ đến vật lớn – từ một đồng cho đến mười đồng, trăm đồng, ngàn đồng, vạn đồng, vạn vạn đồng đều là như vậy. Niệm đầu tiên muốn xả để bố thí, nhưng niệm thứ hai nghĩ đến mình: “Tôi muốn đi ăn, tôi không có tiền”, nên không giúp đỡ người nữa. Tài thí thật không dễ dàng. Thậm chí còn có tư tưởng: “Tôi bố thí, cho tiền người khác là tôi quá ngu. Tại sao người ta lại không bố thí tôi!” Thường trong lúc muốn bố thí, đồng thời cũng sanh ra cái tâm tự lợi; do vậy, bố thí nói thì dễ, lúc làm thì khó.
2. Pháp thí: Thế nào là pháp thí? Pháp thí là bố thí pháp. Như nay tôi giảng kinh thuyết pháp cũng chính là bố thí pháp. Có câu rằng: “Chư cúng dường trung, pháp cúng dường tối”, trong các cách cúng dường, pháp cúng dường là cao thượng nhất. Vì sao? Bởi vì bố thí tiền bạc thì có hạn lượng, bố thí pháp thì không có hạn lượng. Như tôi nay giảng kinh, quý vị nghe một câu kinh điển, nếu có thể khai ngộ, thật sự hiểu rõ, chứng đắc một cảnh giới, như vậy công đức của tôi rất lớn. Tại sao vậy? Vì tôi giảng kinh thuyết pháp có thể giúp quý vị thành Phật, quý vị thành Phật là do tôi giảng kinh thuyết pháp giúp quý vị thành, cho nên công đức pháp thí là lớn nhất.
3. Vô Uý Thí: Lại còn có vô úy bố thí. Bố thí vô úy là gì? Lúc người gặp phải những việc tai bay họa gởi, hoặc gặp những việc hoạnh nghịch. Gì là hoạnh nghịch? Như gặp phải những việc cướp bóc, hỏa tai, hoặc gặp những việc sợ hãi kinh hoàng. Lúc kinh hoàng sợ hãi, mình cho người ta sự an ủi giúp đỡ, nói: “Anh không nên sanh lòng lo lắng, bất cứ việc gì cũng có thể từ từ giải quyết!” Như có một bà làm mất tiền. Hôm đó tôi nhìn thấy gương mặt bà rất lo lắng, bà hỏi tôi rằng:
- Ôi! Con đã làm mất túi tiền, làm sao bây giờ?
Tôi bảo:
- Bà không nên lo lắng, bà sẽ tìm được túi tiền.
Kết quả lời tôi nói quả nhiên linh nghiệm, bà đến chỗ đó tìm, túi tiền vẫn còn nguyên chưa mất. Đó là vô úy thí. Khiến người giảm đi nỗi sợ hãi lo âu, đó chính là vô úy thí. Ở đây đưa ra chỉ là những vấn đề nhỏ, những vấn đề lớn khác càng nhiều; nhưng nếu chúng ta biết được những vấn đề nhỏ, thì những vấn đề lớn cũng dễ dàng hiểu rõ.
2. Trì giới Ba La Mật: Ở trên là lược nói độ thứ nhất trong sáu độ – bố thí. Độ thứ hai là Trì giới. Điều quan trọng nhất trong Phật giáo là giới luật. Vậy giới là gì? Giới là “chỉ ác phòng phi”, chỉ ác là đình chỉ, ngưng lại tất cả những việc ác; phòng phi là đề phòng tất cả tội lỗi sai lầm. Những gì sai lầm, không đúng gọi là “phi”, còn là đúng thì gọi là “thị”. Giới cũng tức là “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” – tất cả việc ác đều không làm, tất cả những việc lành đều làm.
Tôi nói cho quý vị một việc: Lúc nhỏ tôi không hiểu toán, lại không biết đếm. I don't know how to figure. Tại sao không biết đếm? Có tiền tôi liền cho người, trừ phi không có tiền; có một đồng cho một đồng, có hai đồng cho hai đồng, tự mình không muốn tiền. Điều này đối với người thường mà nói, thì có phải là quá ngu hay không? Mình không hiểu cách giúp đỡ mình, chỉ đi giúp đỡ người, tôi còn nhỏ thì là như thế, luôn mong muốn giúp đỡ người. Giúp người chính là làm lợi cho người, lợi người là Bồ tát phát tâm, Bồ tát phát tâm là muốn có lợi ích cho người, không phải có lợi ích riêng cho mình, tự mình nhẫn chịu lao khổ nhọc nhằn, chịu chút oan ức cũng được, mình không làm người bị oan ức, bị khổ. Chúng ta nên phải phát tâm như vậy, đó gọi là tâm lợi tha. Tâm lợi tha chính là tâm Bồ tát, tâm Bồ tát chính là “chúng thiện phụng hành”, tất cả việc lành đều phải làm.
Chúng ta chớ nên: “Để tính toán xem, coi mình có bị lỗ lã thiệt thòi hay không? Có bị gạt không? Có được lợi lạc gì không?”.
Ví như đi mua đồ, đi đến rất nhiều tiệm, xem đồ của hãng này, xem đồ của hãng kia, rồi so sánh: “Giá cả của công ty này rẻ, đồ lại tốt, mình bỏ tiền ít hơn”.
Vì thế nên mua đem về; mua rồi mới biết đó là một loại đồ hóa học. Đồ hóa học, nhìn thì rất tốt, rất đẹp, nhưng vừa dùng không bao lâu đã hư rồi. Cho nên, tuy quý vị muốn lợi mà kết quả thì lỗ, đó là chỉ biết tính lợi ích của mình, chỉ muốn đem phần lợi về cho mình. Chúng ta cần phải vì người mà tính, không nên quá tính toán cho mình.
Trì giới là “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”.
Vậy giới có bao nhiêu loại? Giới có rất nhiều loại, căn bản nhất là năm giới. Người tại gia học Phật sau khi quy y Tam bảo, nếu muốn tiến thêm một bước, thì cần phải thọ ngũ giới, thọ xong ngũ giới muốn tiến thêm một bước thì thọ tám giới; tám giới xong, thì thọ mười giới; thọ mười giới chính là giới Sa di. Sau khi thọ Sa di giới, làm người xuất gia, lại phải thọ hai trăm năm mươi giới, đó là Tỳ kheo; Tỳ kheo ni cần phải thọ ba trăm bốn mươi tám giới. Bồ tát cũng có giới, Bồ tát giới có mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, mười giới nặng, bốn mươi tám giới nhẹ. Mười giới trọng là tội rất nặng, giới trọng đã phạm rồi thì không thể sám hối, phạm các giới khinh thì có thể sám hối, sửa đổi lỗi lầm.
Khi Phật sắp nhập Niết bàn, A Nan thỉnh Phật chỉ dạy bốn việc: “Khi Phật còn tại thế, dĩ Phật vi sư, lấy Phật làm thầy, Phật là Sư phụ của chúng con; sau khi Phật nhập Niết bàn, ai là Sư phụ của chúng con?”.
Đức Phật bèn nói với A Nan rằng:
- Sau khi ta nhập Niết bàn, các ông phải lấy giới làm Thầy.
Đó là bảo người xuất gia, bảo tất cả Tỳ kheo, Tỳ kheo ni là phải “lấy giới làm thầy”. Vậy người tại gia nếu muốn cầu thọ giới, nhất định phải đến vị xuất gia cầu giới. Truyền giới chính là truyền trao giới cho quý vị, và nhất định phải do Tỳ kheo truyền giới, Tỳ kheo ni không thể truyền giới. Trong giới luật của Phật, không cho phép Tỳ kheo ni truyền giới. Giới có giới Sa di, giới Tỳ kheo, giới Bồ tát… rất nhiều loại.
Chúng ta muốn tu đạo thì nhất định phải thọ giới, giữ gìn giới thể thanh tịnh giống như bảo châu Ma Ni, có giá trị vô cùng.
Trước đây mấy ngày, tôi có giảng về Luật sư Đạo Tuyên ở núi Chung Nam, Ngài vì trì giới tinh nghiêm cho nên có thiên nhân đến cúng dường. Vì thế, giới đức vô cùng quan trọng! Người học Phật nếu không giữ giới luật, thì tu cái gì cũng giống như cái bình thủng. Cái bình dưới đáy có lỗ thủng, đổ nước vào liền chảy ra ngoài hết. Nếu có thể giữ giới, lâu ngày thì sẽ trở thành vô lậu.
Thân thể của chúng ta đều là thân hữu lậu. Đạo lý hữu lậu này, tôi nay không thể công khai giảng cho quý vị được. Các vị ai muốn học pháp môn vô lậu thì từng người từng người thưa hỏi: “Thế nào mới có thể được vô lậu”, tôi sẽ giảng cho nghe. Vì nay công khai giảng ở chỗ này thì không có cách giảng. Quý vị ai muốn vô lậu, thì tranh thủ thời gian đến cùng tôi giảng.
Nay tôi giảng pháp vô cùng mầu diệu này, nhưng pháp diệu, cần có người diệu đến thỉnh diệu pháp này. Người diệu này chính là Dịch Tượng Càn, pháp danh là Quả Dung. Ông ta khoảng bốn năm năm về trước đến đây, lúc đó Giảng Đường Phật Giáo còn đang ở đường Tát Đức, ông ta đến Phật Giáo Giảng Đường học ngồi thiền một thời gian. Nay nghĩ hè cũng đến đây. Nếu như trước kia có lẽ đi xem phim, hoặc là đi đá độ, đánh bài, thường đi tìm các thứ vui chơi. Nay tại sao như thế? Ông ta đã bị gạt. Bị cái gì gạt? Bị học kinh Lăng Nghiêm gạt!
Có người vừa nghe nói bị gạt là lạnh mình, nói: “Lần này là chết rồi, bị gạt rồi!” Tại sao bị gạt? Pháp hội Lăng Nghiêm này là một pháp hội khổ nhất, cũng là một pháp hội khó nhất, từ sáu giờ sáng đến chín giờ tối. Có người nói: “Ngay trong trường cũng không có học nhiều như vậy!”
Nhưng hiện nay chúng ta là một trường học “Muốn liễu thoát sanh tử”, trường học “hành giải tương ưng”([1][1]). Giảng kinh Lăng Nghiêm là giải, tọa thiền là hành, giải hành cùng tiến, đó mới gọi chân đạp thực địa, thân hành thực tiễn, một chút cũng không được qua quýt dễ dãi, một chút cũng không được gạt mình. Nếu quý vị gạt người thì cũng chính là gạt mình. Nay tôi nói quý vị bị gạt rồi, thật ra không phải gạt. Đó là muốn giải quyết vấn đề sanh tử của quý vị, tương lai đó là lợi ích lớn nhất của quý vị, nên nhất định giải hành cần phải đồng thời tu tập.
Giảng về “giải hành cùng tiến”, nay tôi đưa ra một ví dụ. Ví dụ gì? Có một kẻ mù và một kẻ liệt, hai người sống chung với nhau, ngoài ra còn có nhiều người đến giúp họ, vì thế có rất nhiều người cùng trú trong nhà. Một ngày kia, những người khác đều đi chơi, họ không phải đi học kinh Lăng Nghiêm, không phải đến Phật Giáo Giảng Đường tại thành phố Tam Phiên (San Francisco) để học kinh Lăng Nghiêm, mà đi đâu làm gì? Hoặc là đi câu cá, đi tắm biển, đi shopping, mua sắm…, nói chung là đi làm những việc người thế gian ưa thích, chỉ còn người mù và người liệt ở nhà.
Cũng vào dịp đó, căn nhà bị cháy. Vậy làm sao đây? Người mù nhìn không thấy, không thấy đường chạy ra; người liệt có mắt nhìn thấy, nhưng không có chân nên cũng không chạy được. Quý vị nói có tệ hại nguy hiểm không? Đây thật là tệ hại-Người Đài Loan cũng biết nói câu này: “Thật là tệ hại!” Tệ hại như thế nào? Người mù sắp bị thiêu chết, người liệt cũng sắp bị thiêu chết.
Nhưng trong lúc đó có một vị Thiện tri thức đến nói với họ rằng:
- Hai ông nay có thể không chết, có thể thoát khỏi căn nhà lửa này. Làm sao đây? Chỉ cần lấy mắt của người liệt cho người mù dùng, lấy chân của người mù cho người liệt mượn, hai quý vị giống như con lang con sói tương kết với nhau, cùng tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Nói con lang con sói câu kết với nhau, thì hình dung hơi quá đáng; nhưng tôi ngại rằng người không hiểu, nên đưa một ví dụ để so sánh.
Vậy chân của người mù cho người liệt mượn, mắt của người liệt cho người mù mượn dùng. Cách mượn như thế nào? Có phải móc mắt của người liệt ra đắp vào con mắt của người mù không? Lúc đó không có bác sĩ, cũng không thể làm phẩu thuật, tự móc mắt cũng không có ích dụng gì. Nếu đem chân của người mù nối vào chân người liệt, cũng không phải dễ dàng làm được, cũng không có bác sĩ này. Vậy phải làm sao đây? Đó mới gọi là “Nhân sự chế nghi, thông quyền đạt biến” - vận dụng linh hoạt tùy thời, ứng phó linh hoạt, tùy cơ ứng biến, chính là người mù cõng người liệt, người liệt chỉ đường cho người mù, nói đi qua phải, hay đi qua trái, hoặc bước thẳng trước mặt. Người mù có chân, nhưng không có mắt, không nhìn thấy, thì nghe theo lời người liệt chỉ huy. Do vị Thiện tri thức chỉ dạy như vậy, nên hai người đều có thể tự mình cứu mình ra khỏi căn nhà lửa.
Giảng ý nghĩa này, mọi người không nên hiểu lầm ý của tôi, nói: “Thầy nói con là người mù sao? Thầy nói con là người liệt sao?”
Không phải quý vị là người mù, quý vị là người liệt; tôi cũng là người mù, là người liệt, nhưng nay tôi biết đạo lý này để giảng ra. Đây cũng không phải nói quý vị, cũng không phải nói tôi, nhưng cũng là nói quý vị, mà cũng là nói tôi.
Mỗi người chúng ta đều không nên tự mãn, không nên cho rằng mình đã hiểu rõ rất nhiều, không nên cho rằng trí huệ mình rất lớn. Tại sao chúng ta vẫn chưa thành Phật? Chính vì mình quá tự mãn, cho rằng mình học được nhiều kiến thức. Kỳ thực học cái gì thì bị cái đó chướng ngại, quý vị có trí thức nhiều thì bị trí thức chướng ngại; quý vị có năng lực lớn thì bị năng lực chướng ngại. Vì có chướng ngại thì không thể thành đạo.
Nay chúng ta nên buông bỏ xuống những tư tưởng “tôi, anh, họ”, không cần nó nữa, phải làm an định những tư tưởng này, phải làm thanh tịnh những tư tưởng này, phải làm cho bụng của mình không không. Để làm chi vậy? Đầu tiên tôi bảo quý vị ăn ít một chút để chứa đựng pháp, nay tôi bảo quý vị làm sạch sẽ tư tưởng của quý vị. Làm sạch sẽ để chứa đựng gì? Để chứa vào diệu pháp đề hồ, chứa vào diệu pháp vô thượng!
Tôi còn nhớ năm ngoái có một cô, lời cô ta nói, tôi còn nhớ. Cô ta nói đầu của cô có rất nhiều rác, rất nhiều garbage, dọn dẹp không sạch, phải vậy không? Cô ta hiện nay đang học Tiến sĩ (Doctor degree). Vậy nay tôi căn cứ vào câu nói của cô, chúng ta mỗi người có thể bỏ đi những rác rưới trong đầu mình, làm sạch đi những tạp niệm cặn bã trong tâm của mình, sau đó nghe kinh, thì có thể một nghe ngàn ngộ, dễ dàng hiểu rõ. Nay buổi giảng này chỉ là mới bắt đầu, chưa có chính thức giảng vào kinh văn; tối nay tôi nhất định sẽ giảng hay hơn bây giờ nữa. Không phải gạt quý vị, cũng không gạt tôi, tôi biết tôi giảng rất hay.
Lời Ban biên tập: dưới đây là bắt đầu thời giảng khác của Thượng nhân:
Nay nói tiếp đề kinh, “Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm kinh”, đề tên của bộ kinh này rất dài, có tới hai mươi chữ: mười chín chữ trước là tên riêng của kinh, chữ “Kinh” cuối cùng là tên chung. “Chư Bồ Tát” tức là tất cả Bồ tát đều bao gồm ở trong; “vạn hạnh”, đó là vạn hạnh mà Bồ tát phải tu. Bồ tát tu lục độ vạn hạnh, ở trên đã nói qua hai độ bố thí và trì giới, còn bốn độ.
3. Nhẫn nhục Ba La Mật: Độ thứ ba là “nhẫn nhục.” Nhẫn nhục có ba loại: sanh nhẫn, pháp nhẫn và vô sanh pháp nhẫn.
4. Tinh tấn Ba La Mật: Tinh tấn là tinh tấn hướng về phía trước không lùi về sau. Vị tinh tấn nhất là Bồ tát Dược Vương trong phẩm “Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự” trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ngài tự đốt thân mình cúng Phật, ngài quấn bông gòn chung quanh mình, tưới dầu thơm, trước Phật đốt thân cúng dường Đức Phật. Nếu muốn biết rõ, quý vị có thể nghiên cứu Kinh Pháp Hoa. Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự nói rất rõ ràng.
Tại sao Bồ tát Dược Vương đốt thân cúng Phật? Vì Ngài cảm thấy ân đức của Phật rất sâu dày, rất to lớn, không gì có thể báo đáp ân đức đó, cho nên đem hết thân tâm sanh mạng mình đốt lên cúng dường Phật. Ngài đốt đến bao lâu? Rất lâu, lâu đến nỗi không kể xiết.
Cho nên Thiên Thai Trí Giả Đại sư khi xem Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đọc đến phẩm Dược Vương Bồ tát, tới đoạn: “Thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp cúng dường Như Lai” - đó thật là tinh tấn, đó gọi là thật sự sử dụng chân tâm vì Phật pháp, cúng dường Phật. Khi đọc đến chỗ này, Trí Giả Đại sư liền nhập định, trong định thấy pháp hội Linh sơn, thấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn còn ở đó thuyết pháp, chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sanh, vì thế Ngài liền chứng ngộ Pháp Hoa Tam-muội, vào Pháp Hoa tam muội, đắc được đệ nhất Triền đà-la-tông ([2][2]). Sau khi xuất định, trí huệ ngài liền mở rộng, vì thế kiến lập Thiên Thai Tông, thành Sơ tổ của Thiên Thai Tông.
Công đức đốt thân cúng Phật của Ngài Bồ tát Dược Vương thật bất khả tư nghì, đó mới là thật sự tinh tấn. Không phải như chúng ta, nhổ một sợi lông tơ cũng không nỡ, nên có câu: “Bạt nhất mao dĩ lợi thiên hạ, bất vi dã”. Nhổ đi một sợi lông tơ mà có lợi ích cho tất cả thiên hạ cũng không làm. Tại sao vậy? Đó là vì chỉ biết tự lợi, mà không biết lợi tha, nên không được gọi là tinh tấn.
5. Thiền định Ba La Mật: Thiền định có tứ thiền, bát định, mà kinh Lăng Nghiêm giảng chín bậc thiền định, cái này đến lúc giảng đến chánh văn tôi sẽ nói rõ ràng hơn, nay không nói chi tiết làm gì.
Đệ tử hỏi: “Tứ thiền bát định là gì?”
Thượng nhân: Tứ thiền có bốn loại thiền – sơ thiền thiên, nhị thiền thiên, tam thiền thiên, tứ thiền thiên. Đạt đến cảnh giới Sơ thiền, cảnh giới của Sơ thiền là “ly sanh hỷ lạc địa”, đạt đến cảnh giới hoan hỷ, mạch ngừng nghỉ, nhưng tự mình cảm thấy vô cùng hoan hỷ, đó gọi là ly sanh hỷ lạc địa. Ở Sơ thiền định lực vẫn chưa kiên cố, cho đến Nhị thiền định tức là cảnh giới “ định sanh hỷ lạc địa,” thì định lực kiên cố hơn ở Sơ thiền nhiều, nên hơi thở cũng đoạn luôn. Đến trình độ Nhị thiền, hơi thở của quý vị sẽ đình chỉ; lỗ mũi cũng không có hơi ra vào. Vậy có phải là đã chết rồi không? Không phải vậy, đó chỉ là một cảnh giới. Sự hô hấp bên ngoài đã đoạn, sự hô hấp bên trong sống dậy. Chúng ta đều là hô hấp bên ngoài, không hô hấp bên trong được. Nếu hô hấp bên trong được, người đó sẽ không chết, muốn sống bao nhiêu năm cũng được, nhưng sống lâu rồi thì biến thành quỷ giữ thây, không có ích dụng gì! Chỉ canh giữ túi da thúi này, thì có ích dụng gì đâu!
Đến Tam thiền thì sao? Thức của quý vị cũng đoạn luôn, niệm cũng đoạn luôn.
Tam thiền gọi là “ly hỷ diệu lạc địa”. Hỷ cũng lìa bỏ, người tu hành nếu nói happy, chính là hoan hỷ, rất hoan hỷ. Loại an lạc của tam thiền này vô cùng vi diệu. Ly hỷ, lìa bỏ cái hỷ, mà đắc được cảnh giới diệu lạc này.
Tứ thiền là “xả niệm thanh tịnh địa”, buông bỏ tất cả niệm thức. Nhập vào loại định thứ tư này mới là tiến một bước trên đường tu đạo.
Nhưng, quý vị không nên cho rằng chứng được Tứ thiền là việc quá tuyệt vời, đó chỉ là sơ bộ, mới tiến một bước về quả vị Phật, vẫn chưa chứng đắc quả A la hán. Lúc đó, tất cả những việc trên trời dưới đất quý vị đều có thể biết, nhưng biết rồi cũng không nên chấp vào cảnh giới này. Đó là đại khái cảnh giới của tứ thiền. Bát định nói đến thì rất dài, nay không giảng đến.
6. Bát nhã Ba la mật: “Bát nhã” là tiếng Ấn Độ, Trung Quốc dịch là trí huệ. Gì là trí huệ? Người thường cho rằng thông minh của người thế gian là trí huệ, kỳ thực không phải như vậy. Thông minh là trí huệ thế gian, trí huệ là xuất thế gian trí. Trí huệ thế gian như khoa học, triết học, thanh, quang, điện, hóa v.v…, tất cả những gì mà khoa học phát minh ra đều gọi là trí huệ thế gian, không phải là trí huệ xuất thế gian. Nay trí huệ này là trí huệ xuất thế gian. Vậy trí huệ xuất thế gian là gì? Đó chính là trí huệ thành Phật. Trí huệ thành Phật cũng không chỉ là một loại, mà là ba loại. Vì sao chữ “Bát nhã” giữ nguyên không phiên dịch? Vì nó bao hàm ba ý, đây là thuộc “đa hàm bất phiên” (nhiều ý nghĩa không phiên dịch) trong ngũ chủng bất phiên (năm loại không phiên dịch), vì hàm nhiều ý nghĩa, nên không phiên dịch ra. Vậy, ba loại Bát nhã là gì?
Thứ nhất là “văn tự Bát nhã”, tất cả kinh điển đều là văn tự Bát nhã.
Thứ hai là “quán chiếu Bát nhã”, dùng trí huệ quán chiếu, hồi quang phản chiếu, phản văn văn tự tánh. Mắt của quý vị vốn thường xem bên ngoài, nay không xem bên ngoài nữa mà phải xem bên trong quý vị, đó gọi là hồi quang phản chiếu – quay trở về chiếu tự tánh của mình. Quý vị có thể hồi quang phản chiếu, đó gọi là quán chiếu Bát nhã; quán là “quán sát”, chiếu là “quang minh phổ chiếu”. Nếu quý vị dùng ánh quang minh trí huệ đạt được do sự quán sát để chiếu phá hắc ám bên trong quý vị, chiếu sạch sẽ bên trong quý vị, chiếu cho được thanh tịnh, không còn rác rưỡi dơ dáy bẩn thỉu ô nhiễm, thì đó là một loại trí huệ quán chiếu.
Ngoài ra, còn có một loại Bát nhã bất khả tư nghì nhất, diệu mầu nhất là thực tướng Bát nhã. Cái gì là thực tướng? Thực tướng Bát nhã chính là “liễu nghĩa” mà bộ kinh này nói đến. Liễu nghĩa cũng là thực tướng, thực tướng cũng chính là liễu nghĩa. Nếu quý vị không hiểu thực tướng là gì, nói rằng: “Danh từ này đối với tôi thật là xa lạ, tôi không biết giải thích nó như thế nào? ”
Nó chính là liễu nghĩa, liễu nghĩa chính là thực tướng. Thực tướng là gì? “Thực tướng giả, vô tướng dã” Thực tướng thì không có tướng nhưng không gì không tướng (thực tướng vô tướng, vô sở bất tướng), quý vị nói nó không có tướng à? Nó cái gì cũng đều là tướng, nên gọi là thực tướng.
Cảnh giới “Thực tướng giả vô tướng dã, vô sở bất tướng dã” này nếu quý vị hiểu rõ thì làm hàng xóm với Phật, chỉ cách Phật có một bước. Nhưng cảnh giới này nói thì dễ, mà chứng đắc thì không phải dễ dàng. Tuy không dễ dàng, nhưng chúng ta cũng phải nghĩ cách đi trên con đường này. Nếu nói khó khăn thì tôi không đi nữa, như nói: “Tôi muốn đi Nữu Ước, nhưng xa quá, ngồi máy bay tốn rất nhiều tiền, ngồi xe hơi cũng tốn rất nhiều tiền, vậy tôi không muốn đi nữa”. Quý vị không muốn đi, thì vĩnh viễn không đến được Nữu Ước, Nữu Ước như thế nào quý vị sẽ không biết. Thành Phật cũng như vậy, quý vị muốn thành Phật, nhưng vì con đường quá xa xôi, trải qua thời gian rất dài, quý vị nhìn biển cả than mình nhỏ bé, nói: “Ôi! sao mà khó khăn như thế, tôi không học Phật pháp nữa đâu, tôi tìm việc gì dễ dàng một chút mà làm! ” Vậy quý vị vĩnh viễn sẽ không thành Phật. Nếu quý vị không muốn thành Phật, vậy thì không có gì để nói, vậy tùy ý quý vị. Nhưng nếu quý vị muốn thành Phật, thì cần phải gắng sức vượt qua những khó khăn. “Nhân giả tiên nan nhi hậu hoạch”, người nhân trước nhất định phải trải qua một phen khó khăn gian khổ, sau đó mới có thể đạt được sự dễ dàng. Cổ đức có câu:
“Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt,
Chẩm đắc mai hoa bộc tỷ hương? ”
Dịch:
Không trải qua mùa đông buốt giá,
Hoa mai sao nở được mùi thơm?
“Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt”, nếu không trải qua một phen lạnh cóng buốt xương, thì “Hoa mai sao nở được mùi thơm?”
Trung Quốc có một loại hoa mai rất thơm, không giống như hoa mai của nước Mỹ, hoa mai của nước Mỹ không thơm tí nào. Hoa mai Trung Quốc, nếu quý vị có một cây hoa mai này, cách xa một hai dặm, đều có thể ngửi được mùi thơm này, mùi thơm ngào ngạt. Tại sao nó thơm như vậy, vì nó qua được mùa đông lạnh cóng, nó nở hoa vào mùa đông cho nên rất là thơm.
Nói đến thực tướng Bát nhã, có phải là có người có, có người không có? Không phải vậy! Mỗi chúng sanh đều có loại Bát nhã này, mỗi chúng sanh đều có trí huệ thực tướng. Nhưng cũng giống như “Mật nhân” mà trong kinh này nói đến, chỉ mình không biết làm cho nó hiển hiện ra mà thôi; tài sản của báu vốn có của mình, mà mình không hay biết, nên làm kẻ bần cùng. Tự tánh Bát nhã của chúng ta, là thực tướng vốn có đầy đủ, nhưng vì tự mình không hiểu rõ, để đến nỗi biến thành một kẻ nghèo nàn đối với pháp.
Kinh Kim Cang nói: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”. Tất cả những gì có tướng, đều là giả; nếu quý vị có thể ở trên tướng mà biết nó là vô tướng, thì thấy được Như Lai. Quý vị hiểu rõ bổn thể của pháp, nghiên cứu cùng tận nguồn gốc của pháp, thì cũng giống như thấy Phật vậy. Quý vị thấy được nguồn gốc của tất cả pháp, chính là thấy Phật. Cho nên, thực tướng Bát nhã này chính là trí huệ mà mỗi người chúng ta đều có, nếu chúng ta mở cửa kho báu trí huệ này, thì mới có thể hiển hiện ra bổn lai diện mục của chúng ta.
Điều này giống như gì vậy? Trong quá khứ chúng ta không biết có thực tướng Bát nhã, giống như trong mỏ vàng chứa đầy vàng mà không ai hay biết, vậy tuy có vàng, nhưng không ai biết, thì vàng sẽ không hiện ra. Có người tuy biết trong mỏ có vàng, nhưng biết thì biết, lại không đi khai thác mỏ vàng này, thì cũng giống như không biết vậy, cũng không thể được vàng. Vậy thì cần phải làm sao? Cần phải khai thác mỏ này, dùng nhân công nỗ lực đi khai thác vàng này, thì vàng mới hiện ra, mới có thể biến nó thành vàng ròng! Đó cũng chính là gì? Chúng ta mỗi người đều có mỏ vàng, nhưng không biết. Mỏ vàng chính là thực tướng Bát nhã.
Nay chúng ta nghe kinh, biết thực tướng Bát nhã này, biết thì biết, nếu chúng ta không lợi dụng được thực tướng Bát nhã, cũng không đi khai quật khai thác mỏ thực tướng Bát nhã của chính chúng ta, vậy thì cũng như không biết vậy. Có người phát tâm dũng mãnh tinh tấn tu hành, khai thác mỏ thực tướng trong tự tánh của mình, mở cái mỏ này, hiện ra Phật tánh vốn có: “A! Tôi vốn chính là Phật!”
Đúng vậy! Tất cả mọi người đều là Phật, như đức Phật Thích Ca đã từng nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và đều có thể làm Phật (nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật).” Nhưng, chúng ta không thể nói: “Tôi vốn là Phật, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể làm Phật. Phật nói tôi là Phật, vậy tôi chính là Phật rồi, tôi cũng không cần phải tu hành nữa” . Quý vị không tu, thì như cái mỏ vàng kia, quý vị biết nó là mỏ vàng, nhưng quý vị không khai thác, quý vị nói vàng đó quý vị có thể lấy được không? Không được đâu, nên phải lo tu a! Lục độ này là như thế.
Trên đã nói về Lục độ. Còn “Ba la mật” nghĩa là gì? Ba la mật nghĩa là thành công cứu cánh. Quý vị làm việc gì thành công rồi, viên mãn rồi, đó gọi là Ba la mật. Quý vị muốn tu Phật, cuối cùng thành Phật gọi là Ba la mật; quý vị muốn học để đạt được học vị Tiến sĩ, được bằng Tiến sĩ rồi, đó cũng là Ba la mật; bụng đói, nói tôi muốn ăn cơm, ăn no rồi, là Ba la mật; quý vị muốn ngủ, nằm đó ngủ xong giấc, đó cũng là Ba la mật. Nhẫn nhục cũng là Ba la mật, tinh tấn cũng gọi là Ba la mật, thiền định là Ba la mật, bố thí, trì giới, Bát nhã đều là Ba la mật. Việc gì làm thành công, viên mãn đều gọi là Ba la mật. Tiếng Ấn Độ gọi là “Ba La Mật”, Trung Quốc có một loại trái cây gọi là ba la mật (trái khóm), rất ngọt, vì thế việc gì làm viên mãn, đạt được quả ngọt thì gọi “Ba la mật”. Lục độ Ba la mật này là những hạnh môn mà Bồ tát hành.
Mỗi người đều có thể học Bồ tát phát tâm, hành Bồ tát hạnh, làm việc Bồ tát, đó là Bồ tát sơ phát tâm. Bồ tát thì không ích kỷ, nói: “Chỉ có ta làm Bồ tát, ngươi không thể làm Bồ tát, ngươi không thể so sánh được với ta!” Không phải vậy! Không những chúng ta có thể làm Bồ tát, mà còn có thể làm Phật. Mọi người đều có thể làm Phật, tôi tin rằng mỗi người hiện có mặt tại đây, đều biết mình có thể thành Phật, nhất là những người nghiên cứu Phật học lâu năm, càng biết đạo lý này, nên tôi không nói nhiều.
VI. Thích Thủ Lăng Nghiêm
Thủ Lăng Nghiêm: Thủ có nghĩa là đệ nhất, tức là đầu một việc. Đầu một việc là gì? Là Lăng Nghiêm. Lăng Nghiêm (Shurangama) là tiếng Ấn Độ, dịch thành tiếng Trung là: “Nhứt thiết sự cứu cánh kiên cố”. Nhất thiết sự là gì? Nhứt thiết sự chính là việc gì cũng đều bao gồm ở trong, tất cả sơn hà đại địa, nhà cửa phòng ốc, tất cả người vật, noãn thai thấp hóa, mọi vấn đề, các thứ đạo lý… đó đều gọi là nhất thiết sự.
Tất cả mọi việc này có thể triệt để kiên cố. Thế nào là triệt để kiên cố? Tức có thể đắc được bổn thể của định, đắc được định của “Mật nhân”. Đắc được định của “Mật nhân” mới có thể chứng đắc quả “Liễu nghĩa”, chứng đến trình độ liễu nghĩa, lại tu “Bồ tát lục độ vạn hạnh”, thì đắc được đại hạnh; đắc đại hạnh rồi sau đó thành tựu quả của đại định “nhất thiết sự cứu cánh kiên cố”, tức là đại quả. Nên Đại Phật Đảnh này, chính là đại nhân, đại nghĩa, đại hạnh, đại quả. Đạt đến chỗ diệu của bốn loại quả này, nên lại có thể gọi là diệu nhân, lại có thể gọi là diệu nghĩa, lại có thể gọi là diệu hạnh, lại có thể gọi là diệu quả. Tuy bốn loại nhân, nghĩa, hạnh, quả này đều đắc được chữ “diệu” rồi, song chữ “diệu” vẫn không thể hoàn toàn thay thế hết bốn ý nghĩa trên, nên dùng chữ “đại”.
“Nhất thiết sự cứu cánh kiên cố” là định. Định này khác với bất định, định này và bất định là hai thứ không giống nhau. Cái gì gọi là bất định? Như chúng ta muốn làm một việc gì mà do dự không nhất định, muốn đi phía trước, nhưng chân lại không nghe lời, vì thế bèn đi về phía sau; muốn đi phía nam thì chân không nghe lời nên phải đi về phía bắc, muốn làm việc tốt nhưng không làm chủ được, bèn đi làm việc xấu, đó gọi là bất định, do dự không nhất định. Giống như làm việc không có hằng tâm, thì gọi là không có kiên cố, hằng tâm chính là tâm thường hằng bất biến. Vì thế, nay chúng ta học tập kinh Lăng Nghiêm, mỗi người chúng ta nên đầy đủ ba điều kiện: “Kiên, Thành, Hằng.”
“Kiên” là tâm kiên cố, vĩnh viễn bất biến, nói: “Lần này tôi học kinh Lăng Nghiêm, bất luận như thế nào đi nữa, cũng học cho hiểu được đạo lý này mới thôi”, không thể giữa đường mà đánh trống rút lui, không thể học được một nửa bèn nói: “Học lâu ngày như thế mà cũng không hiểu. A! Cái này khó quá, thôi không học nữa!” Đó gọi là “bán đồ nhi phế”, nửa đường bỏ phế. Đó không phải là kiên cố.
“Thành” là tâm thành khẩn, chuyên cần, niệm niệm không quên, học tập kinh điển cần phải tinh tấn miệt mài đến mức quên cả ăn uống, vui mừng mà quên lo. Tôi quyết chí đến đây học kinh Lăng Nghiêm, tôi nhất định học cho hiểu. Tôi nằm đó nhưng không ngủ, lúc này tôi không có khởi ra những vọng tưởng gì khác, chỉ nghĩ: “Tôi nghe kinh, nghe những đạo lý gì? Những gì nghe được có ý kiến gì không?” có một loại thành tâm như thế. Chữ “Thành” tức là không giao động, thành khẩn học tập bộ kinh này.
“Hằng” là tâm hằng viễn, không đổi dời, không phải học hai hoặc ba ngày rồi rút lui: “A, Kinh này khó quá! Phật pháp thật là khô khan vô vị, học tới học lui không có gì hứng thú, hay là đến công viên hoặc là đến chỗ nào khác chơi, còn hay hơn. Nghiên cứu kinh điển không có thực dụng, nay là thế giới khoa học, nghiên cứu các thứ cũ rích này, thật không có thú vị gì”. Thế là trốn mất, đó là không có hằng tâm. Không có hằng tâm thì không phải cứu cánh kiên cố; quý vị có hằng tâm, chính là cứu cánh kiên cố; có thành tâm, chính là cứu cánh kiên cố. Quý vị có tâm kiên cố thành khẩn và tâm hằng viễn thì càng là cứu cánh kiên cố, đó chính là có định lực. Tóm lại không vì bất cứ hoàn cảnh nào làm cho thay đổi chuyển dời, đó chính là định lực.
VII. Thích Kinh
Đây là đại khái ý nghĩa của tựa kinh này. Mười chín chữ này là tên riêng của bộ kinh, dưới đây chỉ giải thích một chữ kinh, đây là tên chung của tất cả kinh điển.
Kinh: tiếng Ấn Độ gọi là “Tu Đa La” (Sutra), Tàu gọi là “Khế kinh”. “Khế” là khế hợp. Thế nào gọi là khế hợp? Là nói bộ kinh này trên khế hợp lý của Chư Phật, dưới khế hợp với căn cơ của chúng sanh, phàm là khế lý khế cơ thì gọi là kinh. Kinh có bốn ý nghĩa, tôi trước kia đã giảng rồi, nhưng có người chưa nghe qua, nay nói lại. Kinh có nghĩa là gì? Kinh là con đường. Tại sao gọi là con đường? Vì tất cả kinh đều có thể giúp chúng ta từ phàm phu đạt đến quả vị Phật, đạt đến quả vị Thánh nhân cho nên đi con đường này gọi là kinh, là một con đường. Kinh lại có bốn ý nghĩa là “quán, nhiếp, thường, pháp”.
“Quán” là quán xuyên thấu suốt. Quán xuyên cái gì? “Quán xuyên sở thuyết nghĩa” những nghĩa lý mà Phật thuyết ra giống như dùng một sợi dây kết lại thành một xâu, đó là “quán”.
“Nhiếp” là nhiếp trì sở hóa cơ. Gì là cơ? Đó là đối với tất cả chúng sanh, chúng sanh nào thì thuyết pháp gì, thuyết pháp gì thì độ chúng sanh nào, cho nên nói “Tùy người thí giáo, tùy bệnh cho thuốc”. Vì người này nên thuyết pháp này, đó gọi là tùy căn cơ mà thí giáo. Tùy bệnh cho thuốc, nhìn mỗi chúng sanh có bệnh gì, thì cho thuốc đó. Đó gọi là “Vì bệnh cho thuốc” – đó còn gọi là quán xét căn cơ mà thí giáo, vì người thuyết pháp. Đó gọi là nhiếp trì sở hóa cơ.
“Thường” là gì? Xưa nay không thay đổi gọi là thường. Từ xưa đến nay cũng không thay đổi, một chữ cũng không bỏ, một chữ cũng không thêm, vì không có thay đổi, nên gọi là kinh, gọi là thường.
Còn “pháp”? “Tam thế đồng tôn viết pháp”. Tam thế là ba đời: đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Chúng sanh trong ba đời đều nên tôn sùng pháp mà tu đạo, mà thành Phật, mà giáo hóa chúng sanh, đều nên y theo pháp mà làm. Bởi đầy đủ bốn ý nghĩa “quán, nhiếp, thường, pháp” nên gọi đó là kinh.
Kinh giống như cục nam châm hút sắt, chúng sanh như thỏi sắt, sắt gặp phải nam châm liền bị hút vào, nên chữ “Nhiếp” vừa nói ở trên thì có ý nghĩa này. Phật pháp giống như khối nam châm, chúng sanh như thỏi sắt, nam châm hút sắt thì hút chặt vào cục nam châm. Nay giảng kinh Lăng Nghiêm, đây là cục nam châm Lăng Nghiêm hút sắt.
Sao gọi là kiên cố? Cục nam châm cũng kiên cố, nhưng kinh Lăng Nghiêm kiên cố hơn, nếu hút chúng sanh rồi, thì tuyệt đối sẽ không bao giờ đọa lạc nữa, không còn đọa địa ngục, thành ngạ quỷ, hay làm súc sanh nữa. Tại sao vậy? Vì đã được đại định kiên cố hút chặt, muốn chạy cũng chạy không được, muốn thoát cũng thoát không xong. Thật là vô cùng huyền diệu! Cho nên lần này, người không đến nghe kinh thì thôi, người vừa đến nghe kinh thì sẽ bị hút chặt; hút đến nỗi nghe đoạn này xong lại muốn nghê đoạn khác: “A! Thật là có ý nghĩa, mùi vị rất ngọt ngào!” Ý nghĩa của kinh đại khái là như thế.
Toàn bộ Đại Tạng kinh Phật giáo, chia làm mười hai bộ (mười hai phần kinh), cũng có thể gọi là mười hai loại, cũng có thể gọi là mười hai môn. Tóm lại là có mười hai bộ, những bộ này là gì?
Bộ thứ nhất là Trường hàng. Trường hàng là gì? Là trong kinh có từng hàng từng hàng rất dài, nên gọi Trường hàng.
Bộ thứ hai là Trùng tụng, có nghĩa là dùng kệ tụng nói lại một lần ý nghĩa kinh văn của Trường hàng, gọi là Trùng tụng.
Bộ thứ ba là Thọ ký. Gì là thọ ký? Trong kinh điển thường đề cập Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ ký cho một vị Bồ tát nào đó, như: “Ông vào một kiếp nào đó, sẽ thành Phật, danh hiệu là gì đó, thọ mạng bao lâu, giáo hóa chúng sanh bao nhiêu, ở quốc độ nào…” đều nói trước rõ ràng, đó gọi là thọ ký. Như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là do Đức Phật Nhiên Đăng truyền ký cho Ngài nên gọi là thọ ký.
Lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở nhân địa – tức là lúc hành đạo Bồ tát, cầu Phật pháp. Quý vị đoán xem thành tâm của Ngài đã thể hiện như thế nào? Khi hành Bồ tát đạo, gặp Đức Phật Nhiên Đăng, Ngài từng trải tóc che bùn. Trải tóc che bùn là thế nào? Bồ tát thấy Đức Phật Nhiên Đăng bước đến. Đức Phật Nhiên Đăng lúc đó cũng là một vị Tỳ kheo, nhưng Ngài đã thành Phật rồi. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không chắc biết vị Tỳ kheo ấy là Phật, nhưng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lúc đó đang ở nhân địa tu hành, vì Ngài cung kính Tam bảo, nên hành đủ thứ khổ hạnh. Khi đang đi trên đường, thấy vị Tỳ kheo đi ngang qua một con đường. Mà con đường này như thế nào? Con đường này rất lầy lội, lại có nhiều nước. Nên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, quý vị đoán xem Ngài làm gì? Ngài nói: “Ôi! Chỗ này lầy lội như thế, vị Tỳ kheo già này đi qua, không phải là sẽ ướt hết mình và chân sao?”
Vì thế, bèn nằm trên nước, thỉnh vị Tỳ kheo già đạp trên thân thể ngài mà đi qua. Nhưng vẫn còn một chỗ bùn lầy, ngài sợ chân vị Tỳ kheo sẽ đạp vào trong bùn, vì thế xổ mái tóc của mình ra, trải trên chỗ bùn đó để cho vị Tỳ kheo đó đi qua, để đôi chân của Ngài không bị bùn làm dơ.
Nào hay vị Tỳ kheo già đó chính là Đức Phật Nhiên Đăng. Đức Phật Nhiên Đăng nhìn thấy sự cúng dường thành tâm như thế, rất hoan hỷ, bèn nói: “Như thị, như thị!” Tức là ông như vậy, tôi cũng như vậy. Nói “Như vậy chính là như vậy!” Các ông không phải thường nói “Chính là như vậy sao?” Đức Phật Nhiên Đăng thọ ký cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng tức là: “Chính là như thế! Ông cũng là như thế, tôi cũng là như thế, chính là như vậy!” Như vậy là gì? Tức là hành Bồ tát đạo thì như vậy. Nói: “Ông nay cúng dường cho ta, nằm trên bùn để ta đi qua; ta xưa kia cũng như thế, ta cũng hành Bồ tát đạo như vậy. Ông đã làm đúng!”
Bởi vì Đức Phật Nhiên Đăng quá khứ hành Bồ tát đạo cũng như vậy, nên cho rằng tu hành như vậy là đúng, và liền thọ ký cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: “Ông tương lai sẽ được làm Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni, bèn thọ ký cho Ngài”. Do vậy, kiếp này Đức Thích Ca Mâu Ni thành Phật, đó là do Đức Phật Nhiên Đăng thọ ký cho Ngài. Tại sao lại thọ ký cho Ngài? Do vì lòng thành tâm của Ngài cảm động Đức Phật Nhiên Đăng, cho nên vị cổ Phật này bèn thọ ký cho Ngài.
Bộ thứ bốn là Nhân duyên, do vì đủ các nhân duyên mà thuyết vô số pháp môn.
Bộ thứ năm là Tỷ dụ, là lấy một vật gì đó để tỷ dụ cho một việc khác, dùng ví dụ để bày ra nói rõ chỗ vi diệu của Phật pháp.
Bộ thứ sáu là Bổn sự, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni kể lại những việc tiền sanh của Ngài, hoặc là những chuyện tiền sanh của một vị Bồ tát.
Bộ thứ bảy là Bổn sanh, là nói về những hành trạng trong đời này của Đức Phật Thích Ca hoặc là những sự việc trải qua trong đời này của một vị Bồ tát. Gọi là Bổn sanh.
Bộ thứ tám là Phương quảng, phương là tứ phương, quảng là rộng lớn, pháp nói ra rất rộng lớn, vô cùng tinh vi.
Bộ thứ chín là Vị tằng hữu, từ trước chưa bao giờ thuyết ra, mà nay mới nói.
Bộ thứ mười là Vô vấn tự thuyết, không đợi ai thưa thỉnh mà Đức Phật tự mình phóng quang động địa thuyết ra pháp này.
Bộ thứ mười một là Cô khởi, cũng gọi là phúng tụng, là trong một đoạn kinh nào đó không có nối liền với đoạn văn trước, cũng không có quan hệ với đoạn văn sau, mà là kệ tụng độc lập.
Bộ thứ mười hai là Luận nghị, là giảng về một vài luận nghị.
Trên đây là mười hai bộ, cho nên có bài kệ rằng:
Trường hàng, trùng tụng, tịnh thọ ký,
Cô khởi, vô vấn nhi tự thuyết,
Nhân duyên, tỷ dụ, cập bổn sự,
Bổn sanh, phương quảng, vị tằng hữu
Luận nghị, cộng thành thập nhị bộ,
Quảng lục đại luận tam thập tam.
Đây là Đại Trí Độ Luận nói tên của mười hai bộ kinh. Quý vị muốn hiểu biết tường tận rõ ràng, có thể nghiên cứu tham khảo Đại Trí Độ Luận, trong đó giải thích rất tỷ mỷ sự phân loại mười hai bộ kinh điển.
Mười hai bộ này có phải là Tam Tạng Kinh điển chỉ có mười hai bộ kinh, và được phân loại theo mười hai bộ này? Không phải vậy, kỳ thực mỗi một bộ kinh đều đầy đủ ý nghĩa mười hai bộ này, đây chỉ thuyết minh trong kinh điển có nội dung cùng với thể tài của mười hai bộ này mà thôi.
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong buổi tọa đàm về chủ đề “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 16 tháng 3 năm 1987
Thế nào gọi là Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân? Thế nào gọi là Đại Phật Đảnh Tu Chứng Liễu Nghĩa? Thế nào gọi là Đại Phật Đảnh chư Bồ tát Vạn Hạnh.Thế nào gọi là đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm? Đây đều gọi là “Đại Phật Đảnh”, quý vị giảng như thế nào đều có ý nghĩa.
Thế nào là “Mật Nhân”? “Mật Nhân” tức là một loại trí huệ của người. Thế nào gọi là không phải “Mật Nhân”? Tức là ngu si, vô minh. Những chủng tử thiện là “Mật Nhân”, chủng tử ác thì không phải là “Mật Nhân”. Điều này giảng ra, giảng như thế nào đều đúng, chủ yếu là quý vị phải thông suốt hiểu rõ. Nếu thông suốt rồi thì không vào mà không tự đắc; nếu không thông thì hướng về chỗ này đụng phải vách tường, hướng về chỗ khác thì đụng đầu. Cho nên đối với kinh điển, nhất định phải thông suốt vô ngại, cần phải thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển.
“Liễu Nghĩa” này chính là cùng tận, không có dư thừa, không nhiều cũng không ít, chính là Trung Đạo; “Trung Đạo Liễu Nghĩa” tức là không nhiều, cũng không thiếu, cũng không nhiều, không ít, đó là “Liễu Nghĩa”.
Nếu không giảng hoàn toàn đầy đủ, lần sau có thể tiếp tục, vì điều này rất quan trọng. Nếu thông suốt rồi thì giảng ngang, giảng dọc, nói trần nói sát, nói gì cũng đều thông suốt, đó mới gọi là thông suốt, không phải chỉ pháp hội của chúng ta giảng như thế, quý vị cảm thấy: “A, giảng ngũ giáo, tôi đã hiểu được ngũ giáo! Giảng tứ giáo, tôi hiểu được tứ giáo”, cảm thấy: “Duy thức, pháp tướng, mỗi mỗi đều có cách giảng, vậy tôi thôi đi”. Quý vị cần phải thông suốt “Mật Nhân” mới được, “Mật Nhân” chưa thông suốt, không đạt, thì cái học ghi chép và nghe này không được! Vì “Mật Nhân”, quý vị cần phải thông suốt, cần phải thật sự thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải, mới thật sự có thể nhận thức kinh điển. Nếu nhận thức được kinh điển, hoà với kinh điển làm thành một khối, thì nói như thế nào cũng đúng, không có nhất định, không có chấp trước nhất định nào cả.
Lại còn máy ghi âm và viết đều là những thứ xấu nhất, những thứ này làm hư đi trí nhớ của con người.
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết.
Nhị: Giáo Khởi Nhân Duyên
I. Tổng nhân duyên
Tiếp theo giảng mười môn phân biệt:
Môn thứ nhất là Tổng Thích Danh Đề đã giảng rồi. Nay giảng môn thứ hai là “Giáo Khởi Nhân Duyên”, nhân duyên giáo hóa hưng khởi. Giáo là gì? “Thánh nhân bị hạ chi ngôn” gọi là giáo,Thánh nhân bị hạ chi ngôn có nghĩa là Chư Phật Bồ tát dùng những lời giáo hóa chúng sanh, gọi là giáo. Vậy thì làm sao để sanh khởi giáo? Thì cần phải có nhân duyên. Nhân duyên từ đâu đến? Nhân duyên từ chúng sanh mà đến. Nếu không có chúng sanh thì không có Phật; nếu không có Phật thì cũng không có giáo, nên giáo này vì chúng sanh mà thiết lập, nhân duyên là khiến cho chúng sanh liễu thoát sanh tử, cho nên có giáo.
Làm sao khiến chúng sanh liễu sanh thoát tử. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì muốn khiến cho chúng sanh liễu thoát sanh tử mà thị hiện ở đời. Nên kinh Pháp Hoa nói: “Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời”. Gì là đại sự? Đại sự chính là vấn đề sanh tử của mỗi một chúng ta, sanh từ đâu đến? Chết đi về đâu? Đạo lý này không hiểu rõ thì có sanh tử, hiểu rõ rồi thì sẽ không còn sanh tử. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến thế giới này chính vì muốn cho chúng sanh chúng ta hiểu rõ sanh như thế nào? Tử như thế nào? Sanh từ đâu mà đến, tử đi về đâu? Sanh ở chỗ nào đến? Chết lại đi về đâu?
Chúng ta khi có sanh mệnh, đến thế giới này, chính là vì cuộc sống mà bôn ba bận rộn cực khổ. Tại sao vậy? Vì muốn tìm chỗ ở, nên vì chỗ ở mà bận rộn; lại nghĩ cách mua y phục để ngăn ngừa nóng lạnh cho thân thể, vì y phục che thân mà bận rộn; lại nghĩ cách để trị cái da bụng này, để nó không đói nữa, vì miếng ăn mà bận rộn. Người bình thường đều không phải nói như vậy sao? v. v… nói: “Vì hai bửa cơm mà phải đi làm. Nếu hỏi họ: “Tại sao cần phải đi làm?”
Họ sẽ trả lời: “Vì muốn hai bữa cơm cho no lòng”.
Đó là tư tưởng của người Trung Quốc. Chúng ta bất luận là người Trung Quốc hay là người ngoại quốc, mỗi người đều vì miếng cơm, manh áo, chỗ ở mà bôn ba bận rộn. Tại sao vì những thứ này mà bận rộn? Nếu không bận rộn về những thứ này, thì không thể giải quyết vấn đề này, nên cần phải vì miếng cơm, manh áo, chỗ ở mà bận rộn.
Nhưng không có ai vì sanh tử mà bận rộn, lại không có ai suy nghĩ:
“Tại sao tôi đến thế giới này? Tôi đến như thế nào? Từ đâu mà đến?”
Cũng không thấy có người lúc gặp nhau sẽ hỏi thăm: “Anh từ đâu đến đây? Đến bao lâu rồi?”
Chúng ta mỗi người không hỏi bản thân mình từ đâu mà đến, ngay chỗ mình đến cũng quên, chỗ mình đi cũng quên. Đến khi chết: “Tôi chết sẽ đi về đâu?”, cũng không nhớ nghiên cứu vấn đề này. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thấy mọi người không còn nhớ việc đại sự sanh tử, cho nên đến thế giới này nhắc nhở chúng ta cần phải chú ý và nghiên cứu vấn đề sanh tử này. Nên phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa nói: Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Muốn cho chúng sanh khai mở Phật tri kiến, nên xuất hiện ở đời; muốn chỉ cho chúng sanh Phật tri kiến, nên xuất hiện ở đời; vì muốn cho chúng sanh ngộ Phật tri kiến nên xuất hiện ở đời; vì muốn cho chúng sanh nhập Phật tri kiến, nên xuất hiện ở đời.
1. Khai Phật tri kiến
“Khai Phật tri kiến” là gì? Tất cả chúng sanh vốn đầy đủ tri kiến Phật, trí huệ bổn lai đều giống như Phật, giống như mỏ vàng đang đợi khai phá, mà trước tôi đã giảng đến, trong mỏ vàng này, vàng chưa được khai phá, nên chưa hiện ra. Phật tánh vốn có của mình cũng vậy. Nay biết mình vốn có Phật tánh, cần phải như pháp tu hành thì sau đó bản tánh mới có thể xuất hiện,- như khai phá mỏ vàng, mới được vàng ròng, trong vàng ròng thì không có tạp chất cặn bã, nếu lẫn vào tạp chất thì không phải là vàng ròng nữa.
Vậy thì, Phật tánh vốn có của chúng ta, ở đâu vậy? trí huệ vốn có của chúng ta, ở đâu vậy? Quý vị có muốn biết không? Tôi nay bảo cho quý vị biết Phật tánh vốn có chính là trong phiền não của mỗi người chúng ta. Mỗi người đều có phiền não, chính là mỗi người đều có Phật tánh, chỉ vì chúng ta chưa có thể làm cho Phật tánh hiển hiện ra, nên biến thành phiền não.
Nay đưa ra một ví dụ, ví dụ gì? Phiền não của chúng ta như nước đá, Phật tánh như nước. Nước có tánh ướt, mà trong nước đá cũng có tánh ướt; nước là trí huệ, nước đá là phiền não, trong trí huệ và phiền não đều có Phật tánh. Phật tánh là gì? Là ví như tánh ướt của nước. Quý vị không thể nói nước đá không có tánh ướt, quý vị cũng không thể nói nước không có tánh ướt, nước và nước đá đều có tánh ướt. Nhưng nước đá có thể hại người; nước thì không thể hại người.
Thưa rằng: “Bạch thượng nhân, Thượng nhân giảng điều này cũng có lý, nhưng con cho rằng lại không có lý. Tại sao vậy? Nước đá có thể hại người, con biết rồi, Thượng nhân thường thường nói nếu dùng nước đá đánh người, thì có thể đánh chết người, thì có hại đối với người. Nhưng mình có đánh thì người kia mới chết!”
Đánh người là gì? Chính là lúc quý vị sanh phiền não, sanh phiền não thì giống như đánh người vậy. Khi một bát nước chưa biến thành nước đá, quý vị dội vào mình người khác, họ không cảm thấy đau đớn gì hết; nếu biến thành nước đá rồi, quý vị đánh vào đầu người, thì có thể đánh bể đầu họ, thậm chí có thể đánh chết người. Đạo lý này thì rất rõ ràng.
Người có trí huệ, dù có mắng người: “Ông không nên làm như thế!”
Người có trí huệ khi nói ra, thanh âm làm cho người nghe rất hoan hỷ. Đó giống như dội nước trên mình người, người ta không cảm thấy đau nhức. Nếu quý vị có phiền não, quý vị dùng phiền não để mắng người: “Cái vô minh của ông quá to!”
Lời vừa nói ra cũng khiến người ta sanh phiền não, thậm chí còn đánh nhau. Đánh nhau thì nhất định có sự tổn thương, đó là sự khác nhau giữa nước và nước đá, cũng là sự khác nhau giữa phiền não và trí huệ.
Nước đá và nước đều có tánh ướt, tánh ướt đó ví dụ cho Phật tánh. Mỗi một người chúng ta có thể biến phiền não thành trí huệ, đó là phản bổn hoàn nguyên. Nước không phải là nước đá, nhưng quý vị không thể nói nước đá không phải là nước, nước đá là do nước hóa thành. Quý vị cũng không thể nói nước không phải là nước đá, vì nước đá có thể hóa thành nước, nước cũng có thể hóa thành đá. Cho nên không thể nói chúng sanh không phải Phật, Phật không phải chúng sanh. Kỳ thực, Phật là Phật trong chúng sanh, chúng sanh là chúng sanh trong Phật. Chúng ta nếu có thể hiểu được đạo lý này, như nước đá chính là nước, nước là nước đá, là một sự chuyển biến. Nếu quý vị không chuyển biến, thì có chỗ hại! Nếu quý vị chuyển biến thì có chỗ ích lợi.
Thưa rằng: “Thượng nhân nói nước không làm hại người, nhưng nước lớn cũng có thể dìm chết người”.
Quý vị nói rất đúng! Nhưng nay tôi lấy nước ít để làm ví dụ, chứ không phải lấy nước lớn làm ví dụ. Nếu quý vị dùng lời vấn nạn không hợp đạo lý thì rất là nhiều không bao giờ hết. Vì thế nay quý vị lấy ý nghĩa này mà không nên phát sanh chướng ngại: “A! Thượng nhân nói nước không làm hại người? Nước lớn có thể làm dìm chết người. Đạo lý này tôi không tin!”
Nếu quý vị thật sự không tin, tôi giảng cái gì quý vị cũng không tin; nếu quý vị tin, tôi nói cây đẻ ra trứng, quý vị cũng sẽ tin. Nếu được vậy, quý vị sẽ có trí huệ. Nếu quý vị không có lòng tin như thế, quý vị sẽ không bao giờ sanh ra trí huệ chân chánh, trí huệ chân chánh cũng là từ ngu si chân chánh mà ra. Nên nước đá biến thành nước thì có trí huệ; nước biến thành nước đá thì là ngu si. Phiền não cũng chính là ngu si. Tại sao sanh phiền não? Vì quý vị không hiểu rõ, nếu quý vị hiểu rõ, làm gì có phiền não? Nếu quý vị thấu triệt, thì sẽ không có phiền não.
Nên tôi giảng kinh là giảng cái lý, quý vị không nên đưa cái sự vào. Giảng đạo lý, quý vị không nên dùng sự để mà bình luận cái lý, sự và lý không giống nhau. Nên quý vị phải từ từ nghe, nghe nhiều rồi quý vị biết lời giảng của tôi là đúng; quý vị nghe ít, thì cảm thấy hoàn toàn xa lạ: “Giảng cái gì mà tôi không hiểu!” Quý vị vốn chưa nghe qua làm sao hiểu được? Nếu quý vị chưa từng nghe qua mà đã hiểu, vậy thì trí huệ của quý vị quá tuyệt vời rồi! Chính vì trong kiếp quá khứ hoặc đã nghe qua, hoặc đời này đây là lần đầu tiên; lần đầu tiên thì cảm thấy có chút xa lạ. Như quý vị lần đầu tiên gặp người này: “A! Người này không biết tôi có quen hay không? Tôi có gặp qua chưa vậy?” Đến khi nhiều lần gặp nhau: “Tôi biết người này!” Vì thế quý vị nghe kinh cũng như vậy.
Nay quý vị hiểu rõ tự tánh chính là Phật tánh, quý vị có thể biến phiền não thành Bồ đề, Bồ đề là đạo lý giác ngộ. Quý vị giác ngộ cái gì? Giác ngộ tất cả đều không nên chấp trước. Quý vị có chỗ chấp trước thì sẽ không giác ngộ; quý vị không có chấp trước, bất cứ sự việc gì cũng không chấp trước. Như tôi, tôi chưa có giác ngộ, nhưng tôi không có chấp trước.
Thưa rằng: “Thượng nhân không có chấp trước, Thượng nhân cũng chưa có giác ngộ, vậy thì chúng ta giống nhau!”
Tôi và quý vị không giống nhau, nếu quý vị không có chấp trước thì sẽ giác ngộ. Tại sao vậy? Vì tôi không muốn giác ngộ, tôi muốn ở chung với chúng sanh. Tâm của quý vị và tôi không giống đâu. Tôi không nở bỏ chúng sanh, tôi thấy người nào cũng đều tốt, nên tôi không muốn giác ngộ.
Tôi bảo cho quý vị phương pháp để quý vị giác ngộ. Kỳ thật, đó chính là phát tâm Bồ tát. Phát tâm Bồ tát là muốn mọi người tốt, đối với bản thân mình thì không để ý đến, nên tôi thường nói rằng: “Nếu quý vị tất cả đều có thể thành Phật, tôi xuống địa ngục thọ vô lượng khổ tôi cũng bằng lòng”. Nên nay tôi bảo quý vị phương pháp tu hành, như có đồ ăn ngon, tôi muốn cho mọi người ăn, còn tôi ăn ít, thưởng thức chút mùi vị được rồi. Nay đối với mùi vị giác ngộ, đã nếm được chút ít, nên tôi muốn cho quý vị ăn được mùi vị giác ngộ. Mùi vị của giác ngộ chính là muốn quý vị đoạn trừ phiền não, đến lúc không còn phiền não; không còn vô minh, thì sanh ra trí huệ, nhân đó mà được giải thoát, đó gọi là khai Phật tri kiến.
2. Thị Phật tri kiến
Quý vị mở ra tri kiến Phật rồi còn phải “thị Phật tri kiến”. Thị tức chỉ thị. Tri kiến Phật khai mở rồi, cần phải dụng công phu. Dụng công phu như thế nào? Giống như khai thác mỏ vàng, cần có công nhân làm việc. Làm như thế nào? Trước quý vị phải đào đất, sau đó từng chút từng chút trong đất đãi cho ra được vàng ròng. Cho nên cần phải chỉ chúng sanh như thế nào mà đạt được vàng ròng, đây là thị Phật tri kiến, chỉ cho quý vị tri kiến Phật vốn có của chính quý vị.
3. Ngộ Phật tri kiến
Sau đó phải “ngộ Phật tri kiến”. Chỉ thị rồi, quý vị phải tự tu hành, phải dụng công, nên chúng ta ngày ngày tọa thiền, thì một ngày nào đó sẽ hoát nhiên quán thông, lập tức khai ngộ. Khai cái ngộ gì? Quý vị ngộ: “Ồ! Thì ra là như vậy!” Quý vị hiểu biết thực sự, hiểu rõ thực sự vấn đề nhân sanh. Vấn đề nhân sanh quý vị thật sự hiểu rõ rồi, đó là ngộ Phật tri kiến.
Tri kiến Phật không giống với tri kiến chúng sanh chúng ta. Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối toàn là vọng tưởng, chấp trước. Ai đối với mình không tốt liền sanh lòng phiền não: “Bạn đối với tôi không tốt a!” Tại sao người ta đối với quý vị không tốt? Nếu quý vị đối với người ta tốt, thì làm sao có người không tốt với bạn? Hiểu rõ đạo lý này thì sẽ không có người không tốt với quý vị, vì không phải người ta không tốt với mình, mà là chính mình không tốt với người ta. Một bàn tay vỗ không kêu. Quý vị vỗ một bàn tay có kêu không? Không kêu được; quý vị vỗ hai bàn tay thì sẽ kêu. Nên nếu quý vị thật lòng đối tốt với người, thì người sẽ đối tốt lại với quý vị.
Ví như người người đều lễ Phật, cung cung kính kính cúi đầu đảnh lễ Đức Phật. Tại sao đối với Phật cung kính như thế? Vì Phật thật là tốt, nên không có ai không tốt với Phật.
Thưa: “Điều này con cũng không tin, vì có người hủy báng Phật, nói Phật không tốt!”
Có người hủy báng Phật, thì vốn không nên xem người đó là người. Người hủy báng Phật là người như thế nào? Người đó không hiểu đạo lý làm người, nên mới hủy Phật, báng Pháp, báng Tăng. Nói Phật không đúng, căn bổn là người đó không hiểu vấn đề nhân sanh, nên báng Phật, báng Pháp, báng Tăng. Nếu hiểu rõ đạo lý này, thì người ấy sẽ không sanh ra tâm hủy báng.
4. Nhập Phật tri kiến
Sau khi ngộ Phật tri kiến là “nhập Phật tri kiến”. Làm thế nào để được nhập Phật tri kiến? Quý vị cần phải nỗ lực dụng công. Hiểu rõ rồi sau đó dụng công, hồi quang phản chiếu, đến lúc hào quang chiếu đến tâm của quý vị; thì trong tâm quý vị khai mở trí huệ chân chánh, đó là nhập Phật tri kiến. Nhập Phật tri kiến thì tri kiến ấy giống như tri kiến Phật vậy, không hai không khác. Đó gọi là khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến.
II. Biệt Nhân Duyên
Đây là phần thứ hai của “giáo khởi nhân duyên”. Ở trên đã nói về nhân duyên chung là căn cứ theo Đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh hơn ba trăm hội, vì chúng sanh thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh. Đây là chỉ cho pháp mà Phật thuyết ra, đại khái một đời giáo hóa chúng sanh. Nếu nói về nhân duyên Phật nói kinh “Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh” này là nhân duyên riêng, lại chia ra làm sáu nhân duyên. Sáu nhân duyên là: 1. Thị đa văn, hốt định lực; 2. Cảnh cuồng huệ, hộ tà tư; 3. Chỉ chân tâm, hiển căn tánh; 4. Thị tánh định, khuyến thật chứng; 5. Tiêu đảo tưởng, trừ tế hoặc; 6. Minh nhị môn, lợi kim hậu.
1. Nhân duyên thứ nhất là: “Thị đa văn, hốt định lực”
Thị là ỷ lại, ỷ lại vào cái gì? Ỷ lại đa văn. Đa văn là nhiều kiến văn, học rộng biết nhiều. Gì là đa văn? Như đọc kinh nghe pháp nhiều, trí thức cũng nhiều. Như A Nan có năng lực đa văn, những pháp mà Phật thuyết ra, vì A Nan thường theo hầu Phật mấy mươi năm, mỗi pháp hội Đức Phật nói ra điều gì, Ngài đều ghi nhớ hết, thật là nghe rồi không quên, sức ghi nhớ của Ngài vô cùng tuyệt vời, đó gọi là đa văn, cũng gọi là bác văn cường ký. Bác chính là quảng bác; cường ký là không cần ép buộc mà vẫn nhớ dai. Sự ghi nhớ của A Nan không cần miễn cưỡng, Ngài tự nhiên ghi nhớ. Nếu quý vị bác văn, chính là xem sách rất nhiều; cường ký là quý vị dùng tâm sức ghi nhớ những đạo lý ở trong sách, đó gọi là bác văn cường ký.
Vì đạo lý ghi nhớ rất nhiều nên có chỗ ỷ lại. Gì gọi là ỷ lại? Chính là “bạn xem, tôi hiểu biết nhiều việc hơn bạn”. Đó là ỷ lại: “Tôi học rất nhiều, các bằng Tiến sĩ Khoa học, Triết học, Văn học tôi đều đạt được. A, bạn xem! Một mình tôi có hơn một trăm bằng cấp học vị Tiến sĩ”. A Nan có chỗ ỷ lại về sự học rộng nghe nhiều, đó gọi là thị đa văn.
“Hốt định lực”: Hốt là xem thường, không chú ý, cho rằng việc đó không quan trọng. Việc gì không quan trọng? Cho định lực không quan trọng. A Nan cho rằng: “Định lực này không quan trọng, không có vấn đề gì. Tôi biết rất nhiều, tôi có trí huệ là được rồi! Định lực? Không quan hệ gì cả, do định phát huệ, tôi đã có trí huệ rồi”. Vì thế, A Nan không xem trọng sự tu dưỡng định lực. Kinh này là vì A Nan mà nói ra. Tại sao vì A Nan mà nói? Chính là vì A Nan không có định lực. Tại sao A Nan không có định lực? A Nan hằng ngày không dụng công tham thiền, hằng ngày chuyên viết chữ, xem sách, học kinh. Ngài không ngồi thiền, không tham thiền. Người ta đi ngồi thiền, thì Ngài đi xem sách, Ngài không xem trọng định lực như thế.
Lớp hè hiện nay của chúng ta, đó mới là tuyệt diệu, không thể dùng ngôn ngữ diễn tả được! Vừa ngồi thiền, vừa nghe kinh. Ngồi thiền là thực hành, nghe kinh là giải, cần phải hiểu rõ đó là giải hành song tu, cùng nhau tương ứng. Hiểu rõ rồi, sau đó mới dụng công tu hành, dụng công thì sẽ khai ngộ. Tôi hy vọng trong thời gian lớp hè này, ít nhất cũng có mười người trở lên khai ngộ mới được, như thế mới mãn nguyện của tôi. Nếu chỉ có một hai người, tôi cảm thấy không đủ với giá trị thời gian của tôi bỏ ra!
Nên tôi hy vọng các vị mỗi người đều phải tôn trọng việc làm, nắm bắt công phu này, cũng không nên thị đa văn, cũng không nên hốt định lực. Chúng ta ở đây vừa xem trọng định lực, vừa xem trọng đa văn; đa văn chúng ta cũng học, định lực chúng ta cũng học, đó là đa văn và định lực cần phải tiến hành song song. Chúng ta dụng công cả hai mặt đa văn và định lực, cảnh giới này là cảnh giới thù thắng bất khả tư nghì. Vì thế, pháp hội khó gặp này, quý vị mỗi người nếu khai ngộ mới không bỏ phí công cực khổ tu hành của mình. Quý vị không uổng công cực khổ, tôi cũng vậy. Chúng ta đều cảm thấy đại hoan hỷ. Nên tôi kêu quý vị mỗi người mỗi ngày phải viết tóm lược trích yếu (summary) của quý vị đưa cho tôi xem. Quý vị ngồi thiền có cảm giác gì, có cảnh giới gì cũng viết ra đưa cho tôi; quý vị nghe kinh có cảm tưởng gì cũng viết ra cho tôi, và những đạo lý nghe được cũng nên ghi chép lại, cần phải như vậy.
Pháp hội này vô cùng hy hữu. Chúng ta có thể ở thời đại Mạt pháp này, dũng cảm tinh tấn tu hành như thế, sáng sớm thức dậy, tối ngủ trễ, đó chính là tinh tấn học tập Phật pháp. Đó chính là đã không thị đa văn, cũng không hốt định lực. Đó cũng học đa văn, cũng tu định lực, đó là cơ hội khó được.
Bộ kinh này thuyết ra chú Lăng Nghiêm để giải cứu Tôn giả A Nan. Tại sao cứu Tôn giả A Nan? Vì Tôn giả A Nan từ trước đến nay chú trọng học tập văn tự Bát nhã mà không tu tập thực tướng Bát nhã. Ngài chú trọng văn tự Bát nhã cho rằng có thể thành Phật, có thể được khai ngộ. Ngài lại có lòng ỷ lại. Ỷ lại gì? Ngài nghĩ rằng, Ngài là anh em chú bác của Đức Phật, Đức Phật đã thành Phật rồi, nhất định sẽ giúp Ngài thành Phật, nên Ngài tu hay không cũng không có vấn đề gì. Vì có tư tưởng như thế, nên A Nan xem thường định lực, nên không ngồi thiền, cũng không tham thiền, không dụng công, chỉ chuyên học tập văn tự Bát nhã, như thế Ngài lại để thời gian luống qua rất nhiều.
Một ngày nọ, A Nan một mình đi khất thực. Khất thực chính là ôm bình bát đến mỗi nhà hóa duyên, hóa duyên cơm đem về ăn. Như thế Ngài một mình đi khất thực gặp phải cô Ma Đăng Già. Mẹ của cô Ma Đăng Già là ngoại đạo Hoàng Phát (tóc vàng), bà tu trì pháp ngoại đạo. Ngoại đạo này cũng có chú thuật của họ, có pháp lực của họ, pháp lực của họ cũng rất linh ứng.
Do vì Ma Đăng Già Nữ nhìn thấy Tôn giả A Nan, thấy tướng mạo của Tôn giả A Nan vô cùng viên mãn, vô cùng tuấn tú, liền lập tức ưa thích Tôn giả. Cô ta ưa thích Tôn giả nhưng không có cách nào được, bèn trở về nói với mẹ rằng:
- Mẹ ơi! Nhất định phải mang A Nan về cho con, kết hôn với con; nếu mẹ không mang A Nan về cho con, con sẽ chết, con không muốn sống!
Mẹ của cô ta vì thương yêu con gái, nên dùng chú Tiên Phạm Thiên, dùng một loại chú thuật của ngoại đạo, vừa niệm chú thì sức mạnh của chú này đã làm cho Tôn giả A Nan mê đi. Gì là mê? Tôn giả A Nan không còn làm chủ được mình, vì không có định lực nên không thể làm chủ được mình, nên theo chú đó mà theo bà ta về nhà, mà gần phá giới. Tôn giả A Nan phá giới gì vậy? Phá giới dâm. Năm giới sát sanh, trôm cắp. Hành dâm, vọng ngôn, uống rượu, Tôn giả A Nan sắp phá giới dâm này.
Lúc sắp phá giới, Phật Đà biết được. Tôi tin tưởng lúc đó Phật cũng vì sự quan hệ anh em chú bác với A Nan. Vừa thấy em của mình gặp nạn nên lập tức nói chú Lăng Nghiêm này. Nói chú Lăng Nghiêm phá chú Tiên Phạm Thiên của ngoại đạo tóc vàng, dùng sức mạnh của chú Lăng Nghiêm làm A Nan tỉnh lại từ trong lưới mê. A Nan như uống rượu say, lại như uống thuốc mê, gì cũng không biết. Vừa niệm chú Lăng Nghiêm Tôn giả A Nan liền tỉnh lại. Tỉnh lại liền nhìn và tự hỏi tại sao mình đi đến chỗ này? Vì thế A Nan liền trở về, khóc nức nở bạch với Phật rằng: “Ngã nhất hướng đa văn, vị toàn đạo lực!” Con từ trước đến nay ưa thích đa văn, nên đạo lực không đầy đủ. Đạo lực chính là định lực, con không có định lực, thỉnh Phật dạy cho con mười phương chư Phật tu hành như thế nào, mới được định lực này để thành chánh giác? Cho nên nhân duyên của bộ kinh này là vì Tôn giả A Nan trước ỷ lại đa văn, xem thường định lực; nên nay Phật phá cái mê chấp của Tôn giả A Nan, cứu Tôn giả trở về, sau đó thuyết kinh Lăng Nghiêm này. Tôn giả A Nan lần này mới phát tâm tu hành, vì thế “Thị đa văn, hốt định lực” là nhân duyên thứ nhất.
2. Nhân duyên thứ hai là: “Cảnh cuồng huệ, hộ tà tư”
Cảnh là cảnh giới, cảnh cáo. Cảnh cáo gì? Cảnh cáo những người có cuồng huệ. Cuồng huệ là gì? Cuồng huệ là thông minh thiên phú; thông minh thiên phú thì có nhưng lại không làm những việc chánh đáng, ngược lại ỷ vào trí huệ của mình mà làm những việc không chánh đáng; dùng trí huệ của mình đi làm những việc hại người. Đó là tư tưởng tà ác. Có tư tưởng tà ác, lại che giấu tư tưởng tà ác của mình. Người đó cho rằng tư tưởng tà của mình là chính xác. Nên bộ kinh này cảnh cáo người có cuồng huệ, người ấy hộ trì tư tưởng không chánh đáng của mình. Hộ tà tư, chính là người có cuồng huệ bảo hộ tư tưởng tà ác của mình. Người ấy cho rằng tư tưởng mình không phải tà, nói: “Tư tưởng của tôi là chánh đáng”. Thế gian này có rất nhiều người, thông minh thì rất thông minh, nhưng thông minh lại bị thông minh làm hại, chỉ làm những việc hồ đồ. Giảng đến đây nhớ lại vài câu cách ngôn, cách ngôn rằng:
Thông minh nãi thị âm chất trợ
Âm chất dẫn nhập thông minh lộ
Bất hành âm chất sử thông minh
Thông minh phản bị thông minh ngộ.
“Thông minh nãi thị âm chất trợ”: Vì sao được thông minh? Vì người thông minh này đời trước có đức hạnh cho nên sanh ra đời nay rất thông minh. Hoặc là kiếp trước đọc sách nhiều, hoặc là tụng niệm kinh điển nhiều nên đời này rất thông minh.
“Âm chất dẫn nhập thông minh lộ”: Tại sao được thông minh? Vì đã từng làm rất nhiều việc tốt, làm nhiều việc thiện lành. Gì là âm chất? Âm chất tức là những việc âm đức, những việc thiện mà người ta không thấy. Giả như làm một việc tốt rồi nổi chuông nổi trống, lại đăng báo, hoặc là phát thanh trên đài, hoặc là phát biểu trong radio, thậm chí trên tờ fax cũng biểu diễn, nói “A! ai đó hiện nay đang làm việc tốt!”. Đó không phải là âm chất, đó chỉ có thể nói là làm việc tốt. Âm chất là làm việc tốt mà người ta không biết. Làm việc tốt mà không có ai biết, đó mới thực sự là việc thiện chân chánh. Nên nói:
Thiện dục nhân kiến, bất thị chân thiện,
Ác khủng nhân tri, tiện thị đại ác.
“Thiện dục nhân kiến, bất thị chân thiện”: làm việc thiện, việc tốt lành, thích người khác biết, đi khắp nơi nói cho người ta biết: “Tôi nay thông báo cho mọi người biết, tôi đã nhiều làm việc tốt rồi”. Đó không phải là chân thiện. Tại sao vậy? Đó chỉ là cái danh, chỉ vì tham cái danh thiện mà thôi, chứ không phải thực sự muốn làm điều thiện, cho nên nói đây không phải là chân thiện, cái thiện chân chánh, cái thiện thật sự.
“Ác khủng nhân tri, tiện thị đại ác”: làm việc ác nhưng sợ mọi người biết, đó là một việc đại ác.
“Bất hành âm chất sử thông minh”: Nay vì thông minh rồi bèn không cần âm chất nữa, không làm việc tốt và cũng không cần hành thiện; chuyên môn sử dụng những cái thông minh nhỏ nhặt đó, tiểu trí tiểu huệ. Đó không phải là thông minh chân chánh, mà là tiểu trí tiểu huệ, quên đi cái gốc.
“Thông minh phản bị thông minh ngộ”: Như thế thì sao? Cuối cùng bị cái thông minh nhỏ nhặt đó làm hại, không còn tinh tấn làm những việc tốt nữa mà đọa lạc dần dần.
Trung Quốc thời Tam Quốc có Tào Tháo, quý vị có nghe qua chưa? Tào Tháo là người rất thông minh, nhưng rất gian. Có câu nói “Tào Tháo gian như quỷ, Nghiêu Đế trí như Thần”. Tào Tháo gian như quỷ, gian đến trình độ nào? Quý vị thấy quỷ kia, chỉ có ban đêm mới xuất hiện, ban ngày không có mặt. “Nghiêu Đế trí như thần”, Trung Quốc có vua Nghiêu, trí huệ của vua Nghiêu như thần tiên vậy. Nên ở nước Mỹ của quý vị, nói người có trí huệ như thần tiên. Joe Miller thường thường nói với người ta:
- Thầy Phương trượng (Abbot) chính là God, chính là thần tiên.
Kỳ thật tôi không muốn làm thượng đế, thượng đế có ý nghĩa lớn lao gì đâu. Joe cho rằng như thế là khen ngợi tôi, tôi cho rằng như thế là hủy báng tôi. Vì thượng đế, quý vị không nên xem quá cao, trong Phật giáo, thần thì rất nhỏ. Thần trên trời đều phải ủng hộ Tam bảo, đều phải hộ trì Phật, hộ trì Pháp, hộ trì Tăng, chư thiên hay thượng đế chỉ có thể làm vị Hộ pháp trong Phật giáo mà thôi.
“Thiện dục nhân kiến, bất thị chân thiện, ác khủng nhân tri, tiện thị đại ác”. Nhưng người làm việc đại ác, nếu hồi đầu thì là đại thiện; ngược lại, bậc đại thiện sĩ nếu bị đọa lạc thì giống như kẻ đại ác. Kẻ đại ác biết giác ngộ: “Tôi nay muốn cải ác hướng thiện”, đó là người đại thiện. Tại sao vậy? Vì người đó có thể dõng mãnh sửa đổi lỗi lầm, đó là người đại thiện. Người đại thiện nếu đọa lạc thì giống như kẻ đại ác, quý vị thường ngày làm việc thiện, làm hoài làm mãi, cảm thấy không có cảm ứng gì: “A! Tôi làm việc thiện, việc tốt rất nhiều, mà không có cảm ứng gì, hay là đi làm việc xấu, việc ác cho rồi”. Làm hại người, gạt người, làm những việc bất lợi cho người, đó là đại ác. Tại sao vậy? Vì “minh tri cố phạm”, biết việc đó là không đúng, tại sao vẫn đi làm? Nên thành đại ác.
Người có cuồng huệ thường làm những việc ngược ngạo điên đảo, làm những việc không chánh đáng, nhưng họ cho rằng là đúng; thậm chí giết người rồi còn nói: “Nếu tôi không giết người kia, thì người kia sẽ giết người! vì thế tôi giết người đó đi, để họ khỏi giết người nữa!” Quý vị thấy lời này có đúng hay không? Người kia vốn không giết người, nhưng bị người đó nói giết để khỏi đi giết người. Kiến giải như thế gọi là “cuồng”, gọi là “tà tư”. Vốn là vì bất mãn với người đó nên giết người đó đi. Đã phạm pháp rồi, mà dùng lời biện hộ: “Tại sao tôi giết người đó? Vì tôi sợ người đó làm Tổng Thống, sẽ giết hết người Mỹ chúng tôi, nên tôi giết nó!” Quý vị xem tư tưởng này đúng hay sai? Cho nên đó gọi là “Cuồng huệ”. Vốn là không đúng nhưng lại đưa ra lý do, đó gọi là “Tà tư”.
“Cảnh cuồng huệ, hộ tà tư” câu này quý vị không nên hiểu lầm. “Cảnh cuồng huệ” là cảnh cáo những người có cuồng huệ. Chữ “hộ” trong “Hộ tà tư” không phải nói chúng ta giúp tà tư của người đó, ủng hộ tà tư của người đó, khen ngợi tà tư của người đó, không phải vậy. Đó là nói người có cuồng huệ này, che đậy tà tư của mình, dùng những lý lẽ không chánh đáng để biện hộ cho mình. Vốn không đúng, lại thiêu dệt ra lý do khiến mọi người vô phương giải quyết. Pháp quang khi nghe: “Người này nói rất có lý!” nên vốn là phải thường mệnh, kết quả lại thắng kiện. Đó gọi là có một loại cuồng huệ hộ trì tà tư của người đó. Kinh này chính là cảnh cáo loại người đó, không nên che đậy tà tư của mình mà nên sửa đổi lỗi lầm, không nên cho rằng mình là đúng. Như thế gian này có rất nhiều người thông minh, thường làm những việc không chánh đáng, đó đều gọi là cuồng huệ, nên đi vào con đường chánh, quay về tư tưởng chân chánh, không nên có những tư tưởng tà kiến.
3. Nhân duyên thứ ba là: “Chỉ chân tâm, hiển căn tánh”
Kinh Lăng Nghiêm là một bộ kinh trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Trực chỉ tâm gì của người? Trực chỉ chân tâm của người. Chân tâm của người có hình tướng gì? Chân tâm của người, quý vị nhìn không thấy đâu. Có người nói:
- Con có cái tâm, con có thể nhìn thấy.
- Quý vị nhìn thấy cái tâm của quý vị có hình dáng gì?
Nói:
- Trong thân thể của con giống như hoa sen treo ngược, nên con biết con có cái tâm này.
Đó không phải là chân tâm của quý vị, chỉ là cái nhục đoàn tâm (tâm bằng thịt) của quý vị. Nhục đoàn tâm này sẽ không có tác dụng gì, chỉ duy trì cái mạng sống của quý vị mà thôi, nó không phải là tâm có thể chi phối quý vị, có thể khiến quý vị chân chánh hiểu biết tất cả. Tại sao vậy? Nếu cái tâm này là chân tâm của quý vị, khi quý vị chết đi, tâm này chẳng phải không còn. Thân thể người đó còn ở đây, tâm thì vẫn ở trong mình người đó, tại sao nó không thể chi phối người đó? Điều đó thì rất rõ ràng, cái nhục đoàn tâm này không phải là chân tâm của quý vị.
Vậy thì chân tâm cũng chính là Phật tánh vốn có của quý vị, nên hiện ra nơi căn tánh của quý vị. Phật tánh vốn có ở đâu? Phật tánh chính ở bên trong quý vị, nhưng không ở bên ngoài thân, không ở bên trong thân, cũng không ở chính giữa. Khi giảng đến phần chánh văn của kinh, quý vị sẽ hiểu rõ đạo lý đó, trong kinh này nói rất tỉ mỉ rõ ràng. Cho nên mười phen “hiển kiến”, hiển bày ra tánh thấy, tánh thấy này mới là chân tâm của quý vị. Bộ kinh này thật sự là nói về tánh thấy. Nên nhân duyên của bộ kinh này, cũng chính là muốn chỉ rõ “thường trụ chân tâm, tánh tịnh minh thể” của mỗi người chúng ta. Thường trụ chân tâm của chúng ta không đến không đi, bất động bất biến, không có thay đổi, nên mới là thường trụ chân tâm; tánh tịnh minh thể, bổn thể này cũng không có nhiễm ô. Nên đây chỉ ra chân tâm vốn có của mỗi người chúng ta, mà hiển ra căn tánh bổn nhiên, đó là nhân duyên thứ ba của kinh này.
4. Nhân duyên thứ tư là: “Thị tánh định, khuyên thật chứng”
Pháp môn tu định có rất nhiều loại, dù là ngoại đạo cũng tu định, cũng có định lực của họ. Nhưng sự sai khác trong đó lại là “sai chi hào ly, mậu chi thiên lý” – sự sai khác rất nhỏ, mà lầm lỗi rất lớn, nên chúng ta cần phải tu chánh định, mà không nên tu tà định. Định của tiểu thừa tu không phải là cứu cánh, định của ngoại đạo tu là tà định, không phải là chánh định. Vì không phải là chánh định nên bất kể tu đến lúc nào cũng không thể thành Chánh quả. Tại sao nói không thể thành Chánh quả? Vì cái định này không phải “tánh định”, mà là một loại tà định. Gì gọi là tánh định? Về “tánh định”, tôi có hai câu rất quan trọng, quý vị mỗi người cần phải viết vào vở:
Tánh định ma phục triêu triêu lạc,
Vọng niệm bất khởi xứ xứ an.
Tại sao chúng ta tu hành gặp phải vô vàn ma chướng, nghiệp chướng? Vì tánh của chúng ta chưa được định vậy! Nếu tánh định rồi, thì ma gì cũng bị hàng phục. Tại sao quý vị không thể hàng phục tất cả ma này? Vì tánh của quý vị chưa có định, nên chưa thể hàng phục được ma.
Ma có rất nhiều loại, căn cứ theo bộ kinh này nói thì có năm mươi loại ấm ma, kỳ thật ma có rất nhiều loại: thiên ma, địa ma, nhân ma, quỷ ma, yêu ma… Thiên ma là ma vương trên trời, đến nhiễu loạn thiền định của quý vị; Địa ma là ma ở trên mặt đất, đến nhiễu loạn thiền định của quý vị; lại có Nhân ma, đến nhiễu loạn thiền định của quý vị; lại có Quỷ ma đến nhiễu loạn thiền định của quý vị; lại có Yêu ma quỷ quái cũng đến nhiễu loạn thiền định của quý vị. Tại sao ma này muốn nhiễu loạn thiền định của quý vị? Nguyên nhân là vì mỗi người chúng ta trước khi thành Phật, hoặc chưa tin Phật, là người nhà hoặc là quyến thuộc với tất cả ma vương này. Nay quý vị muốn rời khỏi nhà của họ, quý vị muốn tu thiền định, liễu thoát sanh tử luân hồi, thì ma vương vì yêu quý quý vị, lưu luyến quý vị, không nỡ rời xa quý vị, cho nên đến quấy nhiễu tinh thần của quý vị, nhiễu loạn thiền định của quý vị, chướng ngại sự tu hành của quý vị. Vì vậy nếu định lực không đủ, quý vị sẽ bị cảnh giới ma chuyển mà đi theo ma; nếu định lực đầy đủ, như như bất động, liễu liễu thường minh, thì sẽ không đi theo ma. Như như bất động là định lực, liễu liễu thường minh là huệ lực, chính là sức mạnh định huệ. Quý vị có lực định huệ, nên ma gì cũng không làm quý vị giao động; ngược lại, nếu quý vị không có định lực, không có huệ lực, thì sẽ đi theo ma. Đi đến đâu? Đi đến quê hương của ma, làm ma con ma cháu, luân chuyển không ngừng, điều này rất nguy hiểm!
Ngoại đạo tu tập định lực, vì không biết sự quan trọng của tánh định, mà bắt đầu từ đầu ngọn chót đuôi, trong cái giả thân này dụng công phu. Việc đầu tiên là sai lầm cho cái thức của mình – tâm ý thức là chân tâm, cho rằng cái thức này là chân tâm, thật là điều sai lầm. Dù tu đạo có một chút cảnh giới tịch diệt, cũng đều không phải là thật tại. Giống như dùng một hòn đá đè lên cỏ, tuy có thể tạm thời khiến cho cỏ không thể sanh ra, nhưng khi dời đi cục đá, cỏ vẫn sanh trưởng bình thường. Dùng phương pháp cưỡng chế, khiến cho vọng tưởng không khởi, thì giống như dùng cục đá đè lên cỏ vậy, không phải biện pháp triệt để, nên không thể liễu thoát sanh tử. Nếu không đoạn trừ gốc rễ của vọng tưởng thì không thể liễu thoát sanh tử.
Thiền tông thường nói: “Niệm Phật là ai?”, tham ngộ câu thoại đầu này. Thoại đầu chính là quét sạch tất cả pháp, rời tất cả tướng. Tìm chữ “ai”, đó là triệt để trừ sạch nguồn gốc vọng tưởng, được như thế sẽ có ngày hoát nhiên khai ngộ, hoát nhiên quán thông. Sau khi hoát nhiên khai ngộ, quý vị mới biết lỗ mũi của quý vị hướng lên hay hướng xuống. Nay quý vị không biết lỗ mũi của quý vị là hướng lên hay hướng xuống; nếu quý vị biết lỗ mũi hướng lên hay hướng xuống thì sẽ có biện pháp.
Vậy lỗ mũi hướng lên hay hướng xuống, vấn đề này đợi đến khi quý vị khai ngộ mới có thể biết được. Nhưng lúc đó, Ấn Độ có một vài ngoại đạo không chú ý khai ngộ, họ học cái gì vậy? Học bò, học chó. Tại sao học bò, học chó? Vì ngoại đạo này, một ngày kia trong định, nhìn thấy một con bò sanh thiên, bèn nói:
- A! Con bò này sanh thiên rồi, tôi phải học theo bò.
Vì thế bèn học theo bò, bò không ăn họ cũng không ăn, lại học theo bò ăn cỏ, lại học bò ngủ nghỉ, rồi cũng ở trong chuồng bò. Ở nơi đó đương nhiên cũng học cách ngủ của bò, ngủ không được, thì tu một chút định, kết quả người ấy cũng không thành công, đó cũng là một loại tà định.
Lại có ngoại đạo hoặc nằm mộng, nhìn thấy chó sanh lên trời, bèn nói:
- Con chó sanh lên trời, tôi cũng phải tu theo như chó!
Vì thế, người ấy bèn học theo con chó giữ cửa, học theo chó ăn đồ, học cách chó ngủ, hành động, tất cả đều bắt chước theo chó. Đồ mà chó không ăn, người ấy cũng không ăn, đó là một cách tu ngoại đạo, kết quả cũng không thể thành công.
Lại có một lão tu hành tu theo pháp ngoại đạo, tu vô tưởng định. Đạt đến vô tưởng là không tưởng đến cái gì hết. Cho rằng, người thì vọng tưởng, mà ta thì không vọng tưởng, cái gì cũng không tưởng đến, cứ ở chỗ này tu đến tu đi, muốn sanh đến cõi trời Vô tưởng. Kết quả thì như thế nào? Sanh lên cõi trời Vô tưởng, sau đó vẫn phải đọa lạc, đó đều là tà định.
Tà định là chuyên môn tu pháp ngoại đạo, không phải là pháp môn triệt để, không phải từ căn bổn hạ công phu. Nếu từ tự tánh tu tự tánh, đó là từ căn bổn hạ thủ công phu. Nếu dùng tâm vọng tưởng tu Phật pháp, thì tu mãi, cũng giống như nấu cát mà muốn thành cơm, không bao giờ thành tựu, dù có tu nhiều đời nhiều kiếp cũng khó thoát ra khỏi luân hồi! Dù có tu thời gian như số cát sông Hằng, rất nhiều kiếp cũng không thể thành Phật. Nên tu hành nhất định phải gặp minh sư chân chánh, quý vị mới có thể đạt được định lực chân chánh. Nói đến định lực chân chánh này, quý vị muốn có định lực chân chánh, nhất định còn có ma, vừa rồi không phải nói đến các thứ ma hay sao? Có rất nhiều loại ma. Ma mà trên đây đề cập, chỉ là ngoại ma, ma từ bên ngoài đến; lại còn tự tâm ma; ma từ bên ngoài đến còn dễ hàng phục mà ma từ trong tâm mình sanh ra thì khó hàng phục; lại có một loại ma khó hàng phục nhất là bệnh ma.
Tôi nhớ lại lúc còn trẻ tu học Phật pháp, lúc đó khoảng 17, 18 tuổi, tự cho rằng mình là người phi thường, rất tự mãn, đã nói ra những lời ngông cuồng. Nói lời ngông cuồng gì? Tôi nói:
- Mọi người đều sợ ma, nhưng ma thì lại sợ tôi; ma sợ tôi chớ không phải tôi sợ ma.
Quý vị thấy câu đó có ngông cuồng không? Tôi nói: “Thiên ma, địa ma, thần ma, quỷ ma, nhân ma, bất luận ma gì tôi cũng không sợ”. Ai ngờ nói lời này xong, ma liền đến. Quý vị đoán ma gì đến? Đó là bệnh ma.
Trải qua một cơn bệnh nặng, cuối cùng trở thành tôi sợ ma, không phải ma sợ tôi, tôi sợ con ma bệnh này. Vì khi bệnh, hành động không còn tự do nữa, dường như bị gông cùm trói buộc, thân này cũng không nghe lời nữa. Kêu nó đi nó cũng không đi nổi nữa, kêu nó ngồi cũng không ngồi được, suốt ngày từ sáng đến tối cứ nằm trên giường, cũng không thể uống nước, cũng không thể ăn cơm, bị bệnh ma này ràng buộc lấy thân. Lúc đó tôi nghĩ, tôi đã nói sai rồi. Tôi nói: “Mọi người đều sợ ma, nhưng ma thì lại sợ tôi”. Nay bệnh ma đến tìm tôi, tôi không đề kháng được bệnh ma này, lúc đó tôi khoảng 17, 18 tuổi.
Bệnh này như thế nào? Bệnh nặng đến nỗi không còn biết gì nữa, thoi thóp hơi tàn sắp chết. Nhưng, trong lúc sắp chết mà vẫn chưa chết đó, một cảnh giới hiện ra. Cảnh giới gì? Chính là thấy ba người con hiếu họ Vương ở Đông Bắc, ở quê hương tôi. Đông Bắc có ba người hiếu tử họ Vương, trong đó có hai người xuất gia, một người tại gia. Hai người xuất gia, một người là đạo sĩ, một người là hòa thượng; tại gia là một lão cư sĩ, cả ba đều đến đây, kêu tôi đi chơi với họ, tôi cũng theo họ ra đi.
Thật kỳ lạ, vừa ra khỏi cửa, thì cái chân không còn dính đất nữa, tuy không phải là ngồi máy bay, lại không phải đằng vân giá võ, nhưng mà đi trong hư không. Lúc đi, thì từ nóc nhà ra đi, nhìn xuống dưới, thì phòng rất là nhỏ, cũng thấy rất nhiều người, rồi như thế ra đi. Đi đến đâu? Đi đến rất nhiều chùa miếu. Núi cao sông lớn. bốn đại danh sơn của Trung Quốc là Ngũ Đài Sơn, Nga Mi Sơn, Cửu Hoa Sơn và Phổ Đà Sơn, đều tham quan khắp hết. Đến chỗ nào cũng thấy rất nhiều người, cũng thấy rất nhiều chùa miếu. Lúc đó các chỗ đi tham quan không những là các địa phương trong đất nước Trung Quốc mà các vùng ở nước ngoài cũng đi rất nhiều. Gặp rất nhiều người Tây phươn, tóc trắng lông mày trắng, cặp mắt xanh.
Đến một chỗ rất nhanh rồi ra đi, giống như xem phim vậy, xem xong màn này thì tiếp màn khác, đi đến chỗ này xem xong, thì đến chỗ khác. Xem phim thì trên màn ảnh từng màn từng màn thay đổi, không phải người xem phim đi đến màn bạc. Tôi xem phim là tôi đi đến màn ảnh, không phải màn ảnh động, mà chúng tôi bốn người, khắp nơi đi xem phim. Lúc đó xem rất nhiều việc, nghe rất nhiều điều.
Sau đó bèn trở về đến cửa nhà mình, mở cửa nhìn vào trong phòng, tại sao trên giường vẫn còn có tôi ở đó? Khi đang cảm thấy vẫn còn có một cái “tôi”, vốn là có hai cái tôi, nay lại biến thành một cái tôi. Lúc đang cảm thấy như thế, thì biến thành một cái tôi, biến thành một cái tôi thì lúc đó có hơi thở, có động đậy. Lúc đó cha tôi, mẹ tôi đang ở bên cạnh nhìn tôi, nói:
- Con chưa chết, sống lại rồi.
Tôi nghĩ: “Gì là chưa chết, sống lại rồi?”
Như thế tôi đã cảm nhận được tôi chưa có chết, đã sống lại. Mình nhìn mình, nằm trên giường, không thể nhúc nhích. Cha mẹ tôi nói tôi đã bảy tám ngày cái gì cũng không biết cả, tất cả đều bất tỉnh nhân sự, nay đã có tri giác, biết tôi vẫn chưa chết.
Sau việc này – trước đó tôi đã không nói đến sao? Đã biến thành một người hoạt tử nhân; tôi nghĩ tôi đã chết rồi, lần này lại sống lại. Từ đó về sau tôi không còn nói ngông cuồng nữa, không nói: “Tôi không sợ ma, ma sợ tôi”. Nay tôi bảo với quý vị rằng, người tu đạo nhất định không được phát biểu lung tung, không nên nói bậy nói bạ, không nên nói những lời như thế, không nên nói “cái gì tôi cũng không sợ”; cái gì quý vị cũng không sợ thì sau này sẽ sợ. Vậy thì nói: “Cái gì tôi cũng sợ”. Cái gì cũng sợ thì cũng không đúng. Tóm lại, không nên nói những lời không có ích dụng.
Nhưng lúc đó tôi vẫn còn có một việc nói đến thì rất kỳ lạ. Việc gì vậy? Lúc đó tu hành cảm thấy mình có chút công phu. Vì khi tôi chưa bệnh còn đang ở Đông Bắc, ở trong hội Đạo Đức. Ở trong hội Đạo Đức làm cái gì? Giảng về đạo đức, nhân nghĩa, chuyên khuyên người làm việc tốt. Vậy khuyên người ta làm việc tốt, tôi có làm việc tốt không? Tôi càng phải làm việc tốt hơn nữa, không những chỉ khuyên người ta làm việc tốt mà mình không làm việc tốt.
Lúc đó tôi xem sách thấy có một bài viết về hành vi cao cả của Trương Nhã Hiên. Tôi nhìn thấy hành vi của ông ta cao cả như thế, nên phát nguyện. Phát nguyện gì? Tôi nói với Trời rằng:
- Trời ơi! Việc của Trương Nhã Hiên, tôi nhất định học theo ông ta.
Nói xong bèn cảm thấy hối hận: “Muốn học theo ông ta, có ích dụng gì?”. Sau khi nói xong lời đó thì rất kỳ lạ, buổi tối hôm đó liền gặp phải ma đến thử thách tôi, xem tôi có thể bắt chước Trương Nhã Hiên không? Điều này thì tôi biết, nếu có nguyện lực gì, Bồ tát thầm đến thử thách mình, nên không được nói những lời tự mãn. Rốt cuộc tôi gặp phải việc gì và việc của Trương Nhã Hiên là việc gì? Xin lỗi, nay tôi không nói đến. Tai sao vậy? Vì chưa đến lúc, cho nên tôi cũng không cần nói đến việc này.
Chúng ta mỗi người cần phải ghi nhớ, không nên nói: “Tôi thích cái gì”; cũng không nên nói: “Tôi không thích thứ gì”. Nếu thích thứ gì thì theo đó sẽ có cảnh giới khiến mình ưa thích đến thử thách; không thích thứ gì, thì sẽ có một cảnh giới mà mình không ưa thích đến thử thách. Tóm lại, những lời không có ý nghĩa thì không nên nói ra. Vậy thì phải làm sao? Cần phải nhất tâm tu đạo, không nên dùng tâm người, mà nên dùng tâm đạo, cũng tức là nên tu “tánh định”, mà cầu “thật chứng”. Thế nào là “thật chứng”? Thật chứng là không hư vọng, không giống với hư vọng.
Hư vọng, ví như khởi lên vọng tưởng: “A tôi nay thành Phật rồi!” Cho nên trong lúc tọa thiền có cảm giác mình giống như Phật, cũng phóng hào quang, cũng chấn động quả địa cầu. Kỳ thật không có việc ấy, đó chỉ là một loại hư vọng, không phải cảnh giới chứng quả. Có lúc lại khởi lên vọng tưởng trong lúc ngồi thiền nhìn thấy Phật đến thọ ký cho mình, nói: “Ngươi sắp thành Phật rồi! không cần tu nữa, ngươi nay đã là Phật!” Đó không phải thực tại, là một loại vọng, không phải là thực chứng đạo quả.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chứng quả dưới cội Bồ đề. Ngài ngồi bốn mươi chín ngày dưới gốc cây, ban đêm nhìn thấy sao mai mà ngộ đạo, khai ngộ. Sau khi khai ngộ Ngài nói:
- Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật.
Trước khi Ngài chưa chứng quả, ma vương trên trời từng đến thử thách Ngài, biến thành mỹ nữ, vô cùng tuyệt đẹp, đến trước Phật khuyên dụ Phật không nên tu đạo nữa, kêu Ngài kết hôn với mình. Có một cô gái đẹp tuyệt vời như thế, yêu cầu Phật kết hôn với cô ta, lúc đó Phật đang ở trong định, không bị cô ấy làm cho giao động. Phật nghĩ rằng: ‘Ôi! Ngươi tự cho rằng ngươi đẹp như thế, kỳ thật ngươi giống như một bà già, nét nhăn trên mặt không biết bao nhiêu? Trong mắt của ngươi, ghèn, nước mắt đã chảy biết bao nhiêu rồi; lỗ mũi của ngươi cũng có nước mũi, trong miệng lại có đàm nước miếng, cũng rất là nhiều; chung quanh mình đều là lôi thôi nhơ bẩn, ngươi còn đến đây gạt ta sao?”
Vì Phật ở trong định quán sát như thế, nên chuyển biến sức mạnh của ma, ma vương này quả nhiên biến thành một bà già, tóc bạc, răng rụng, mũi chảy nước, vô cùng xấu xa!
Phật gọi ma vương nói:
- Ngươi hãy tự xem lấy mình!
Ma vương bèn nhìn lại thân mình, sanh lòng xấu hổ, bèn chạy mất. Còn có rất nhiều loại ma dùng đủ mọi cách mê hoặc thử thách Đức Phật, nhưng Phật đều không bị các ma này làm cho giao động. Vì không bị ma làm giao động, nên mới chứng quả, thành Phật quả.
Nay chúng ta mỗi người dụng công tu đạo, đến lúc quan trọng, thì có ma đến thử thách. Trước khi chưa có công phu, không có thành tích, sẽ không có ma khảo; khi có chút công phu, thì sẽ có ma khảo. Khi ma khảo đến, nếu không nhận biết, như vừa nói ở trên, thì sẽ đi theo ma, làm quyến thuộc của ma. Cho nên chúng ta muốn tu thật chứng, nhất định phải có tánh định. Khi tu có công phu tánh định rồi, tánh sẽ không giao động, sẽ có định lực, quả mà mình chứng đắc mới là chân thật, không phải là giả. Nếu bị ma làm giao động, không phải là định chân chánh, thì biến thành một loại tà định của ngoại đạo, tà định ngoại đạo thì không thể chứng được Phật quả.
Vừa rồi đã nói, người ngoại đạo thấy bò sanh thiên, bèn học theo bò; nhìn thấy chó sanh thiên, bèn học theo chó. Vậy bò này làm sao mà có thể sanh thiên? Chó này lại tại sao có thể sanh thiên? Vì bò này tiền sanh của nó tu thập thiện đạo, nhưng trước khi chưa tu thập thiện đạo nó làm rất nhiều điều ác, quả báo này phải đọa làm thân bò. Vì nó tu mười loại thiện, sau khi quả báo thân bò mãn thì được sanh lên trời. Còn chó thì sao? Chó sanh lên trời cũng như thế. Vì ngoại đạo không biết nhân quả kiếp trước của bò, cho rằng bò kiếp này làm bò nên được sanh thiên, làm chó nên được sanh thiên, vì thế nên nhắm mắt học theo các hành vi của bò, chó, rốt cuộc không có mảy may thành tựu, không thể đắc được thật chứng, không được điều lợi ích thật sự. Thực chứng này chính là chứng đắc một cách thật tại. Chứng cái gì? Chứng đắc trí huệ chân chánh vốn có của chúng ta, chứng đắc định lực vốn có của chúng ta, nghĩa là định huệ viên minh, định giúp đỡ huệ, huệ cũng giúp đỡ định, cùng nhau viên dung vô ngại, chứng đắc lý thể chân tịch này, đắc được chân tâm của chúng ta, đó là thật chứng.
5. Nhân duyên thứ năm là: “Tiêu đảo tưởng, trừ tế hoặc”
Thế nào là “đảo tưởng”? Đảo là điên đảo, không phải chính xác. Nói: “Người này thật điên đảo!”, không phải nói người đó thật điên đảo, mà nói người ấy tư tưởng điên đảo, tư tưởng không chính xác. Cho nên Tôn giả A Nan từ chỗ Ma Đăng Già Nữ trở về bên Phật, đảnh lễ khấu đầu nói:
“Diệu trạm tổng trì bất động tôn”, “Tổng trì”, Phạn ngữ là “Đà La Ni”, tức là chú. “Bất động tôn” tức là biểu hiện của đại định Lăng Nghiêm, định này gọi là Bất động tôn”. “Diệu trạm tổng trì” và “bất động tôn” hợp lại chính là Phật, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có thể xưng là “Diệu trạm tổng trì bất động tôn”.
“Thủ Lăng Nghiêm vương thế hy hữu”, chính là đại định Lăng Nghiêm, là pháp môn hy hữu quan trọng bậc nhất. Làm sao mà hy hữu? Vì có thể: “Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng”, có thể tiêu trừ ức kiếp điên đảo tưởng, ức kiếp là thời gian xa xôi vô lượng vô biên đời đời kiếp kiếp về trước. “Điên đảo tưởng” là tưởng những việc không chánh đáng. Vậy cái gì gọi là điên đảo tưởng? Tất cả những tư tưởng của những người thế gian chúng ta đều là điên đảo tưởng. Cho nên công dụng của kinh Lăng Nghiêm là có thể tiêu trừ vọng tưởng điên đảo của chúng ta, “Trừ tế hoặc” là trừ đi những mê hoặc vi tế của chúng ta, những mê hoặc này nhỏ đến nỗi mắt thường không thể thấy, tai không nghe được, tâm nghĩ không ra.
“Bất lịch tăng kỳ hoạch Pháp thân”, có nghĩa là tiêu trừ tư tưởng điên đảo từ vô thủy đến nay, từ vô lượng kiếp về trước, mà không cần trải qua ba tăng kỳ trăm ngàn ức kiếp, không cần trải qua thời gian xa xôi lâu dài mà liền có thể đốn ngộ chân tâm tức là Pháp tánh thân vốn có, cũng tức là Như Lai Tạng Tánh. xx
Chúng ta khi một niệm bất giác liền sanh ra ba loại tế hoặc. Niệm là thời gian rất ngắn, trong một thời gian rất ngắn có thể sanh ra ba loại mê hoặc vi tế. Có câu: “Tế hoặc như trần, tự tánh như cảnh” Mê hoặc này giống như bụi trần. Nếu ở phòng này có bụi bặm, thì trong một giây có rất nhiều bụi dính trên gương. Khi dính bụi ít thì không cảm nhận được; khi dính bụi nhiều thì tấm gương không còn trong sáng. Mê hoặc vi tế của chúng ta cũng giống như bụi bám trên tấm gương vậy. Tự tánh Đại Viên Cảnh Trí của chúng ta giống như tấm gương sáng, nhưng vì sanh ra tế hoặc này nên che lấp tấm gương sáng, che lại che đi, che càng ngày càng dày. Nên Đại sư Thần Tú mới nói bài kệ tụng rằng:
“Thân thị Bồ đề thọ,
Tâm như minh cảnh đài,
Thời thời cần phất thức,
Vật sử nhạ trần ai!”
Dịch:
Thân như cây Bồ đề,
Tâm như đài gương sáng,
Thường siêng năng lau chùi,
Đừng để dính bụi nhơ!
Có người nói bài kệ này không đúng, nhưng tôi cho rằng đúng. Tại sao vậy? Vì mỗi người đều vốn có hột giống Bồ đề, cho nên ví dụ thân này như cây Bồ đề, bổn tánh chân tâm của người giống như tấm gương thanh tịnh sáng suốt, cho nên Ngài nói cần phải thường thường lau chùi, tức là cần phải thường thường tu hành và khuyên hành giả không nên để cho chân tâm sáng suốt thanh tịnh bị thế trần ô nhiễm, thật là: “Hôm nay lau, ngày mai chùi, chùi đi chùi lại như gương sáng”, chùi sạch hết bụi thì gương sáng lại hiện ra, thì không còn mê hoặc vi thế nữa. Cho nên nói “thường siêng năng lau chùi đừng để dính bụi nhơ”, khích lệ người tinh tấn, siêng năng tu hành là đúng, trước khi khai ngộ cần phải theo đó mà tu hành.
Nhưng Lục Tổ Đại sư thì nói:
“Bồ đề bổn vô thọ,
Minh cảnh diệc phi đài.
Bổn lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai?”
Dịch:
Bồ đề vốn không cây,
Gương sáng cũng không đài.
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi nhơ?
“Bồ đề bổn vô thọ”, không có cây bồ đề nào. “Minh cảnh diệc phi đài”, tấm gương sáng chính là tấm gương sáng, không có đài gương. “Bổn lai vô nhất vật” vốn là không có bụi trần, thì cần gì phải lau chùi? “Hà xứ nhạ trần ai?” cái gì cũng không có, thì bụi trần lại dính vào đâu được. Nên bài kệ này là người khai ngộ nên biết, nên tuân theo. Có nghĩa:
“Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện,
Lục căn hốt động bị vân giá”.
Một niệm không sanh khởi, Phật tánh tức hiện tiền, định lực cũng xuất hiện; sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý vừa động, thì giống như bầu trời bị mây che phủ.
Vọng tưởng điên đảo tiêu diệt rồi, tế hoặc cũng trừ xong, thì rất nhanh chóng sẽ thành tựu Phật quả. Đáng tiếc chúng ta mỗi người đều không muốn thành Phật, mà muốn lưu luyến cõi ngũ trược ác thế này, ở thế gian này ở lưu luyến quên về, cho khổ là vui, đi ngược với giác ngộ, hợp với bụi trần, không liễu thoát được sanh tử mà còn cho rằng là hay, là tốt: “Xem tôi đây, vừa thông minh vừa đẹp đẽ, ai thấy tôi cũng đều ưa thích, việc mà người không hiểu, tôi đều hiểu rõ”. Thực tế, thì giống như tấm gương bị dính bụi trần, càng bám càng nhiều, bị phủ đầy vô số bụi trần, một chút ánh sáng cũng không có. Nay quý vị cảm thấy thông minh. Quý vị đợi đấy mà xem, qua mười đời sau, biến thành heo ngu si như thế cũng không chừng. Chớ nên không chú ý chỗ đi của chúng ta kiếp này, kiếp này chúng ta phải quyết định chỗ đi của chúng ta, nhận rõ con đường đi, nhận rõ chỗ đi mới có biện pháp.
Cho nên vì chúng sanh tiêu trừ điên đảo tưởng, “Trừ tế hoặc” tức là một nhân duyên lớn của kinh này.
6. Nhân duyên thứ sáu “Minh nhị môn, lợi kim hậu”
Nhị môn là hai pháp môn bình đẳng và phương tiện. Pháp môn bình đẳng hay Thật pháp, là nhất tâm vạn pháp, nghĩa là vạn pháp thì bình đẳng nhất tướng, vốn không sai khác. Pháp môn phương tiện là pháp quyền nghi hay Quyền pháp. Quyền là pháp quyền biến, không phải thật tại. Pháp quyền biến này là ngẫu nhiên, ở trong thật pháp mà thiện xảo vận dụng quyền pháp này. Quyền pháp là pháp tạm thời, không phải vĩnh viễn, mà thật pháp là pháp thật thật tại tại, vĩnh viễn không thay đổi, cho nên nói pháp có hai môn quyền pháp và thật pháp. Pháp môn phương tiện là quyền pháp, quyền xảo phương tiện, để dẫn vào thật pháp.
Thế nào là quyền pháp? Tôi đưa ra một ví dụ: như “Không quyền độ tử” của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài co nắm tay không, để cứu độ một đứa bé. Nguyên nhân là vì có một đứa bé đang bò về phía miệng giếng, sắp rơi vào trong giếng, nếu mà rơi vào giếng sẽ bị ngộp nước chết. Nếu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni kêu nó quay lại nhất định nó không nghe đâu, mà cứ tiếp tục bò về phía trước, vì thế Đức Phật Thích Ca Mâu Ni liền nắm bàn tay lại nói:
- Trong tay ta có kẹo, con nhanh nhanh đến đây, ta sẽ cho con kẹo.
Đứa bé nghe nói có kẹo ăn, bèn bò trở lại. Kỳ thật trong tay của Đức Phật không có gì hết, kẹo cũng không có. Đây có phải là Phật nói láo gạt đứa bé không? Không phải vậy! Vì đứa bé sắp rơi vào giếng, nếu không dùng một sức hấp dẫn nó, khiến nó nhanh chóng trở lại thì nó đã rơi vào miệng giếng rồi, nên Đức Phật dùng nắm tay không này, trong nắm tay không đó không có gì hết, mà Phật nói trong nắm tay có kẹo, khiến cho đứa bé quay trở lại. Tại sao quay trở lại? Vì muốn ăn kẹo.
Phật Đà giáo hóa chúng sanh, thường dùng loại pháp môn phương tiện thiện xảo này. Vốn không có gì, mà Đức Phật nói với chúng sanh:
- A! Ta ở đây có đồ quý báu, các ông đến chỗ ta, ta sẽ cho ông quý giá, ta ở đây có bảo châu vô giá, lại có đồ tốt nhất.
Vì chúng sanh có lòng tham, hễ nghe nói có ích lợi bèn đến, đến rồi thì kết quả là pháp môn phương tiện, đó là quyền xảo. Pháp môn quyền xảo độ chúng sanh, đó là dùng một loại pháp môn phương tiện, đó là môn thứ hai, là pháp môn phương tiện.
“Lợi kim hậu”: lợi là lợi ích, lợi ích kim hậu. “Kim” có thể chỉ lúc Phật còn tại thế, cũng có thể chỉ bây giờ, từ bây giờ cho đến nhất thiết chúng sanh ở tương lai, vì mọi người đều có thể đạt được lợi ích này, được thấm nhuần trong Phật pháp, cho nên nói “Minh nhị tướng, lợi kim hậu”, đó là điều thứ sáu trong môn thứ hai “khởi giáo nhân duyên”.
Do có nhân duyên này nên thuyết bộ kinh Lăng Nghiêm, mà kinh này thì lấy hai loại pháp môn bình đẳng và phương tiện thuyết pháp. Pháp môn bình đẳng là thật pháp, pháp môn phương tiện là pháp quyền nghi, Phật dùng hai loại pháp môn này giáo hóa hết thảy chúng sanh, khiến cho hết thảy chúng sanh lìa khổ được vui, cuối cùng chứng được Phật quả. Đó là bộ kinh này làm lợi ích chúng sanh.
Vì có sáu loại nhân duyên nên thuyết bộ kinh Lăng Nghiêm này.
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong lần thuyết giảng “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 2 tháng 4 năm 1987.
Quý vị nhất định không mong muốn tôi đến, vì sao không muốn tôi đến? Vì mỗi lần tôi đến, quý vị đều lúng túng, bối rối, lo lắng, hết hồn hết vía, thấp thỏm không yên, ăn không ngon, ngủ không yên, cũng không biết y phục trang nghiêm chưa. Nhưng quý vị lại mâu thuẫn mong muốn tôi đến, nên tôi không thể không đến, đó là mâu thuẫn trong mâu thuẫn. Trên thế giới có rất nhiều sự việc đều rất mâu thuẫn. Nhưng cũng từ trong mâu thuẫn mới có thể hiển bày ra không mâu thuẫn. Nay chúng ta giảng:
1. Thị đa văn, hốt định lực
Đây là một nhân duyên giáo khởi, vì Tôn giả A Nan lúc ban đầu không tu hành, chỉ học nhiều hiểu rộng, học những văn tự bên ngoài, rơi vào chướng ngại của văn tự, vì vậy không có định lực, khi cảnh giới vừa đến thì suýt nữa đã té ngã. Vì sao vậy? Vì A Nan đã xem thường định lực, không có định lực.
2. Cảnh cuồng huệ, hộ tà tư
Nếu một người đa văn học rộng, thì rất dễ dàng có “Cuồng huệ”, nhưng Tôn giả A Nan tuy đa văn nhưng không có “Cuồng huệ”, vì thế nên có thể cứu độ. Người “Cuồng huệ” không nhất định đa văn, chỉ nương vào cái học nghe và ghi nhớ mà phát cuồng; họ chấp chặt vào cái tà tri tà kiến của mình, rõ ràng không đúng, nhưng sẽ biện hộ, nguỵ biện.
“Cảnh cuồng huệ, hộ tà tư” có thể sửa thành “Cảnh cuồng huệ, vật tà tư”, cảnh cáo những người cuồng huệ chớ nên nghĩ bậy nghĩ bạ; “Hộ” rất dễ khiến cho người ta hiểu lầm là bảo hộ giữ gìn tà tư, sau đó họ cho rằng bảo hộ những tà tư những tư tưởng sai lầm của họ là đúng, không thể kêu người phá trừ những tà tri tà kiến của họ; đó thật là cuồng trong cuồng, mê trong mê, nên sửa thành “Vật” (勿) “vật tà tư” có nghĩa là chớ nên, không nên, không nên tà tư.
3. Chỉ chân tâm, hiển căn tánh
Đó là bảy chỗ chứng tâm, mười lần hiển bày cái thấy trong kinh.
4. Thị tánh định, khuyên thật chứng
Đây là cái tánh của mình cần phải định, không nên bồng bột, chẳng nên không thật thà, mà cần phải lão lão thực thực. “Định” tức là lão thực nghĩa là thật thà, không phải gì khác chính là giữ gìn quy củ, giữ gìn giới luật, đó gọi là “Định”. Không nghĩ bậy nghĩ bạ, ngó đông ngó tây, nhìn trước nhìn sau, đó đều gọi là “Định”. Không phải chúng ta ngồi thiền mới là “Định”, bình thời đi, đứng, nằm, ngồi đều giữ gìn quy củ, không nên phóng túng, đó gọi là “Định”. “Thị tánh định” tức là chỉ thị tánh cần phải định, không nên có tính khí nóng nảy, không nên có phiền não; cần phải thành thật mới có sự chứng đắc chân thật.
5. Tiêu đảo tưởng, trừ tế hoặc
Tiêu trừ những vọng tưởng điên đảo từ vô lượng kiếp đến nay, trừ những mê hoặc vi tế mà mình nhìn không thấy, giác sát không đến. Hoặc có hoặc thô, hoặc tế, hoặc trần sa. Hoặc tế tức là những mê hoặc mà nhìn không thấy, giác sát không đến, cũng chính là tư hoặc, cũng chính là mê lý mà khởi lên phân biệt; kiến hoặc chính là đối với cảnh giới khởi lên tham ái.
6. Minh nhị môn, lợi kim hậu
Chúng ta cần phải hiểu rõ hai môn phương tiện và bình đẳng, mới có thể lợi ích cho chúng sanh hiện tại và vị lai.
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết.
Tam: Tạng Thừa Nhiếp Thuộc
Môn thứ ba là: “Tạng thừa nhiếp thuộc” cũng có thể nói là “tạng thừa phân nhiếp”. Tạng tức Tam tạng, chia làm Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng, Tam tạng lại thuộc về Tam vô lậu học. Tam vô lậu học là “Giới, Định, Huệ”. Kinh tạng thuộc Định học, Luật tạng là Giới học, Luận tạng là Huệ học. Trong kinh điển Trung Quốc thường thấy “Tam tạng Pháp sư”, tức là chỉ vị pháp sư thông hiểu Tam tạng Kinh Luật Luận. Những điều giảng trong Kinh tạng thuộc về Định học, đa số là dạy người tu định, ví dụ bộ kinh này là dạy người tu thiền định, trước đã nói “Thị tánh định, khuyến thật chứng” là tôn chỉ của bộ kinh này, cho nên bộ kinh này thuộc về Định học. Trong kinh cũng đề cập đến Giới học, có nói đến “tứ chủng thanh tịnh minh hối” - bốn lời dạy rõ ràng về sự thanh tịnh, đó là giảng về giới luật. Bộ kinh này cũng có Huệ học, nhưng giải thích không nhiều. Vì Giới, Huệ không nhiều nên bộ kinh này không thuộc Giới học, cũng không thuộc Huệ học, mà bộ kinh này lấy Định học làm gốc, thuộc về Kinh tạng, thuộc về Định học.
Nói đến thừa, vậy thừa là gì? Thừa là ví dụ xe cộ, xe có lớn nhỏ, xe nhỏ. Xe nhỏ chỉ có thể chở một người hoặc hai người, như xe đạp chỉ có thể ngồi một, hai người ở phía trên. Tiểu thừa không phải chỉ cho xe đạp mà là chỉ chung các loại xe nhỏ, xe nhỏ có thể chở người, nhưng không nhiều, nên gọi là tiểu thừa. Tiểu thừa là Thanh văn, Duyên giác thừa. Đại thừa là Bồ tát thừa, Bồ tát thừa ví dụ cho xe lớn, có thể chở rất nhiều người. Nên trong giáo lý của Đức Phật, có đại thừa và tiểu thừa.
Mà bộ kinh này là kinh điển đại thừa? Hay là kinh điển Tiểu thừa? Bộ kinh này là pháp dạy Bồ tát, là Chư Phật sở hộ niệm, là thuộc pháp Bồ Tát đại thừa, là đại thừa sở nhiếp, cho nên là một bộ kinh điển đại thừa. “Tạng thừa nhiếp thuộc” chính là như vậy.
Tại sao nói bộ kinh này là pháp dạy Bồ tát? Vì có một số A la hán muốn hồi tiểu hướng đại, phát tâm Bồ tát, hành đạo Bồ tát. Tôn giả A Nan từ nhà Ma Đăng Già Nữ trở về chỗ Phật, liền cầu thỉnh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chỉ cho A Nan con đường Bồ đề mà tất cả Như Lai thời quá khứ đã tu, vì thế Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới trả lời câu hỏi của A Nan. Pháp này là pháp tu của Bồ tát, cho nên bộ kinh này thuộc về Bồ tát thừa, không phải pháp tiểu thừa. Bộ kinh này đã thuộc về pháp Bồ tát, vậy sự “tạng thừa phân nhiếp” của bộ kinh này đã rõ ràng rồi.
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong lần thuyết giảng “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 6 tháng 4 năm 1987.
Khi phiên dịch, có nói người này muốn con mắt phải của Tôn giả Xá Lợi Phất không? Không. Chúng ta cần phải chú ý điểm này. Nếu người đó yêu cầu mắt phải, mà Tôn giả Xá Lợi Phất đã cho mắt phải rồi, thì như thế người này không đúng. Tại sao vậy? vì Tôn giả Xá Lợi Phất đã cho người ấy những gì người ấy muốn, vì thế người này không thể nói mắt cho mình là không đúng. Do vì người này không nói rõ điều mình muốn, mà Tôn giả Xá Lợi Phất cũng không hỏi rõ ràng người này muốn con mắt nào, nên móc ra con mắt phải cho người ấy. Nên người ấy mới nói: “Tôi muốn con mắt trái!” và đạp nát con mắt phải của Ngài. Như thế chúng ta không thể nói người này đầu tiên xin con mắt phải, mà y theo yêu cầu của người này sau khi đã cho rồi mà người này không cần. Như thế thì rất mâu thuẫn.
Người tập giảng pháp, không có nhắc đến người yêu cầu con mắt, thực tế là Thiên Nhân đến thử thách Tôn giả Xá Lợi Phất, để xem Ngài có phải là thật sự hành Bồ tát đạo không, muốn tu pháp Đại thừa không. Người giảng pháp không có đề cập đến, thì sẽ khiến cho mọi người không dám hành Bồ tát đạo. Nếu Tôn giả Xá Lợi Phất không dám hành Bồ tát đạo, thì chúng ta là ai? Chúng ta làm sao có thể dám hành Bồ tát đạo? Thì lần này sẽ khiến mọi người không dám phát tâm Bồ đề. Vì thế người giảng pháp cần phải khi kết thúc, nói rõ thực tế đây là Thiên Nhân đến thử thách Tôn giả Xá Lợi Phất.
Vậy thì Tôn giả Xá Lợi Phất đã xả bỏ con mắt, rồi sau đó thối lui về Nhị thừa, không hành Bồ tát đạo nữa. Con mắt của Ngài không phải là không còn, mà con mắt phải lại khôi khục, vẫn còn đó, nhưng Ngài không thông qua kỳ thì này, cho nên Ngài vẫn là một người Tiểu thừa. Chúng ta ở đây giảng pháp, nhất định phải học cho rõ Logic học, nếu quý vị không hiểu Logic mà thuyết pháp, sẽ khiến cho người thối tâm.
Lại nữa có người nói Tiểu thừa là tà định, Tiểu thừa không phải là tà định, nhưng nếu tâm lượng của người ấy nhỏ, thì định cũng giống như vậy, không có rộng lớn như Đại thừa. “Na Già thường tại định, vô hữu bất định thời”, bậc Bất Lai thường ở trong định, không lúc nào mà không định. Chánh định là đi, đứng, nằm, ngồi đều ở trong định, đều không thể làm những việc vọng động, trong bất cứ trường hợp nào đều không thể tùy tiện cười giỡn, như hiện ra cái dáng a dua nịnh bợ cho người ta xem, hoặc là nói bậy nói bạ, đó đều là không có định lực.
Nên từ điểm này, quý vị là những người học tập Phật pháp, đầu tiên cần phải học không nóng nảy. Bất cứ việc gì nóng nảy còn có thể được, nhưng là người tu đạo thì không thể nóng nảy. Sáu tông chỉ lớn chính là dạy cho người trừ đi sự nóng nảy, nếu không trừ được tánh nóng nảy, thì làm người nào cũng không được; ai có tánh nóng nảy thì người đó không thể tu hành! Việc khác có thể nóng nảy, chỉ có sự tu hành thì không thể sử dụng cái nóng nảy này, trong bất cứ trường hợp nào, bất luận là ai, khi giận lên thì rất xấu, cho nên không có ai quan tâm để ý đến. Trong Phật giáo, đối với Tỳ Kheo ác tánh là “Mặc tẩn”, không có ai nói chuyện với người này, Tỳ Kheo ni ác tánh thì càng không có ai mong muốn nói chuyện với người đó, hoặc là giao lưu kết bạn với người ấy, vì thế không nên mỗi chút mỗi nóng giận, điều đó thì không được!
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết.
Tứ: Nghĩa Lý Thâm Thiển
Môn thứ tư là: “Nghĩa Lý Thâm Thiển”. Vậy nghĩa lý mà kinh này nói ra là sâu hay cạn? Đạo lý mà bộ kinh này nói ra thuộc về giáo nào?
Căn cứ phán đoán của Thiên Thai tông, chia làm Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo, và Viên giáo. Tạng giáo là pháp tiểu thừa, thuộc Tam tạng giáo. Tam tạng giáo thuyết ra những kinh điển nào? Kinh điển nói ra là A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma), lại gọi là kinh A Hàm; kinh A Hàm (Agama) là tiếng Ấn Độ, tiếng Hoa dịch là “Vô Tỷ Pháp”, tuy nói là Vô Tỷ Pháp, nhưng theo sự phán giáo của Thiên Thai thì thuộc về pháp tiểu thừa, nên bộ A Hàm kinh còn gọi là Tam tạng giáo.
Sau Tam tạng giáo lại có Thông giáo. Thông tức là thông đạt. Ý là trước thông Tam tạng giáo, sau lại thông tới Biệt giáo, tức có nghĩa thông đạt trước sau, nên gọi là thông giáo. Sau Thông giáo là Biệt giáo, là giáo đặc biệt. Thế nào là Biệt giáo? Biệt giáo thì khác trước khác sau, không giống Thông giáo ở trước cũng không giống Viên giáo ở sau, nên rất đặc biệt. Sau Biệt giáo là Viên giáo. “Tạng, Thông, Biệt, Viên” là bốn giáo do Thiên Thai tông phán định.
Còn nếu phán định theo Hiền Thủ tông, thì giáo lý bộ kinh này thuộc về giáo nào? Pháp phán định của Hiền thủ tông, chia làm năm giáo, tức Tiểu giáo, Thủy giáo, Chung giáo, Đốn giáo và Viên giáo. Tiểu giáo tức Tạng giáo của Thiên Thai tông, Thủy giáo tức là Thông giáo và Biệt giáo của Thiên Thai, Chung giáo, Đốn giáo, Viên giáo đều bao gồm trong Viên giáo của Thiên Thai tông. Nên ngũ giáo tứ giáo này, tuy tên không giống nhau, nhưng lý luận là một. Y theo sự phân chia của Hiền Thủ tông, Thủy giáo là cái bắt đầu của đại thừa giáo, tiểu giáo chỉ biết nhân không, mà không biết pháp không, đối với pháp vẫn còn chấp trước, chưa được không. Còn Chung giáo thì đã nhập vào bên trong của pháp đại thừa, tức hiểu rõ nhân không và hiểu rõ pháp không; người cũng không, pháp cũng không, nhân không, pháp không, nhân pháp đều không còn. Đó là đạo lý thuộc đại thừa, nhân pháp đều không.
Nhắc đến nhân pháp đều không, tôi nhớ đến một công án:
Lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, thường có người cung thỉnh cúng dường, Đức Phật thọ cúng xong, thường thuyết pháp cho trai chủ nghe. Trai chủ (tức là người thỉnh Phật dùng cơm, cúng dường trai phạn). Chiếu theo luật nghi vị trai chủ phải hướng Phật cúi đầu đảnh lễ, sau đó cầu Phật thuyết pháp. Khi Phật không có, thì thỉnh đệ tử A la hán của Phật đi ứng cúng, ứng cúng xong cũng phải nói pháp cho trai chủ.
Một ngày kia, Phật dẫn chúng Đại Tỳ kheo đi ứng cúng, chỉ để lại một vị Sa di nhỏ ở chùa. Lúc đó có một vị trai chủ đến chùa muốn cúng dường. Cúng dường là làm một ít đồ ăn thanh khiết, thỉnh Đức Phật, hoặc Tỳ kheo hoặc Sa di đến nhà mình độ, đó gọi là “cúng dường Tam Bảo”. Nhưng Phật và chúng Đại Tỳ kheo đều đi trai hội, trong chùa chỉ còn một chú Sa di, vị trai chủ đó bèn nói:
- Chú là Sa di cũng được, tôi thỉnh chú đi ứng cúng, chú đi với tôi.
Chú Sa di này run lẩy bẩy đi ứng cúng. Tại sao run? Vì khi ứng cúng chú đều đi với các vị Tỳ kheo, chú chưa đi một mình bao giờ, nay người ta mời chú đi thọ trai, cũng không biết đến đó nói gì đây? Thuyết pháp nhưng không biết pháp thì làm sao mà thuyết? Nhưng không biết cũng phải đi, trai chủ thành tâm mời chú đi đến nhà cúng trai.
Thọ trai xong, vị trai chủ này bèn cung kính cúi mọp dưới đất hướng vị Sa di khấu đầu đảnh lễ cầu pháp. Vì Sa di đang ở trên tòa nhìn thấy trai chủ cúi đầu quỳ mọp đang đợi mình thuyết pháp. Quý vị đoán xem vị Sa di làm cách nào đây? Chú Sa di sợ quá bèn yên lặng rời khỏi tòa ngồi chạy một mạch về Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên. Chú ăn cơm xong, không thuyết pháp đã chạy đi. Trong tâm nhất định rất xấu hổ, rất ngại ngùng.
Vị trai chủ đó cúi đầu quỳ rất lâu, không nghe thấy giảng pháp gì: “A! Chú Sa di này nói pháp gì đây?”, bèn lén ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy tòa ngồi không có ai cả, chú Sa di không có ở đó nữa. Ông ta nhìn thấy chú Sa di không còn nữa, trong khoảnh khắc sát na đó liền khai ngộ. Vậy thì ông ta đã khai ngộ cái gì? Ngộ được nhân không pháp không, người cũng không, pháp cũng không. Lúc đó lập tức giác ngộ rằng: “A! thì ra là như vậy”. Nhưng mà chỉ khai ngộ vẫn không được, cần phải đi cầu ấn chứng, bèn gấp rút chạy đến vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc tìm vị Sa di đó cầu ấn chứng.
Vị Sa di đó, sau khi trốn trở về chùa bèn vội vàng trốn trong phòng của mình, đóng cửa khóa (lock) lại cẩn thận. Tại sao phải khóa cửa? Vì sợ vị trai chủ đó đến tìm chú đòi nợ pháp, muốn chú thuyết pháp, mà chú không có pháp nào để thuyết, nên khóa cửa lại, sợ vị trai chủ này tìm chú. Nào ngờ vừa khóa cửa không lâu, trai chủ quả nhiên đã đến nơi tìm và gõ cửa chú. Chú Sa di sợ quá cuộn mình co lại, không dám lên tiếng: “Làm sao đây, đã ăn cơm của người ta, nay người ta đến cầu pháp, làm sao đây?” Trong lúc lo lắng như vậy chú Sa di cũng khai ngộ. Hai người cùng khai ngộ, cũng khai ngộ được đạo lý “nhân không pháp không”.
Vì thế không biết có nhân duyên gì? Hoặc quý vị vừa lo lắng cũng có thể khai ngộ, hoặc là quý vị vui vẻ đều có thể khai ngộ, hoặc quý vị cảm thấy có cảnh giới gì đến, gõ vào, đụng vào, đều khai ngộ, nên khai ngộ không giống nhau. Có người nghe tiếng gió thổi bèn khai ngộ, có người nghe tiếng nước chảy bèn khai ngộ, có người nghe tiếng chuông, tiếng khánh đều có thể khai ngộ.
Thưa:
- Con nghe nhiều như thế tại sao chưa có khai ngộ?
Tôi làm sao biết được tại sao quý vị không khai ngộ? (Thượng Nhân gõ chuông) Nay nghe tiếng chuông này, có khai ngộ không? Vì thế khai ngộ, phải đợi đúng lúc, như nấu cơm, khi nấu cơm chín mới được ăn, sự khai ngộ của quý vị cũng phải đợi đến lúc cơ duyên chín mùi mới có thể khai ngộ, khi cơ duyên thành thục thì chỉ cần đụng vào, gõ vào, hoặc là như thế nào đó đều có thể khai ngộ.
Trung Quốc các vị Tổ sư các đời sự khai ngộ của các Ngài rất nhiều dạng, không phải là một dạng. Cho nên chỉ cần chuyên tâm nhứt trí tu hành, nghiên cứu Phật pháp, thì nhất định có ngày quý vị sẽ khai ngộ, sẽ hiểu rõ. Nếu quý vị hôm nay khai ngộ thì càng tốt, còn chưa khai ngộ, thì nên từ từ chờ đợi, đừng lo lắng nôn nóng; không nên lông lắng nôn nóng đến nỗi ăn không ngon, ngủ không yên, không nên như thế! Tôi biết Loni (Quả Dật) vì không lo lắng nôn nóng, nên cô ấy ngủ được, cứ thường muốn ngủ.
Chung giáo, ngộ nhân không và pháp không, đó là được vào trong biển giáo pháp đại thừa. Nhưng Chung giáo vẫn chưa là cứu cánh, lại có Đốn giáo cao hơn Chung giáo nữa. Chung giáo là pháp dạy Bồ tát. Lại có Viên giáo, Viên giáo là tất cả viên dung vô ngại, tất cả vốn là Phật. Kinh Pháp Hoa thuộc về Viên giáo, nên trong kinh Pháp Hoa nói tất cả chúng sanh tương lai đều có thể làm Phật: “Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng Nam mô Phật, giai cộng thành Phật đạo”. Đó là nói người này vào trong tháp miếu, khi người ta vào trong tháp miếu lễ Phật, tâm vốn phải thành kính, phải chuyên nhất, nhưng người đó đến tháp miếu lễ Phật, niệm Nam mô Phật không có thành tâm, nhưng nhờ một niệm Nam mô Phật mà tương lai sẽ thành Phật.
Giảng đến đây tôi nhớ một công án. Như chúng ta niệm Phật, một câu Nam Mô Phật, liền hồi hướng cho tất cả chúng sanh, niệm Phật nên vì mọi người mà niệm, vì chúng sanh niệm, chứ không phải vì mình mà niệm, như thế thì công đức càng thêm lớn, càng viên dung vô ngại. Tại sao vậy?
Lúc Phật còn tại thế, có lần dẫn chúng đệ tử đến một nước nọ, mà quốc vương thần dân ở nước đó đều không hoan nghênh và cũng không cúng dường Đức Phật và Chư Tăng. Lần đó Mục Kiền Liên không có đi chung với Phật. Sau đó khi Tôn giả Ma Ha Mục Kiền Liên đến chỗ này, quốc vương đại thần, cho đến dân chúng của nước đó đều cung kính đảnh lễ hoan nghênh và hết lòng cúng dường các thứ cần dùng.
Như thế đệ tử của Phật cảm thấy vô cùng lạ kỳ, không hiểu vì sao, bàn luận rằng:
- Đức hạnh sâu dày như Phật đến thành này không được người hoan nghênh, không được người cúng dường, ngược lại Mục Kiền Liên là đệ tử của Đức Phật lại được nhiều người cung kính, tại sao như vậy?
Bèn thưa hỏi Phật. Đức Phật bèn giải thích cho chúng đệ tử:
- Tại sao Ta đến đây, quốc vương, đại thần, dân chúng không cúng dường? Vì trong kiếp quá khứ Ta và họ không có gieo trồng thiện duyên, không có kết duyên gì cả, mà Mục Kiền Liên và họ có duyên gì? Trong vô lượng kiếp quá khứ về trước, Tôn giả Mục Kiền Liên là một vị tiều phu đốn củi. Có lần lên núi đốn củi, gặp phải một tổ ong. Tổ ong này đến châm đốt Mục Liên, Mục Liên lúc đó đã niệm Phật và phát nguyện: “Nam Mô Phật! Các ngươi không nên đốt tôi, tương lai tôi đắc đạo, trước sẽ độ các ông thành Phật, không nên khởi ác tâm hại người”. Khi Mục Liên phát nguyện như thế, đám ong không có đốt nữa. Sau đó, tổ ong này luân chuyển đến hôm nay, con ong chúa trở thành vua của nước này, các con ong thợ thì trở thành quan đại thần hoặc nhân dân của nước này. Vị tiều phu đó trong kiếp này là Tôn giả Mục Kiền Liên xuất gia làm Tỳ kheo, đến thành này, vì xưa kia từng phát nguyện độ chúng sanh, cho nên hôm nay gặp lại liền nhận được sự cúi đầu đảnh lễ, nhiệt liệt cung đón của tổ ong. Tại sao vậy? Đây là nhân duyên kiếp trước tạo thành, kiếp trước Mục Liên phát nguyện độ họ thành Phật, nên hôm nay được họ hoan nghênh tiếp đón như thế.
Từ việc cho nên chúng ta tu đạo cần nên kết duyên với tất cả chúng sanh, nên quan tâm họ, phát nguyện hóa độ họ, khiến cho mỗi một chúng sanh đều thành Phật, không những khiến cho mỗi một chúng sanh thành Phật mà độ cho tất cả chúng sanh đều thành Phật. Khi quý vị phát lời nguyện này, trong vô hình quý vị nhìn không thấy, nhưng người và tâm chúng sanh đều có một vô tuyến điện thông nhau, quý vị không nhìn thấy, nhưng quý vị đối với người tốt, người đó trong âm thầm nhất định sẽ biết.
Đối với tất cả chúng sanh quý vị đều nên có tâm muốn độ họ thành Phật. Nếu chúng ta mỗi người đều có tâm này, thì đi đến đâu cũng đều có duyên. Thưa: “Con đi đến một chỗ kia, không có ai chào hỏi con, không có ai quan tâm đến con”. Tại sao vậy? Vì đời trước của quý vị không có gieo duyên với người ở chỗ đó. Nên chữ “duyên” này rất quan trọng. Chúng ta mỗi người tu đạo, cần phải kết duyên với tất cả chúng sanh, nghĩa là: “Vị kết Bồ đề quả, tiên kết chúng sanh duyên”. Trước khi chưa thành Phật, cần phải kết duyên với chúng sanh.
Làm sao mà kết duyên với chúng sanh? Chính là đối xử tốt với tất cả chúng sanh, dùng tâm tốt đối với tất cả chúng sanh, lấy việc tốt đối với tất cả chúng sanh; việc nào mà sức mình làm được, thì nên cố gắng làm việc tốt. Điều này rất quan trọng, đây là phát tâm của Bồ tát đại thừa, không nên làm A la hán tiểu thừa, chỉ biết độ mình; không nên chỉ biết có mình, không để ý đến người khác.
“Muốn kết quả Bồ đề, rộng kết chúng sanh duyên”. Tại sao phải kết duyên với chúng sanh? Vì chúng sanh tức là Phật, quý vị đối với chúng sanh tốt tức là đối với Phật tốt; quý vị đối với chúng sanh không tốt tức là đối với Phật không tốt. Vì thế quý vị có thể xem tất cả chúng sanh là Phật, thì chúng sanh cũng sẽ xem quý vị là Phật; nếu xem chúng sanh là ma vương thì chúng sanh cũng xem quý vị là ma vương. Điều đó giống như mang một cặp kính màu xanh nhìn người, nhìn thấy người cũng có màu xanh. Còn người ta nhìn ngược lại quý vị thì sao? Thì nhìn thấy quý vị cũng là màu xanh như vậy. Còn đeo kính màu hồng thì sao? Nhìn người thì đều là màu hồng. Con mắt quý vị nhìn người như thế nào, thì người ta nhìn quý vị như thế ấy.
Cho nên tôi vừa mới nói: Trong tâm tất cả chúng sanh, đều có vô tuyến điện thông với nhau, cùng liên hệ với nhau. Quý vị đừng nên cho rằng quý vị móng lên một tâm niệm ác, người khác không biết. Đúng vậy! Người đó không biết, nhưng tự tánh của người đó có một loại cảm giác, sẽ biết được. Nên người đối với người, nếu đối với người tốt, đó thuộc về dương quang; đối với người xấu, đó thuộc về âm quang.
Môn thứ tư “Nghĩa lý thâm thiển” Nghĩa là ý nghĩa của kinh; lý tức là đạo lý. Nghĩa lý của bộ kinh Lăng Nghiêm này, là sâu hay cạn? Đạo lý của nó thì sâu như đại dương, nhưng đại dương đó quý vị biết nó sâu bao nhiêu không? Có người nói đo lường biết được; tuy nhiên, quý vị đo chỗ này sâu như thế, chỗ kia có thể là cạn một chút, hoặc là sâu hơn một chút, nên không đo được độ sâu của đại dương thực ra là bao sâu. Đạo lý của kinh Lăng Nghiêm cũng như vậy, cũng chính là quý vị không dễ dàng nghiên cứu cùng tận đạo lý này. Chúng ta mỗi người, người này được lợi ích từ kinh Lăng Nghiêm, người kia được ích lợi từ kinh Lăng Nghiêm, mỗi người đều được sự lợi ích không giống nhau, nhưng trí huệ này đều được từ kinh Lăng Nghiêm. Do vì lý sâu của kinh điển, cho nên trí huệ của chúng ta cũng rất lớn, định lực đắc được mới kiên cố, cho nên gọi là “Nhất Thiết Sự Cứu Cánh Kiên Cố”, cũng chính là đạo lý này.
Vậy cái định lực vừa sâu vừa kiên cố đó, chúng ta mỗi người nghiên cứu bộ kinh này, mỗi người đều có sở đắc, quý vị cũng đắc được, anh ta cũng đắc được, đối với nghĩa lý kinh, không phải quý vị đắc được mà nghĩa lý kinh giảm đi một chút. Lý thâm sâu huyền diệu của bộ kinh này cũng giống như nước biển vậy, quý vị lấy nước của biển lớn này, nước biển vẫn như vậy, nước biển thì vô cùng vô tận. Đạo lý của kinh này cũng vô cùng vô tận. Quý vị khai ngộ, đạo lý của kinh này vẫn nhiều như thế, quý vị chưa khai ngộ nó cũng nhiều như thế. Quý vị lấy đi bao nhiêu trí huệ, thì trí huệ mà kinh này chứa đựng, không tăng không giảm, nên nghĩa lý của bộ kinh này, sâu rộng như đại dương bao la mênh mông, không cùng tận.
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong buổi tọa đàm về chủ đề “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 6 tháng 4 năm 1987.
Nay chúng ta nghiên cứu kinh điển, không nhất định ai cũng có thể giảng rất chính xác, cho nên ai giảng không chính xác thì cần phải sửa lại, không nên lấy sai truyền sai, điều này rất quan trọng, nếu không chỉnh sửa lại, thì đến khi nói bên ngoài nói chuyện, dường như là đúng nhưng sẽ làm trò cười cho thiên hạ.
Pháp tuy là viên dung vô ngại, nhưng pháp cũng có bổn lai diện mục của pháp, bản thân như thế nào, không thể phụ họa, vơ đũa cả nắm, không thể tùy tiện, lý thì viên dung vô ngại, nhưng về sự thì có rất nhiều thứ không giống nhau. Giống như “Nghĩa lý thiển thâm”, tức là nói bản thân của bộ kinh Lăng Nghiêm này là sâu, là cạn chớ không nói việc gì khác, không phải nói Tiểu thừa thì như thế nào, Đại thừa lại như thế nào, mà nói về bản thân của bộ kinh này. Giống như người này rốt cuộc là cao hay thấp? là mập hay ốm? Cạn thì giống như ốm, sâu thì giống như mập; cạn cũng có thể nói là thấp, sâu cũng có thể nói là cao. Vậy bộ kinh này sâu bao nhiêu? Đúng vậy, bộ kinh này là khai mở trí tuệ, còn có tu định. Khai mở trí tuệ cần phải tu định, muốn tu định cần phải có giới, có giới để giúp đỡ cái định, có định mới có thể trợ giúp cho huệ, vì thế lên đến cực điểm như thế là sâu. Lại nữa kinh Lăng Nghiêm cũng giảng “Bốn loại thanh tịnh minh hối”, đó là chỗ từ cạn đi vào sâu, điều này rất đơn giản, rất dễ dàng nhận thức, nên nói “Bốn loại thanh tịnh minh hối” là căn bản của kinh Lăng Nghiêm. Cũng có thể nói như thế, bộ kinh này là khai ngộ thành Phật, đây là chỗ sâu sắc của kinh Lăng Nghiêm.
Đạo lý của kinh điển, người trí thấy trí, người nhân thấy nhân, người sâu thấy sâu, người cạn thấy cạn, người lớn thì thấy là đạo lý của người lớn, người nhỏ thì thấy đó là đạo lý của người nhỏ - giống như lời Tri Trinh đã nói, cách nhìn của cô ta thì đúng, đối với người chưa học qua Phật pháp thì rất có logic.
Tại sao Phật thuyết bộ kinh Lăng Nghiêm này? Vì để khai ngộ thành Phật, khai mở đại trí huệ! Vì thế bộ kinh này là cứu cánh kiên cố, là cứu cánh nhất, sâu nhất, ảo diệu nhất, đạo lý này không thể nghĩ bàn. Tuy có người nói là thông giáo, thông trước, thông sau, có thể thông tạng giáo ở phía trước, và thông biệt giáo ở phía sau, nhưng đó không phải là chánh đề, chỉ là ý nghĩa phụ thuộc.
Vì thế nhìn pháp cần phải nhìn cho viên dung vô ngại, rồi sau đó nhận thức, hiểu rõ. Giống như người chúng ta quen biết vậy, người này là cao hay thấp, mập hay ốm, đen trắng hồng, biết thế nào là bên ngoài, thế nào là nội tại bên trong. Nếu chúng ta xem một bộ kinh như xem một người, trong ngoài đều nhận thức hiểu rõ, sau đó mới có thể hiểu rõ kinh nghĩa, thì sẽ không sai bao nhiêu, không có yếu quyết nào khác. Mỗi người có một bộ kinh, bộ kinh này là nghĩa lý thâm sâu hay cạn cợt, là tạng thừa sở nhiếp, bộ này đều có. Vì thế nhìn pháp quý vị cần phải nhìn cho sống động nhưng sống động lại không thể giảng sai, cần phải có hệ thống.
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết.
Ngũ: Năng Thuyên Giáo Thể
Môn thứ năm trong mười môn phân biệt là: “Năng Thuyên Giáo Thể”
Giáo thể là gì? Tại sao lại cần có giáo thể. Tất cả pháp mà Phật thuyết ra đều có giáo thể. Giáo thể của bộ kinh này là gì? Là bao gồm: thanh, danh, cú, văn; danh là danh tự; cú là câu; văn là văn chương.
Lúc Bồ tát Văn Thù thỉnh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: “Con nay thỉnh Như Lai, xuất hiện ở đời”. Như Lai xuất hiện ở đời thuyết ra giáo thể là gì?” Đức Phật trả lời:
- Thử phương chân giáo nghĩa, thanh tịnh tại âm văn.
Thử phương, tức chỉ thế giới Ta Bà; chân giáo thể, giáo thể chân chánh là gì? Thanh tịnh tại âm văn, âm văn chính là thể của giáo. Âm văn là âm thanh, nhưng chỉ có âm thanh, không thể gọi đó là giáo thể; vì gió cũng có thanh âm, nước cũng có thanh âm, nhưng đó không thể trở thành giáo thể.
Vậy giáo thể là gì? Thanh, danh, cú, văn. Thanh là thanh âm mà Phật thuyết pháp ra, do thanh âm này mà sanh danh mục (words hay chữ), có danh mục tức sanh câu cú (sentences), từ câu cú thành ra văn chương (writings), cho nên thanh, danh, cú, văn là giáo thể của bổn kinh này.
Thanh, danh, cú, văn này gọi là “Tùy tướng môn”. Ngoài ra, còn có “Duy thức môn”, bộ kinh này lại lấy duy thức làm giáo thể. Lại có “Quy tánh môn”, quy tánh môn không giảng về tướng, lấy sự quay trở về tánh làm giáo thể; quy là quay về, tánh là tự tánh. Lại có “Vô ngại môn”, lấy vô ngại làm giáo thể.
Duy thức môn giảng “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni quan sát cơ duyên, nên dùng pháp gì để độ, Ngài bèn ở trong tịnh thức này, sanh ra một loại thuyết pháp mà giáo hóa chúng sanh. Chúng sanh đó ở trong thức này, cũng được lợi ích của pháp, nên gọi là “Duy thức môn”, lấy duy thức làm giáo thể của kinh này.
Quy tánh môn là viên dung vô ngại, không còn thức, quay thức trở về tánh, phản thức quy tánh, trở về cái tự tánh, lấy quy tánh làm giáo thể.
Thế nào là “Vô ngại môn”? Ở trên có lý có sự, quy tánh môn là một loại lý. Vậy bốn loại (Tùy tướng môn, Duy thức môn, Quy tánh môn và Vô ngại môn) hợp lại, có sự sự vô ngại, lý sự vô ngại, lý sự đều vô ngại, đó gọi là vô ngại. Lấy vô ngại làm giáo thể của kinh này, không có chướng ngại, tất cả đều viên dung vô ngại.
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong buổi tọa đàm về chủ đề “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 4 tháng 5 năm 1987
Tất cả những kinh điển Đại thừa Phật giáo, đều có thể phán là thực tướng, lấy thực tướng làm thể; thực tướng là vô tướng, nhưng không có chỗ nào mà không có tướng. Thực tướng này chính là cái “Năng” giữa trời đất, “Năng” là nhìn mà không thấy. Vậy thì thể của kinh Lăng Nghiêm có bốn môn, mà quy nạp lại tức là viên dung vô ngại, tức là lấy thực tướng làm thể. Vì thế kinh điển này giảng tới giảng lui, vẫn là lấy thực tướng làm thể.
Nếu hiểu rõ thực tướng là thể của kinh điển, thì sẽ biết được ý nghĩa trong kinh điển đều có mối liên quan với thực tướng, đều do thực tướng sinh ra. Vì thế bất luận là Tùy tướng môn cũng được, Duy thức môn cũng được, hoặc là Quy tánh môn, Vô ngại môn đều không ra ngoài thực tướng này. Phàm là kinh điển Đại thừa, bất luận bộ kinh nào cũng đều có thể lấy thực tướng làm thể của kinh. Bộ kinh này lấy tứ môn để giải thích thực tướng, tuyên dương hiển bày thực tướng. Nói về căn bổn, ngay thực tướng cũng là vô tướng. Thực tướng vô tướng, viên dung vô ngại, cũng chính là dạy chúng ta không nên chấp trước cái có tướng này, dùng bốn môn để giải thích thể của kinh điển, cũng tức là ý nghĩa tuyên dương hiển bày thực tướng, cũng chính là như thế. Và những ý nghĩa mà mỗi quyển kinh của bộ kinh này nói đến, đều là quy nạp vào thực tướng, giảng tới giảng lui, chỉ là hiển bày thực tướng. Tuyên là tuyên hiển, hiển bày ra ý nghĩa thực tướng của bộ kinh này, khiến chúng ta hiểu rõ được ý nghĩa của thực tướng: “A! thì ra là như thế!” Giống như nhận biết được người, người da trắng, người da đen, người da vàng, người da đỏ, rốt cuộc là loại người nào.
Thể của bộ kinh này là thực tướng, kinh Lăng Nghiêm thuộc về kinh điển Đại thừa, dùng thực tướng làm thể, một loại phân biệt ra bốn môn, không ngoài dạy cho chúng ta sáng tỏ ý nghĩa thực tướng.
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết
Y theo cách nói của Hiền Thủ sớ “Khởi Tín Luận”, lược phân làm bốn môn: thanh, danh, cú, văn mà trên nói đến là “tùy tướng môn”, căn cứ chỉ thú của vạn pháp duy thức, lấy duy thức làm giáo thể, nên gọi là “duy thức môn”. Nhưng thức tâm vô thể, kinh này nói nhứt nhứt đều quy Như Lai Tạng diệu chân như tánh, nên hai giáo thanh, sắc đều lấy quy tánh làm giáo thể, gọi là “quy tánh môn”. Lại nữa, để nói rõ lý ba môn trước, tâm cảnh lý sự đều tướng vô ngại, cùng nhau nhiếp thọ viên dung, tùy tướng môn thuộc cảnh, duy thức môn thuộc tâm, hợp thành tâm cảnh vô ngại. Lại hai môn tùy tướng và duy thức môn thuộc sự, quy tánh môn thuộc lý, mà thành lý sự vô ngại, nên gọi là “vô ngại môn”, là giáo thể của bộ kinh này. XXX
Lục: Sở Bị Cơ Nghi
Môn thứ sáu là: “Sở Bị Cơ Nghi”. Thế nào là “sở bị cơ nghi”? Là chúng sanh được giáo hóa, là căn cơ được giáo hóa, gọi là cơ nghi. Cơ nghi này – là chúng sanh được giáo hóa trong bộ kinh này, là chúng sanh nào? Chúng sanh mà bộ kinh này giáo hóa là “hữu tình và vô tình, đồng viên chủng trí, hữu tình, vô tình đều có thể thành Phật”. Chủ yếu được giáo hóa là Thanh văn, Duyên giác và hữu học.
Thế nào là Thanh văn? Thanh văn là người nghe âm thanh Phật mà ngộ đạo, tu Tứ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Thế nào là Duyên giác? Duyên giác có hai: một là sanh vào lúc Phật tại thế, gọi là Duyên giác, tu mười hai Nhân Duyên mà ngộ đạo; hai là sanh vào lúc không có Phật, tu mười hai Nhân Duyên mà ngộ đạo, gọi là Độc giác. Vị Độc giác này trụ ở chốn rừng sâu hoang vắng, ẩn trong núi cao hang động, quán hiện tượng sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh của vạn vật trong trời đất, có nghĩa là “mùa xuân quán trăm hoa nở, mùa thu nhìn thấy lá vàng rơi”, nhìn thấy cảnh giới này mà ngộ đạo, đó gọi là Độc giác.
Bộ kinh này vốn giáo hóa hai loại đương cơ là Thanh văn và Duyên giác, lại giáo hóa hành giả hữu học. Thế nào là hữu học? Hữu học là còn có sở học, đó là tứ quả La hán, Bồ tát…, tứ quả La hán, Bồ tát gọi là hữu học vị, đạt đến quả vị Phật mới là vô học vị.
Ngoài ra còn giáo hóa định tánh Thanh văn, định tánh Thanh văn là không muốn từ tiểu thừa hướng về đại thừa; vậy bất định tánh Thanh văn thì sao? Bất định tánh Thanh văn thì từ tiểu thừa quay về đại thừa. Hồi tiểu hướng đại là có thể từ quả vị Thanh văn qua Duyên giác mà thành Bồ tát. Đó là các căn cơ mà bộ kinh này giáo hóa. Tuy nói bốn căn cơ này là đương cơ, nhưng nếu nói rộng, thì tất cả chúng sanh trong tam giới đều là chúng đương cơ của bộ kinh này, đều có thể giáo hóa. Nên môn phân biệt thứ sáu “sở bị cơ nghi” này, có thể khiến cho định tánh Thanh văn hồi tiểu hướng đại, phát Bồ đề tâm, thành Bồ đề quả, cho nên bộ kinh này có thể nói là vô cơ bất bị, vô nhân bất độ (không căn cơ nào không được gia bị, không người nào không được độ).
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong buổi tọa đàm về chủ đề “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 24 tháng 5 năm 1987.
Giáo lý của kinh Lăng Nghiêm là dạy người tu định, khai mở trí huệ; tu định, khai mở trí huệ thì đầu tiên cần phải nghiêm trì giới luật, điều này trong bốn loại “Thanh tịnh minh hối” nói rất rõ ràng. Nếu chúng ta có thể y theo bốn loại “Thanh tịnh minh hối” tu hành, tức là “Sở bị chi cơ” của kinh Lăng Nghiêm; ai không y theo bốn loại “Thanh tịnh minh hối” tu hành, thì người đó không phải là “Sở bị chi cơ” của kinh Lăng Nghiêm – chỗ quan trọng chính là chỗ này.
Vậy thì chúng ta trì giữ giới luật, y theo “Thanh tịnh minh hối” tu hành, còn cần có chánh tri chánh kiến. Làm sao có thể biết được đó là chánh tri chánh kiến? chánh tri chánh kiến tức là phải giữ gìn quy củ, mọi thời, mọi chỗ đều phải giữ gìn quy củ, giới luật chính là quy củ. Tại sao chúng ta cần phải giữ gìn quy củ? Vì nếu không giữ gìn quy củ thì sẽ tẩu hỏa nhập ma, cho nên đã đưa ra năm loại ấm ma. Trong sự biến hóa của năm loại ấm ma, rất dễ dàng lầm đường lạc lối.
Nếu quý vị không có giới lực, định lực, huệ lực chân chánh thì sẽ đi lầm. Cho nên “Sở bị chi cơ” của kinh điển, bất luận là Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát hoặc là phàm phu ai có thể giữ gìn giới luật, giữ gìn quy củ thì đó là người mà bộ kinh này bao gồm, bộ kinh này giáo hóa. Nếu quý vị nghĩ như thế, thì biết được kinh điển là rất quan trọng, tại sao quan trọng? Chính là phải giữ quy củ, không nên ưa thích những sự hư vinh, hoa trương, đó tức là “Sở bị chi cơ”.
Hôm nay có người giảng rất mạch lạc, cũng có người giảng không đạt yêu cầu, vậy hy vọng người không hiểu hỏi những người hiểu, người hiểu thì dạy những người chưa hiểu, cần phải giúp đỡ lẫn nhau, như thế thì đều là “Sở bị chi cơ” của kinh Lăng Nghiêm.
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết
Thất: Tông Thú Thông Biệt
Môn thứ bảy là: “Tông Thú Thông Biệt”. Thế nào là tông? Tôn sùng, sùng thượng gọi là “tông”; sở quy, sở thú hướng của tông là “thú”. Thế nào gọi là “Tông”? Như người tu nhị thừa chuyên giảng về nhân quả, nhị thừa là quyền thừa. Giáo pháp mà Đức Phật thuyết ra, có quyền thừa và thật thừa, quyền là ngắn ngủi tạm thời, thật là vĩnh viễn thường hằng, pháp môn quyền thừa tạm thời nói nhiều về nhân quả, như chuyên thuyết nhân quả cho người nhị thừa, vậy nhân là tông, quả là thú. Đến thật thừa thì giảng về “ngộ nhập”, vậy ngộ là tông, nhập là thú. Kinh này lấy Tôn giả A Nan làm đương cơ bị nạn, lúc đó Phật cứu A Nan, dạy A Nan hồi tiểu hướng đại, đó là tông, đến lúc A Nan đạt đến quả cao nhất, đó là thú. Cho nên bộ kinh này, tông thú thì thông với Phật đạo, không giống như các kinh điển tiểu thừa khác, bị trói buộc hạn chế vào quyền nghi giáo pháp của nhị thừa, không thể đạt đến Phật quả, nên có sự phân biệt với giáo lý nhị thừa.
Đệ tử: tông thú?
Thượng nhân: “Tôn sùng gọi là Tông, rất tôn sùng người đó gọi là “Tông”, chính là quý vị sùng bái người này. “Sở quy của Tông” là “Thú”, Thú tức là hướng về phía trước, thú hướng của tông tức là “Thú” đây là một loại học vấn.
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong buổi tọa đàm về chủ đề “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 26 tháng 5 năm 1987.
Tông thú thông biệt: đây là tông thú thông biệt của kinh Lăng Nghiêm, không phải tông thú thông biệt của kinh Pháp Hoa. Mỗi bộ kinh đều có “Tông” của kinh, đây là “Tông”; mỗi bộ kinh cũng đều có “Thú” của kinh, đây là “Biệt”. Tông của bộ kinh này và tông của các bộ kinh khác, tông là tông giống nhau, nhưng ý nghĩa của mỗi bộ kinh này thì không giống nhau. Cũng giống như mỗi người chúng ta làm cái gì, công việc của mỗi người chúng ta không giống nhau, công việc chính là tông của người ấy, công việc tuy không giống nhau, nhưng đều đang công tác, làm xong công việc chính là “Thú”. Lại như hiện nay chúng ta nghiên cứu Phật pháp, thời gian nghiên cứu chính là “Tông”, nghiên cứu hiểu rõ rồi là “Thú”, “Tông thú” đều là không nhất định.
Bộ kinh này, nói một cách đơn giản, chủ yếu là phá mê hiển bày cái chánh, phá mê lầm của Tôn giả A nan để hiển bày ra cái chân tâm, hiển bày ra con đường chánh. Thế nào là “Thú” của bộ kinh này? Có thể nói là phản mê quay về giác là “Thú”, từ đường mê đi đến đường giác, đó là “Thú”. Nay y theo Cổ Đức giảng, giới hạn ở trong sáu đối: phá hiển, thiên toàn, ngộ nhập, thể dụng, hành vị, phân mãn. Nhưng nếu nhận thức một cách tỉ mỉ rõ ràng, thì giảng như thế nào thì có lý như thế đó, không vào thì không được. Huống chi Cổ Đức đưa ra đều là những đạo lý giống nhau về mặt đại thể chỉ khác nhau một chút ít, không nên vì danh từ không giống nhau mà không hiểu rõ, mà nhìn thấy rất sâu, rất khó hiểu.
Lại lấy công việc để ví dụ, làm vi tính là làm việc, nghiên cứu khoa học cũng là làm việc, tính chất của việc không giống, nhưng đều là đang công tác làm việc, mà mục đích cuối cùng đều là vì kiếm tiền. Mục đích cuối cùng của việc nghiên cứu Phật pháp của chúng ta, không phải là mục đích kiếm tiền, mà là vì đạt được trí tuệ. Thú hướng của chúng ta chính là hướng về con đường Bát Nhã, lấy việc khai mở trí huệ làm thú hướng, đây là chỗ mọi người đều mong cầu đạt đến, nếu không chúng ta nghiên cứu Phật pháp làm gì? Nghiên cứu Phật pháp chính là muốn chuyển ngu si thành trí huệ.
Ngu si làm sao có thể bỏ được? Chính là phải bỏ cái mê, mê chính là ngu si; không mê, không điên đảo chính là trí huệ. Đây là ý nghĩa hết sức đơn giản, không cần dùng những lời cao siêu để giảng tông thú của bộ kinh này. Bộ kinh này lấy phá mê hiển chánh làm tông, lấy thành Phật làm thú, cứu cánh là muốn thành Phật, những điều tương tự ở đây đều có thể giảng, không nhất định phải giảng theo chú giải. Chú giải chỉ là chỉ dẫn một con đường cho chúng ta, nếu hiểu rõ rồi thì giảng như thế nào thì có đạo lý như thế ấy, nhưng cần phải có căn cứ, điều giảng ra phải hợp lý, phải phù hợp với ý nghĩa của kinh điển, đó là được rồi.
Lại đưa ra một ví dụ đơn giản hơn, ví dụ con nít thì nói: “Má! Con đói rồi”. Đó chính là lấy ăn cơm làm tông, ăn cơm no chính là thú. Lại như: “Má ơi! Con lạnh rồi” đó chính là lấy muốn mặc y phục làm tông, không lạnh là thú. Như nói: “Má! Con mệt rồi”. Tức là lấy muốn ngủ làm tông, ngủ rồi là thú – những đạo lý đã đưa ra ở trên thì rất dễ dàng hiểu rõ.
Kinh điển chính là làm cho chúng ta khi mê thì cần phải học cho hiểu rõ, nên khi mê cần phải lấy việc nghiên cứu Phật pháp làm tông, nghiên cứu hiểu rõ rồi, có chánh tri chánh kiến, chính là thú; hiểu rõ được điều này cũng chính là hiểu rõ tông thú của kinh điển.
Lại nói “Ăn cơm, mặc áo, ngủ đều là tông thú” đây không phải là lời nói đùa, nếu có thể thật sự hiểu rõ câu này, cũng có thể hiểu được tông thú . Quý vị không nên cho rằng quý vị đều biết ăn cơm, mặc y phục, ngủ nghỉ, kỳ thực quý vị không phải biết gì hết. Thật sự biết ăn cơm thì không ăn cũng không đói; biết mặc y phục thì không mặc cũng không lạnh; biết ngủ nghỉ thì không ngủ cũng không buồn ngủ.
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết.
Bát: Thuyết Thời Tiền Hậu
Môn thứ tám là: “Thuyết Thời Tiền Hậu”. Bộ kinh này Đức Phật thuyết vào lúc nào? Nếu bộ kinh này là lời khai thi của Đức Phật về việc hồi tiểu hướng đại, thì đáng lẽ thuyết vào thời Phương Đẳng. Mà Đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, lúc đó Vua Ba Tư Nặc sáu mươi hai tuổi; vua Ba Tư Nặc cùng tuổi với Phật, nếu y theo số tuổi của vua Ba Tư Nặc, thì bộ kinh này nên thuộc về thời Bát nhã. Nên thời tiền hậu chính là xác định bộ kinh này thuộc thời Phương đẳng hay là thời Bát nhã, nên ở trên (Hiền Thủ Tông) phán định bộ kinh này thuộc Chung giáo, là một thực pháp, đây là “Thuyết thời tiền hậu”.
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong buổi tọa đàm về chủ đề “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 4 tháng 6 năm 1987.
Môn thứ tám Thuyết thời tiền hậu: kinh Lăng Nghiêm thuộc về Phương Đẳng giáo. Phương Đẳng giáo thuộc về thông giáo, “Thông” là thông đạt vô ngại, lại có thể thông trước thông sau, hướng về phía trước có thể thông đến Tiểu thừa, hướng về phía sau có thể thông đến Đại thừa. Nên giáo nghĩa của kinh Lăng Nghiêm, có thể nói là Phương Đẳng thời hoặc Bát Nhã thời đều được. Thời Phương Đẳng là thông thời A Hàm, nên thời này là dạy Tiểu thừa từ tiểu quay về đại. Tại sao nói là thông phía sau? Thông phía sau là thông thời Bát Nhã. Thời Phương Đẳng là một cửa đầu tiên của Đại thừa, khi mới phát tâm Bồ đề Đại thừa. Vì thế có thể nói bộ kinh này là thuộc về Phương Đẳng hoặc thời Bát Nhã, thời này đều thông cả. Chúng ta nhìn thấy kinh điển phải nhìn cho linh hoạt, không nên chỉ chấp trước một phần; chấp trước một phần, đó là “Dĩ nhất phế bách”, lấy một cái mà phế cả trăm cái, cũng có thể nói là cố chấp không thông.
Vì thế “Thuyết thời tiền hậu” này là lúc nào? Chính lúc nói bộ kinh Lăng Nghiêm này. Lúc đó có thể nói là thời Phương Đẳng hoặc là thời Bát Nhã, đều là thông cả. Lúc đó vua Ba Tư Nặc 62 tuổi, nên Đức Phật cũng có lẽ là 62 tuổi. Đức Phật vốn thuyết xong thời Phương Đẳng là 50 tuổi, Đức Phật 30 tuổi thành đạo, 12 năm nói A Hàm, 8 năm nói Phương Đẳng, nên Đức Phật 50 tuổi. Nhưng vua Ba Tư Nặc nói vua 62 tuổi, nên cũng có thể là thời kỳ Bát Nhã, nhưng là đương thời Phật thuyết bộ kinh điển này, bộ kinh này không thuộc Bát Nhã giáo, mà thuộc về Thông giáo, nên phán là thời Phương Đẳng, đây là một ý nghĩa đại khái như vậy.
Chúng ta không nên quá chấp những điều nhỏ nhặt, chấp trước vào “Thời” này, mà thời này không phải là vấn đề. Từ xưa đến này các vị đại đức cao tăng, phân khoa phán giáo, có chỗ thì chính xác, có chỗ thì dư thừa vô ích, không cần thiết. Người đời sau nên nhìn những đạo lý này thật linh hoạt, cũng không nên nói nhất định là như thế, hoặc nhất định là không phải như thế; sử dụng cái ngã kiến của mình, nói nó không phải là lúc đó, hoặc là lúc đó, đây là “Pháp vô hữu định”.
Thời gian vốn là không có quá khứ, không có hiện tại, không có vị lai. Vậy thì hiện tại có thể nói là dường như lúc đó – nay nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, nay chính là lúc nói kinh Lăng Nghiêm; nhưng sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, nói chúng ta nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm. Cho nên “Thời” này là không nên chấp trước, chúng ta nếu vì nghẹn mà bỏ ăn, thì quá tiếc, vì thế không nên vì nghẹn mà không ăn cơm.
Đức Phật thuyết pháp, Cổ Đức tuy chia làm năm thời – thời Hoa Nghiêm, thời A Hàm, thời Phương Đẳng, thời Bát Nhã, thời Pháp Hoa, nhưng kinh điển không nhất định ở trong một thời nào giảng, chính là thuộc vào một loại nào, quy nạp vào trong thời nào. Nếu có thể nghĩ được như thế thì thật là viên dung, vô ngại, mới có thể “Tiền hậu quán thông”, thật sự đạt đến nghĩa lý của kinh. Đưa ví dụ ra nói, tuy nói Đức Phật 22 năm thuyết Bát Nhã, nhưng chúng ta không nên tin Đức Phật 22 năm chỉ nói Bát Nhã. Trong 22 năm chắc chắn sẽ có những giáo nghĩa khác, như Phương Đẳng giáo, cho nên không nên chấp trước vào thời gian. Có thể Đức Phật ở trong thời Bát Nhã cũng giảng một số giáo lý về Phương Đẳng, hoặc là trong thời Phương Đẳng cũng giảng một ít giáo lý Bát Nhã. Nếu lấy Gia Du Đà La thọ ký làm tiêu chuẩn, thì nói đó là thời Pháp Hoa Niết bàn, vậy thì làm sao biết được Phật trước kia không có thọ ký cho Gia Du Đà La? Đó đều không nhất định, đó đều là lấy tư tưởng phàm phu để đánh giá cảnh giới của Phật.
Cảnh giới của Phật là không thể nghĩ bàn, chúng ta không có cách nào biết được. Chúng ta không nên quá chấp trước Phật lúc nào thuyết kinh nào, chúng ta cũng không thể nói sau khi Đức Phật đã nói một bộ kinh thì không nói về nó nữa. Tóm lại chúng ta hôm nay nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, đó chính là lúc thuyết kinh Lăng Nghiêm; lúc nào không có nghiên cứu, đó không phải là lúc thuyết kinh Lăng Nghiêm.
Quý vị làm sao biết được vua Ba Tư Nặc không lần nữa thỉnh giáo kinh Lăng Nghiêm? Lúc đó vua Ba Tư Nặc nói vua 62 tuổi, cho nên quý vị làm sao biết được Đức Phật ở trong thời Bát Nhã, sẽ không thuyết lại kinh Lăng Nghiêm nghiên cứu thảo luận lại về ý nghĩa kinh Lăng Nghiêm? Vì thế chúng ta không thể nói sau khi Đức Phật đã thuyết qua rồi, thì sẽ không nhắc lại ý nghĩa của nó nữa. Ví dụ trước kia tôi giảng kinh Lăng Nghiêm, lúc đó là năm 1968, nay lại giảng, mà nay là 1987, như thế làm sao có thể nói chúng ta nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm là ở lúc nào? Đó không phải là hạn định ở một lúc nào. Nếu như Quả Bắc, năm 1968 ở phía bắc, nay đã đến phía nam, vậy thì đối với cô ta mà nói là năm 1987 nghe được kinh Lăng Nghiêm, lại cũng có thể thời Đức Phật giảng kinh Bát Nhã, mọi người đối với ý nghĩa kinh Lăng Nghiêm không hiểu, vì thế lại nghiên cứu lần nữa, như thế làm sao có thể xác định là lúc nào.
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết
Cửu: Lịch Minh Truyền Dịch
Môn thứ chín là: “Lịch Minh Truyền Dịch”. “Lịch” là kinh lịch trải qua; “minh” là làm cho mỗi người chúng ta đều minh bạch hiểu rõ sáng suốt; truyền là truyền thọ; dịch là phiên dịch. Ý là nói nguồn gốc sự lưu thông truyền bá phiên dịch của bộ kinh này.
Nói về nhân duyên của bộ kinh này, thì rất là lâu dài. Khi Thiên Thai Trí Giả Đại sư nghiên cứu tụng đọc kinh Pháp Hoa, thì chia tất cả kinh điển làm Tự phần, Chánh tông phần, và Lưu thông phần. Tự như trên đã giảng, là bài tựa; Chánh tông phần là tông thú của bộ kinh; Lưu thông phần, phần sau của kinh khuyên mọi người lưu thông bộ kinh này. Trí Giả Đại sư chia mỗi bộ kinh điển làm ba phần như thế.xx Khi Thiên Thai Trí Giả Đại sư gặp một vị Pháp sư từ Ấn Độ đến Trung Quốc, vị pháp sư này nói với Trí Giả Đại sư rằng:
- Ở Ấn Độ có một bộ kinh Lăng Nghiêm, bộ kinh này là cứu cánh, là cứu cánh nhất, sâu sắc nhất, là vi diệu nhất, đạo lý của kinh này thật không thể nghĩ bàn.
Thiên Thai Trí Giả Đại sư nghe nói như thế, mỗi ngày đều hướng về Tây phương lễ bái, mong cầu có thể nhìn thấy được bộ kinh Lăng Nghiêm, lễ bái suốt mười tám năm, mà cuối cùng vẫn không nhìn thấy được bộ kinh Lăng Nghiêm này.
Vì đương thời vua Ấn Độ vốn rất kính trọng kinh Lăng Nghiêm này, xem như quốc bảo. Tại sao là quốc bảo? Bộ kinh do Bồ tát Long Thọ lấy từ Long cung, cho nên người trong nước xem bộ kinh này là quốc bảo, cấm truyền ra nước ngoài. Sau đó Pháp sư Bát Thích Mật Đế, là vị phiên dịch bộ kinh này, đã từng có ý định lưu truyền bộ kinh này ra nước ngoài, nhất là muốn truyền đến Trung Quốc là nước có văn hóa sâu rộng. Lần đầu tiên Ngài muốn đem bộ kinh này truyền đến Trung Quốc, không ngờ vừa đến biên giới bị hải quan biên giới kiểm soát và tịch thu, không đem đi được. Sau đó Ngài trở về nghĩ đủ cách để đem bộ kinh này ra nước ngoài.
Ngài nghĩ ra biện pháp viết kinh này trên tấm vải trắng mịn màng nhất, viết chữ rất nhỏ, rồi lấy sáp niêm phong kỹ, sau đó Ngài tự rạch bắp tay nhét kinh vào, rồi dùng thuốc cao dán lên. Có người nói là giấu trong bắp đùi, tôi nghĩ giấu trong bắp đùi không cung kính, nhất định là Ngài giấu trong bắp tay, hoặc là một chỗ thịt dày trên thân, cắt thịt bỏ vào trong đó. Đợi đến vết thương lành mới xuất ngoại, lần này vì kinh giấu trong bắp thịt nên hải quan kiểm soát không ra, nên đã đem được đến Trung Quốc.
Khi Ngài đến tỉnh Quảng Đông Trung Quốc, vừa lúc gặp phải Thừa tướng Phòng Dung mới bị giáng chức đến Quảng Đông, bèn được Thừa tướng Phòng Dung mời đến chùa ở phiên dịch bộ kinh này. Đây là quá trình khó khăn của sự truyền dịch bộ kinh này. Nên hôm nay chúng ta mới có thể nghiên cứu đọc tụng bộ kinh này, là nhờ tâm không ngại cực khổ khó nhọc của vị Pháp sư Bát Thích Mật Đế, đem bộ kinh này đến Trung Quốc. Quý vị nghĩ xem, bộ kinh này quan trọng như thế! Trí Giả Đại sư được biết Thiên Trúc có kinh này, bèn kiền thành lễ bái mười tám năm, nhưng cuối cùng không nhìn thấy được một lần, chúng ta hôm nay không những được lễ bái mà còn có thể cùng nhau đọc tụng nghiên cứu, nhân duyên như thế, thù thắng biết bao nhiêu? Hy vọng quý vị trân trọng!
Nguyên văn:
唐中天竺沙門般刺蜜諦譯。
Âm Hán Việt:
Đường Trung Thiên Trúc Sa môn Bát Thích Mật Đế dịch.
Giảng:
“Đường” là triều đại nhà Đường. Trung Thiên Trúc: đây là tên của Trung Ấn Độ. Đời Đường vào lúc nào? Sau khi Vũ Tắc Thiên thối vị, niên hiệu Thần Long năm đầu tiên, có một vị Sa môn Ấn Độ.
“Thiên Trúc” là Ấn Độ. “Sa môn” (Shramana) là tiếng Ấn Độ, tiếng Hoa dịch là “cần tức”, nghĩa là tinh cần tu giới định huệ, tức diệt tham sân si. Phật cũng gọi là Sa môn.
Lúc Phật còn tại thế, có Tỳ kheo Mã Thắng đang đắp y đi trên đường, Tôn giả Xá Lợi Phất gặp Ngài, bèn hỏi:
- A! Thầy trang nghiêm uy nghi như thế, nhất định thầy có Sư phụ, xin hỏi thầy theo học với ai?
Tỳ kheo Mã Thắng trả lời:
“Chư Pháp tùng duyên sanh,
Chư pháp tùng duyên diệt,
Ngã Phật đại Sa môn,
Thường tác như thị thuyết”.
Nghĩa là tất cả pháp đều từ nhân duyên sanh ra, tất cả pháp cũng từ nhân duyên mà diệt. Sư phụ của tôi gọi là Phật, là vị Đại Sa môn, Ngài thường thuyết như thế. Xá Lợi Phất nghe Ngài Mã Thắng thuyết như vậy liền đi theo Ngài đến Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên, lễ Phật làm Thầy, xuất gia tu hành, cho nên Phật cũng gọi là Sa môn.
Vị Sa môn gọi là Bát Thích Mật Đế phiên dịch kinh Lăng Nghiêm này,
Bát Thích Mật Đế là tiếng Phạn, tiếng Hoa dịch “Cực Lượng”, ý là trí huệ tài năng đều cực kỳ phong phú, vô cùng viên mãn, tài năng của Ngài đạt đến cực điểm, là người chủ trì phiên dịch bộ kinh này. Tại sao gọi là dịch? Dịch là phiên dịch tiếng Ấn Độ thành tiếng Hoa. “Dịch” cũng chính là “dị”, có nghĩa là thay đổi biến dịch tức từ Phạn ngữ chuyển thành tiếng Hoa. Pháp sư Bát Thích Mật Đế là dịch chủ của bộ kinh này, sao gọi là “dịch chủ”?
Vì lúc đó đồng tiến hành phiên dịch bộ kinh này, không chỉ có mình Ngài, mà có rất nhiều Pháp sư tụ họp lại một chỗ cùng nhau phiên dịch bộ kinh này. Có khoảng bao nhiêu người? Có khoảng hơn hai trăm vị Pháp sư cùng nghiên cứu phiên dịch bộ kinh này. Lúc đó ở trong chùa Chế Chỉ, một ngôi tự viện lớn Quảng Châu, tiến hành công tác phiên dịch bộ kinh này.
Ngài đem bộ kinh này truyền vào Trung Quốc, phiên dịch thành tiếng Trung, rất nhanh chóng phiên dịch xong bộ kinh này. Tại sao Ngài muốn nhanh chóng dịch cho xong? Vì sau khi Ngài giấu kinh mang ra nước ngoài không bao lâu, quốc vương biết được và trách tội vị hải quan biên giới: “Tại sao các người lại để cho vị hòa thượng đem quốc bảo ra khỏi nước?” Cho nên Pháp sư dự định mau chóng về nước để nhận tội này, thà để quốc vương phạt mình chứ không muốn quốc vương trừng phạt những người hải quan. Vì thế sau khi nhanh chóng phiên dịch bộ kinh này, lại trở về Ấn Độ để nhận tội, tùy ý quốc vương xử phạt như thế nào thì thọ lãnh hình phạt như thế ấy. Do đây có thể thấy đức hạnh, tiết tháo cao thượng của vị Pháp sư này, và cũng có thể thấy được công đức cống hiến của Ngài đối với bộ kinh Lăng Nghiêm to lớn như thế. Chúng ta hôm nay được nghiên cứu bộ kinh này, phải nên tri ân công đức to lớn của Pháp sư Bát Thích Mật Đế, cho nên ngay đầu bộ kinh giới thiệu cho mọi người một đoạn hoằng pháp của vị Sa môn này.
Ở trên đã nói “Sa môn” là “Cần tu giới định huệ, tức diệt tham sân si”, chúng ta cũng nên học tập. Thế nào là “cần tu giới định huệ”? Đầu tiên cần quy y Tam Bảo, sau đó thọ trì ngũ giới; không phải chỉ thọ ngũ giới rồi thì thôi mà thọ rồi cần phải y theo giới thực hành. Thế nào là thực hành? Chính là không phạm giới. Tôi tin rằng mọi người đều biết ngũ giới là gì, ngũ giới là “không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu”. Năm giới này là rất quan trọng, là tiêu chuẩn, mực thước của người học Phật, nếu mỗi người chúng ta đều có thể tu trì ngũ giới, thực hành ngũ giới thì sẽ không làm mất đi thân người.
Có người nói:
- Không sát sanh, điều này có thể được, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, điều này cần nên giữ, không nên sát sanh; không trộm cắp, điều này cũng nên giữ, không tà dâm, điều này cũng nên giữ gìn; không vọng ngữ, điều này cũng nên giữ. Bốn giới này cần phải giữ là đúng rồi, nhưng tại sao uống rượu cũng nằm trong năm giới? Tại sao phải cấm rượu? Trong cuộc đời của tôi rất thích uống rượu, lại thích hút thuốc nên tôi không muốn học Phật pháp. Tại sao vậy? Vì có một giới điều cấm uống rượu nên không muốn học Phật pháp.
Nhưng quý vị nên tự mình phản tỉnh: hút thuốc có đúng không, uống rượu có nên hay không? Nói là: “Người người đều uống rượu, người người đều hút thuốc, đây là sở thích của con người, có gì sai?” nhưng sở thích của mỗi người, đó đều là “quen rồi nên không thấy”, nhiễm tập thành thói quen, không biết nên làm bậy, nhắm mắt a dua theo người. Người ta uống rượu mình cũng uống rượu, người ta hút thuốc mình cũng hút thuốc. Cứ huân tập hút thuốc, uống rượu mãi, cho đó là bình thường; ngu ngốc không giác ngộ, người ta nói sao mình nói theo vậy, cuối cùng thay hình đổi xác, nghiện ngập ngày càng nặng, tích tập khó trừ, lại còn cãi chày cãi cối, lấp liếm cái xấu của mình, đây quả thật là việc làm đáng buồn. Cần biết dù chưa gây thành bệnh nặng, cũng đã là bệnh nhẹ, dù chưa thành bệnh, cũng thuộc về tật xấu. Hút thuốc uống rượu là tật xấu, cần phải trừ bỏ, vậy mà thà không học Phật, chứ không chừa bỏ rượu thuốc, quý vị xem, thật là ngu xuẩn biết bao!
Tại sao chúng ta cần phải giữ giới rượu? Ở đây giảng cho quý vị nghe một câu chuyện:
Có người phát tâm tin Phật và thọ ngũ giới, chỉ có tật ưa thích rượu chưa bỏ được, nên sau khi thọ giới, giữ giới thứ năm không được. Người đó nghĩ thầm: “Mình chỉ uống có một chút rượu, đâu có sao!” Vì thế muốn uống rượu, nhưng lại không có đồ nhắm rượu - người Trung Quốc uống rượu đều cần có chút đồ nhắm, không giống như người Tây phương chỉ uống rượu không cần đồ nhắm. Lúc đó nhìn thấy con gà hàng xóm đang bơi móc tìm kiếm thức ăn, liền quá vui mừng, bèn bắt lấy.
Bắt con gà liền phạm giới trộm. Bắt con gà làm gì? Giết gà làm đồ nhắm rượu. Giết gà phạm thêm giới sát sanh, như thế trong chớp mắt liên tiếp phạm giới sát, giới trộm cắp, và giới rượu.
Có thịt gà làm đồ nhắm rượu, ăn uống thỏa thích đến say mèm, người vợ hàng xóm đến gõ cửa tìm gà. Anh ta mở cửa, người vợ hàng xóm bước vào hỏi:
- Anh có thấy con gà của tôi chạy qua đây không?
Anh ta lắc đầu lia lịa, nói:
- Không có, tôi không có thấy.
Lúc đó phạm luôn giới vọng ngữ.
Trong lúc khí rượu bừng bừng, anh ta lại thấy cô gái này rất đẹp, nên khởi lòng tà dâm, bèn cưỡng gian cô ta, làm nhiễm ô cô gái này. Sau việc này bị quan bắt, án theo pháp luật trừng trị, nhốt vào nhà tù.
Chỉ vì uống rượu mà người ấy liên tiếp phạm luôn năm giới. Đây là do rượu làm loạn tánh, cho nên Đức Phật ngăn cấm. Uống rượu nhiều thì thân không còn tự chủ; khi không còn tự chủ thì khi trời khi đất, lúc là trời, lúc là đất, đằng văn giá võ, việc gì cũng làm được. Đó vì một chút rượu mà phạm luôn năm giới, cho nên trong năm giới cần phải cấm rượu. Nếu không uống rượu say thì sẽ không làm những việc sai lầm; uống rượu say, rồi làm càn làm bậy, mà chiêu vời đại họa vào thân, thiệt là một đốm lửa nhỏ có thể đốt cháy cả cánh đồng. Nên trong Phật giáo đầu tiên cần phải giữ gìn năm giới, điều này rất quan trọng.
Sau khi quy y Tam bảo, thì thọ ngũ giới; thọ ngũ giới rồi, nếu quý vị không phạm giới thì mỗi một giới có năm vị thiện thần hộ giới bảo hộ cho quý vị. Nếu quý vị phạm giới, các vị thiện thần này chạy hết, không bảo hộ nữa, nên thọ giới trong Phật giáo rất quan trọng.
Cách thọ giới như thế nào? Không phải tự mình xem sách, sách nói “không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu” thì tính là đã thọ giới. Kỳ thật không phải đơn giản tùy tiện như thế. Cũng không phải nói tôi trước bàn Phật thắp hương, hoặc đốt vài cái liều hương, thì gọi là đã thọ giới. Vậy phải làm như thế nào? Người tại gia muốn thọ ngũ giới cần phải thỉnh cầu một vị cao tăng đại đức đến chứng minh truyền giới, mới gọi là thọ giới. Thọ giới xong cần phải giữ giới, như thế mới có công đức bất khả tư nghì. Như thế quý vị muốn thọ giới, nhất định phải ở trước vị tăng sĩ thỉnh cầu giới pháp đó mới hợp pháp.
Tôn chỉ của bộ kinh này chỉ dạy chúng ta tu tập đại định kiên cố, vì tu định thì trí huệ khai mở, nếu không có định lực thì không có huệ lực, không có huệ lực, thì làm sao có thể học Phật được? Vậy thì định lực từ đâu mà đến? Do từ giới mà sanh, bình thường không phóng túng dục tình, dùng đạo tâm xử sự, đó là định; tu định, nguồn gốc ở chỗ thọ giới trì giới mới có thể trong sự tu hành tương ứng với pháp, thấm nhuần trong biển pháp, mà được sự tinh tấn, an lạc vui vẻ. XXX
Nói đến “Định” thì có rất nhiều loại. Nói tóm lại, nếu không bị ngoại cảnh xoay chuyển giao động, đó chính là định. Như thế nào mới có thể đạt được cái định này? Trước hết phải an tĩnh, muốn tĩnh thì phải tham thiền ngồi thiền. Người thường chúng ta không định cũng vì hôm nay đi tây, ngày mai đi đông, thay đổi không thường, cứ giong ruổi khắp nơi, nên không được định. Nếu muốn được định thì phải dụng công tu hành, chúng ta hiện nay ngày ngày tu tập thiền định. Nhưng khi tu tập thiền định, có lúc sanh ra rất nhiều cảnh giới, khi cảnh giới đến, thì không nên bị cảnh giới xoay chuyển, đó chính là định; nếu bị cảnh giới xoay chuyển thì không có định.
Như nhận bức thư, có tin buồn, thì tâm sanh buồn bực, đó là không có định, vừa gặp phải thử thách đã không chịu nỗi; hoặc là gặp việc vui mừng, thì chạy theo cái vui đó, đó cũng không có định; hoặc gặp một việc làm cho mình tức giận, mình liền tức giận, đó cũng không có định, không có thành công về định. Cần phải không hỷ, không nộ, không ai, không lạc; cũng không làm việc bằng các thứ tình cảm hỷ, nộ, ai, lạc, mà phải làm việc bằng đạo tâm, đó là một loại định.
Tu định sau đó mới khai mở trí huệ; nếu không có định lực, thì không có huệ lực; không có huệ lực, thì làm sao mà có thể học tập Phật pháp được? Định lực, huệ lực từ đâu mà đến? Do giới mà sanh ra, nên trước phải thọ giới; thọ giới thì phải giữ giới, sau đó mới có thể tu hành, mới tương ứng với pháp; tương ứng với pháp mới có thể thấm nhuần trong biển Phật pháp.
Nhắc lại môn thứ chín “Lịch minh truyền dịch”. Truyền dịch là Đường, Trung Thiên Trúc Sa môn Bát Thích Mật Đế dịch. Bát Thích Mật Đế (Paramiti) là dịch chủ của đạo trường dịch kinh. Tại sao gọi Ngài là dịch chủ? Vì lúc đó đồng tiến hành phiên dịch bộ kinh này, không chỉ có mình Ngài, mà có rất nhiều Pháp sư tụ họp lại một chỗ cùng nhau phiên dịch. Có khoảng hơn hai trăm vị Pháp sư cùng nghiên cứu phiên dịch bộ kinh này. XXX
Ở trên giảng “Sa môn” là cần tu giới định huệ, tức diệt tham sân si. Ba loại tham sân si này giống như thuốc độc, gọi là “Tam độc”. Nguyên nhân mà chúng ta chưa thành Phật chính là vì ba thứ độc này; nếu ngăn chặn được ba thứ độc này, chúng ta sẽ nhanh chóng thành Phật.
Ba thứ độc là:
1. Tham tâm: là lòng tham không biết chán, bất luận cái gì cũng tham, tham muốn cho nhiều, càng nhiều càng tốt, đó là tham tâm.
2. Sân tâm: là sanh lòng sân nhuế, gặp phải việc gì cũng sanh lòng tức giận, sanh lòng sân hận.
3. Si tâm: chính là si tâm vọng tưởng, vô cùng ngu si, làm việc gì thì cứ hồ đồ hỗn độn, đó là si tâm.
Nếu có thể diệt trừ ba loại này, sẽ cùng với Đạo tương ứng, tu đạo dễ dàng thành tựu đạo nghiệp, đó là ý nghĩa của Sa môn.
Sa môn có bốn loại:
1. Thắng đạo Sa môn: chính là “tu hành chứng quả”, hoặc chứng quả A la hán, hoặc chứng quả Bồ tát; Sa môn chứng quả gọi là Thắng đạo Sa môn.
2. Thuyết đạo Sa môn: là hoằng pháp lợi sanh. Hoằng pháp là hoằng dương Phật pháp, hoằng là rộng lớn, như tôi nay đang giảng kinh cho quý vị, gọi là hoằng pháp. Lợi sanh là lợi ích chúng sanh, khiến cho tất cả chúng sanh được lợi ích, gọi là lợi sanh. Hoằng pháp lợi sanh là Thuyết đạo Sa môn.
3. Hoạt đạo Sa môn: là “tinh tấn trì giữ giới luật”. Hành trì giới luật, tinh tấn nghiên cứu giới luật, rất xem trọng giới luật, không phạm giới, sống đúng theo đạo, lấy việc tu đạo làm sanh hoạt của mình, nên gọi là Hoạt đạo Sa môn.
4. Ô đạo Sa môn: là “Khai trai phá giới”, ăn mặn phạm giới. Người này làm trái ngược với giới luật Phật dạy, đối với Phật giáo có chỗ ô nhiễm, làm ảnh hưởng xấu đến Phật giáo, khiến người nhìn thấy nói: “Người xuất gia này không giữ giới luật”, nên không sanh lòng tin; không sanh lòng tin thì không thân cận Phật giáo. Ô đạo Sa môn thuộc hàng xuất gia làm ô nhiễm Phật đạo.
Vị Sa môn Bát Thích Mật Đế phiên dịch bộ kinh Lăng Nghiêm thì thuộc về loại Sa môn nào? Ngài thuộc về ba loại trước, cũng có thể gọi là Thắng đạo Sa môn, cũng có thể gọi là Thuyết đạo Sa môn cũng có thể gọi là Hoạt đạo Sa môn, chứ không phải là Ô đạo Sa môn. Tại sao phải giảng vị dịch chủ này? Vì sự cống hiến, công đức của Ngài đối với bộ kinh Lăng Nghiêm này rất lớn, cho nên trước khi giảng kinh văn phải giảng đến tên của Ngài trước. Vì điều thứ nhất trong “lịch minh truyền dịch” chính là dịch chủ.
Nguyên văn:
烏萇國沙門彌伽釋迦譯語
Âm Hán Việt:
Ô Trường quốc Sa môn Di Già Thích Ca dịch ngữ.
Giảng:
Trong đạo trường dịch kinh do Pháp sư Bát Thích Mật Đế chủ trì công tác phiên dịch, có một vị trợ thủ, là vị Sa môn từ nước Ô Trường (Udyana) đến Trung Quốc. Ô Trường Quốc: là tên một nước thuộc Ấn Độ, “Ô Trường” còn gọi là “Ô Trường” (烏萇-烏場), trước kia là vườn hoa của vị vua. Vị Sa môn này là cao tăng của nước đó đến Trung Quốc, tên của Ngài là gì? Tên là Di Già Thích Ca (Meghashikara), tên này dịch ra tiếng Hoa là “Năng Hàng Phục”, Ngài có thể hàng phục tất cả phiền não, cũng có thể nói là hàng phục tất cả ma chướng. Tóm lại cái gì Ngài cũng có thể hàng phục. Vị Pháp sư này trợ lý công tác dịch ngữ: Ngài phiên dịch, duyệt sửa câu cú cho đúng từ tiếng Phạn dịch thành Hoa ngữ. Như tiếng Hoa dùng từ gì để phiên dịch từ ngữ Ấn Độ, vị pháp sư này làm công việc dịch ngữ, vị pháp sư này là công tác dịch ngữ, nên lúc đó cũng là một vị pháp sư đảm nhiệm chức vụ quan trọng trong đạo trường phiên dịch.
Nguyên văn:
羅浮山南樓寺沙門懷迪證譯。
Âm Hán Việt:
La Phù sơn Nam Lâu tự Sa môn Hoài Địch chứng dịch.
Giảng:
Cũng giống như trong quyển kinh này, thông thường đều không có tên của vị pháp sư mà tôi viết ở đây, quý vị có thể thêm vào, vì các bổn xưa đều có vị “Chứng dịch” này. Vị pháp sư này là người ở đâu? Ngài là La Phù sơn Nam Lâu tự Sa môn: “La Phù sơn”, là một trong những ngọn núi nổi tiếng ở tỉnh Quảng Đông, “Nam Lâu tự” là ngôi chùa mà Sa môn Hoài Địch cư trú.
Hoài Địch chứng dịch: Ngài làm công việc chứng minh, chứng minh như thế nào? “Chứng” có nghĩa là chứng minh, bảo chứng.
Khi sư phụ của Ngài đặt pháp danh Hoài Địch cho Ngài, cầu mong Ngài tinh tấn dụng công, cho nên đặt tên này, vì Hoài là hoài bảo, Địch có nghĩa là “Tấn”, có nghĩa là thường thường tinh tấn, lập chí tu hành, không nên nghỉ ngơi, không nên làm biếng. Pháp sư Hoài Địch học vấn uyên bác, bình thời nghiên cứu kinh giáo, hiểu rõ giáo lý kinh điển, dung hợp quán thông, giỏi Phạn ngữ Ấn Độ, cho nên có thể đương nhậm chức vụ chứng dịch trong đạo trường dịch kinh thời đó.
Pháp sư Bát Thích Mật Đế và Pháp sư Di Già Thích Ca đều am tường, tinh thông Phạn văn, Hoa văn, nhưng tại sao lại mời một vị Pháp sư Trung Quốc làm người chứng dịch? Vì hai Ngài tuy là thông suốt Trung văn và Phạn văn, nhưng mới đến Trung Quốc, sợ rằng không hoàn toàn triệt để hiểu hết tiếng Hoa, nên đặc biệt mời một vị Pháp sư Trung Quốc đến tham gia giúp đỡ chứng dịch, để cầu toàn thiện toàn mỹ, nên Pháp sư Hoài Địch là vị chứng minh bản dịch trong đạo trường phiên dịch bộ kinh này.
Pháp sư Hoài Địch là vị chứng dịch bộ kinh này. Nhưng mà trong các bản kinh điển gần đây thì không có nhắc đến tên Pháp sư Hoài Địch, các bổn xưa thì có. Tại sao ai lại lược bỏ tên của vị pháp sư này? Nay thì không có cách nào khảo sát được, nhưng tôi hy vọng mọi người đã biết được vị chứng dịch này là ai, nên nay tôi khi giảng bộ kinh Lăng Nghiêm cũng đặc biệt đề cập cho mọi người biết.
Nguyên văn:
菩薩戒弟子 前正議大夫 同中書門下 平章事 清河房融 筆受
Âm Hán Việt:
Bồ tát giới đệ tử tiền Chánh nghị đại phu đồng Trung thư Môn hạ Bình chương sự Thanh Hà Phòng Dung bút thọ.
Giảng:
Bồ tát giới đệ tử: “Bồ tát giới” tổng cộng có mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh, là giới pháp tu học Bồ tát đạo, cũng thuộc giới pháp đại thừa, là giới mà người xuất gia và người tại gia đều nên thọ trì. Bồ tát Phạm Võng giới Kinh nói: Bất luận là Quốc vương, bá quan văn võ đại thần, khi kế vị, khi ra làm quan, đều nên thọ Bồ tát giới. Phòng Dung là Thừa tướng, đối với nghĩa lý Đạo Phật, ông ta hiểu rất sâu sắc, vì nhận Phật làm cha, Bồ tát là anh, cho nên gọi ông ta là “Bồ tát giới đệ tử”. Bồ tát giới có bao nhiêu? Có mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, có mười loại đặc biệt quan trọng, bốn mươi tám loại thì nhẹ một chút, cho nên sau khi thọ giới Bồ tát tự xưng là đệ tử.
Sau khi thọ giới Bồ tát, ông ta làm “Tiền chánh nghị đại phu”. “Tiền” (Former) tức lúc trước, lúc trước làm, chứ không phải hiện nay làm Chánh nghị đại phu. “Chánh nghị”, sách Sử Ký gọi là “Chánh gián”, “Gián nghị đại phu”. Gián nghị là chức quan quản lý việc gì? Chính là “Ngôn quan”. “Ngôn quan” là gì? Quốc gia có việc gì không đúng, người này sẽ khuyến gián, sẽ phê bình. Có triều đại gọi là “Ngự sử”, tức là đất nước này có việc gì sai lầm, quan “Ngự sử” sẽ phê bình. Đại phu là một cách xưng hô của quan chức.
Đồng trung thư môn hạ: “Trung thư, môn hạ” đều là tên của phủ thừa tướng. Trung thư là phụ trách công văn giấy tờ chiếu thư của vua. Những hiệu lệnh của nhà vua ban ra đều do Thừa tướng Trung thư quản lý. Môn hạ là vị quan lo về việc hành chánh. Môn hạ là quản lý các việc chính phủ, trung thư là quản lý việc của vua. Nên hai chức Thừa tướng, một là quản lý phụ trách phát ra hiệu lệnh, một phụng hành thực hiện các hiệu lệnh đó.
“Đồng” (Concurrently) có hai cách giải thích:
Một là kiêm đồng, tức nói một người kiêm hai chức Tả - Hữu Thừa tướng, “Trung thư” là Thừa tướng, “Môn hạ” lại là Thừa tướng, một người kiêm cả hai chức Tả Hữu Thừa tướng, nên gọi là đồng Trung thư Môn hạ. Cách giải thích khác có nghĩa là đồng liêu với Trung thư, Môn hạ; Đồng liêu là đồng đẳng, cùng chung làm việc.
Bình chương sự: “Bình” là bình quân; “Chương” là rõ rệt, sáng rõ. Làm sáng tỏ các việc này, chính là đối với tất cả công việc của triều đình cần phải bình quân. “Sự” là sự vụ, có nghĩa là các chức vụ. “Bình chương sự” là công bằng xử lý chánh sự, làm sáng rõ pháp độ.
Thanh Hà Phòng Dung: “Thanh Hà” là tên của một địa phương, cũng chính là quê hương của Phòng Dung. “Phòng Dung” là tên người, họ Phòng tên Dung, Dung có nghĩa là viên dung, có con Phòng Quản, hai cha con đều làm quan đến chức Thừa tướng, sự tích về Phòng Dung rất ít, phần nhiều là được ghi từ trong ký sự của người con Phòng Quản.
“Bút thọ” là dùng văn bút nhuận sắc ý của kinh văn, gọi là người nhuận văn. Nhuận chính là làm cho chương cú ngữ pháp, văn lý, từ nghĩa tốt đẹp tuyệt diệu hơn. Nên kinh Lăng Nghiêm cách hành văn dùng từ đều rất ưu mỹ, có thể xưng tán bậc nhất trong các kinh, không kinh nào hơn được? tại sao vậy? Vì Thừa tướng Phòng Dung là một nhà văn học vĩ đại, rất có học vấn, do chính ông ta nhuận sắc kinh này, nên văn chương của bộ kinh này rất hay. Quý vị nếu có chí học Trung văn thì bộ kinh này cũng đủ làm quy phạm cho quý vị. Quý vị đọc nhuyễn, đọc thuộc, thì tiếng Hoa của quý vị sẽ khá, sẽ nâng cao trình độ. Người Trung Quốc chưa đọc được văn chương của bộ kinh này nhiều không biết bao nhiêu.
Lời Ban biên tập: dưới đây là lời giảng của Thượng nhân trong buổi tọa đàm về chủ đề “Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực” ngày 8 tháng 6 năm 1987.
Quý vị nhìn chỗ này, phía trước có ba vị pháp sư, phía sau có một vị cư sĩ; vị cư sĩ này đáng lẽ phải để trước vị pháp sư “Chứng dịch”, nhưng vì vị ấy là cư sĩ, cho nên để vị ấy ra phía sau. Pháp sư Hoài Địch là vị chứng dịch đương thời, Ngài không nhất định hiểu tiếng Phạn, nhưng Ngài chứng minh tiếng Trung được phiên dịch ra, ý nghĩa đều hoàn toàn chính xác, vì thế nói Ngài là “Chứng Dịch”. Vậy thì bốn người có thể dùng “bốn bước” phiên dịch chúng ta để thuyết minh.
1. Phiên dịch: Đây là “Sơ dịch”, cũng là bản thảo.
2. Dịch ngữ: là sửa chữa.
3. Bút thọ: cũng chính là nhuận sắc.
4. Chứng dịch: cũng chính là chứng ngữ
Điều này rất phù hợp với bốn bước phiên dịch của chúng ta hiện nay.
Quý vị không biết có nhìn thấy chỗ này không? Tại sao “Phòng Dung bút thọ?” Vì Phòng Dung là một nhà văn học rất có học vấn thời đó, cũng là một vị quan cao quyền quý, có địa vị, lại có học vấn, lại tin Phật pháp, vì vậy, ông lại phát tâm cùng nghiên cứu Phật pháp. Vấn đề ở đây không phải nói đáng tin hay không đáng tin, hoặc có thể nương tựa hay không nương tựa, đó chính là ông ta là một người tin tưởng Phật giáo, học vấn giỏi, lại là người có quyền cao chức trọng thời đó. Cho nên nếu phiên dịch kinh điển, cũng cần có sự ủng hộ của chính phủ quốc gia, mới có thể hoàn thành. Dường như lúc đó có mấy trăm người, mấy ngàn người phiên dịch kinh điển, nếu không có sức mạnh của quốc gia, thì không ai có thể làm được.
Chúng ta hiện nay ở phương Tây phiên kịch kinh điển, đây là một việc mới bắt đầu, là bước đầu tiên; tương lai nếu có sức mạnh lớn, có đại thiện trí thức, thì sẽ có rất nhiều người cùng nhau làm việc này, không phải quy mô nhỏ như hiện nay vậy. Mọi người đối việc này cần phải nhận biết rõ ràng! Cho nên “Lịch minh truyền dịch” có bốn bước, có bốn người, quý vị cần phải biết.
Buổi tọa đàm Chủ Quan Trí Năng Suy Động Lực đến đây là hết
Thập: Biệt Giải Văn Nghĩa
MỤC LỤC
QUYỂN THỨ NHẤT
(KINH TIỀN HUYỀN ĐÀM)
Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh.
KINH TIỀN HUYỀN ĐÀM..
Kinh Lăng Nghiêm là chân thân của Đức Phật
Kinh Lăng Nghiêm tồn tại, Phật Pháp sẽ tồn tại
Kính chiếu yêu, chày hàng ma, kiếm chém ma của Phật Giáo
Đa tầng học tập Kinh Lăng Nghiêm..
Lời tựa của ban biên tập.
Hình ảnh.
Kinh Tiền Huyền Đàm..
Mười môn phân biệt
Nhất: Tổng Thích Danh Đề.
I. Thất chủng lập đề: bảy loại đặt tên kinh.
II. Thích Đại Phật Đảnh.
III. Thích Như Lai Mật Nhân.
IV. Thích Tu Chứng Liễu Nghĩa.
V. Thích Chư Bồ Tát Vạn Hạnh.
VI. Thích Thủ Lăng Nghiêm..
VII. Thích Kinh.
Nhị: Giáo Khởi Nhân Duyên.
I. Tổng nhân duyên.
II. Biệt Nhân Duyên.
1. Nhân duyên thứ nhất là: “Thị đa văn, hốt định lực”
2. Nhân duyên thứ hai là: “Cảnh cuồng huệ, hộ tà tư”
3. Nhân duyên thứ ba là: “Chỉ chân tâm, hiển căn tánh”
4. Nhân duyên thứ tư là: “Thị tánh định, khuyên thật chứng”
5. Nhân duyên thứ năm là: “Tiêu đảo tưởng, trừ tế hoặc”
6. Nhân duyên thứ sáu “Minh nhị môn, lợi kim hậu”
Tam: Tạng Thừa Nhiếp Thuộc.
Tứ: Nghĩa Lý Thâm Thiển.
Ngũ: Năng Thuyên Giáo Thể.
Lục: Sở Bị Cơ Nghi
Thất: Tông Thú Thông Biệt
Bát: Thuyết Thời Tiền Hậu.
Cửu: Lịch Minh Truyền Dịch.
Thập: Biệt Giải Văn Nghĩa.
[1][1]. Hành giải : gọi chung Hành và Giải. Hành có nghĩa là tu hành, tức y theo giáo lý mà tự thân thực hành ; Tri là tri giải, trí giải, nhận thức, tức do thấy nghe học tập mà hiểu rõ lãnh hội giáo lý。Do thấy nghe học tập mà hiểu rõ lãnh hội giáo lý, từ đó thực hành theo những giáo lý đã hiểu. Hiểu chân lý và tu hành là hành giải tương ưng, hành giải cụ túc, khai giải lập hành. Giải và hành ví dụ như hai cánh của con chim, như hai bánh của chiếc xe, thiếu một không được, cũng là y giải mà khởi hành, y hành mà thực giải. Giải và hành đều là pháp môn căn bổn của người học đạo, nên chia thành giải học và hành học.
[2][2]. Đệ nhất Triền đà la ni : trong 3 thứ đà la ni mà trong Kinh Pháp hoa Phẩm Phổ Hiền khuyến phát có đề cập đến. Tức triền chuyển tâm phàm phu chấp trước chư pháp hữu tướng, khiến cho đạt trí lực lý không, bình đẳng không.